1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Hoạt động quản lý và khai thác biển đảo ở đông nam bộ từ đầu thế kỷ xx đến năm 1945 tập 2

149 20 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hoạt Động Quản Lý Và Khai Thác Biển Đảo Ở Đông Nam Bộ Từ Đầu Thế Kỷ XX Đến Năm 1945
Tác giả Nguyễn Văn Hiệp, Phạm Ngọc Trâm
Trường học Bình Dương
Thể loại tập
Năm xuất bản 2017
Thành phố Bình Dương
Định dạng
Số trang 149
Dung lượng 2,57 MB

Cấu trúc

  • 1.1. Tình hình Đông Nam Bộ những năm đầu thế kỷ XX (4)
  • 1.2. Hoạt động quản lý biển đảo ở Đông Nam Bộ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945 (7)
  • 1.3. Khai thác biển đảo Đông Nam Bộ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945 (14)
  • 2.1. Mở đầu (25)
  • 2.2. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng biển đảo Việt Nam miền Đông Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX (26)
  • 2.3. Tiểu kết luận chuyên đề (41)
  • 3.1. Đặt vấn đề (42)
  • 3.2. Nghề làm muối (43)
  • 3.3. Nghề chế biến hải sản (46)
  • 3.4. Tiểu kết luận chuyên đề (53)
  • 4.1. Đặt vấn đề (56)
  • 4.2. Nghề đóng thuyền ở Đông Nam Bộ đầu thế kỷ XX (57)
  • 4.3. Nghề đan lưới ở Đông Nam Bộ đầu thế kỷ XX (74)
  • 4.4. Tiểu kết luận chuyên đề (86)
  • 5.1. Đặt vấn đề (87)
  • 5.2. Hoạt động thương mại Đông Nam Bộ trong những năm đầu thế kỷ XX (89)
  • 5.3. Hoạt động vận tải biển Đông Nam Bộ đầu thế kỷ XX (98)
  • 6.1. Đặt vấn đề (112)
  • 6.2. Những chuyển biến trong đời sống văn hóa và xã hội ở biển đảo Việt Nam miền Đông Nam Bộ đầu thế kỷ XX (114)
  • 6.3. Tiểu kết luận chuyên đề (140)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (142)

Nội dung

Tình hình Đông Nam Bộ những năm đầu thế kỷ XX

Vào ngày 1 tháng 9 năm 1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã tấn công bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, đánh dấu sự khởi đầu của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam Kế hoạch xâm lược này đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử đất nước.

Cuộc tấn công "đánh nhanh, thắng nhanh" của đoàn quân xâm lược đã bị chặn lại tại mặt trận Đà Nẵng, dẫn đến việc vào đầu tháng 2 năm 1859, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã chuyển hướng tấn công vào thành Gia Định.

Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhà Nguyễn đã thất bại và vào năm 1862, Phan Thanh Giản đại diện cho Nhà Nguyễn đã ký Hiệp ước nhường quyền cai quản ba tỉnh miền Đông Nam Bộ cho Pháp, với đô đốc Bô-na đại diện cho Pháp Thực dân Pháp đã coi nhân dân ở ba tỉnh này là "thần dân mới của Hoàng đế Napoléon", từ đó bắt đầu khai thác Đông Nam Bộ một cách quy mô.

Thực dân Pháp xây dựng bộ máy chính quyền thực dân ở Đông Nam Bộ (từ

Năm 1862 đánh dấu thời kỳ quân sự, trong khi năm 1879 chuyển sang chế độ dân sự, thiết lập quản lý trực tiếp để tối ưu hóa khai thác tài nguyên phục vụ cho chiến tranh Tuy nhiên, ở nông thôn, chế độ tự trị truyền thống của làng xã vẫn được duy trì Bộ máy tay sai người Việt tiếp tục phát huy vai trò qua các chức sắc ở hương thôn, và sự phân chia trách nhiệm về thuế, sưu dịch, quân dịch giữa các dân làng vẫn tồn tại như trước khi Pháp xâm lược.

1 Bulletin officiel de l’expédition de Cochinchine (B.O.E.C.) (Tập san chính thức của cuộc chinh phục Nam Kỳ),

Từ năm 1882, thực dân Pháp đã thành lập hội đồng tư vấn tại mỗi tỉnh Đông Nam Bộ nhằm thu thập ý kiến về các vấn đề hành chính Quy chế tổ chức và hoạt động của các hội đồng này đã trải qua nhiều lần sửa đổi, và mặc dù không hoàn toàn độc lập, chúng vẫn có một số quyền lực thực tế trong việc biểu quyết các loại thuế của tỉnh.

Thuế là nguồn thu chủ yếu của thực dân Pháp tại Đông Nam Bộ, với nhiều loại thuế được áp dụng nặng nề hơn so với thời nhà Nguyễn Thuế điền thổ, bắt đầu từ 5 phơ răng một mẫu vào năm 1864, đã tăng gấp đôi lên 10 phơ răng vào năm 1873 Thuế thân cũng tăng từ 2 phơ răng mỗi dân đinh lên 10 phơ răng Ngoài các loại thuế chính, còn có nhiều loại thuế khác như thuế thuyền bè, thuế môn bài, thuế muối, thuế xuất khẩu gạo và thuế lưu trú của Hoa-kiều Chính quyền thực dân Pháp đã áp đặt những gánh nặng thuế này lên người dân địa phương.

Kỳ đã thiết lập các loại thuế mới như thuế rượu, thuế nha phiến và thuế cờ bạc, giúp Nam Kỳ tận thu ngân sách Nhờ vào việc áp dụng nhiều sắc thuế, vào năm 1876, Nam Kỳ đã có khả năng chi trả các khoản phí và nộp cho công khố Pháp 2.200.000 phơ răng.

Từ năm 1911 đến 1930 nguồn thu ngân sách từ thuế ở Nam Kỳ luôn tăng đều đặn hằng năm 2

Nguồn thu từ thuế ổn định đã giúp chính quyền thực dân Pháp ở Đông Nam Bộ từ đầu thế kỷ XX củng cố bộ máy chính quyền và khai thác tài nguyên thiên nhiên Họ kết hợp nền kinh tế - xã hội truyền thống với các phương thức tư bản chủ nghĩa, sử dụng thuế và công trái để đầu tư vào cơ sở hạ tầng như giao thông, hải cảng và thủy lợi Chính quyền Pháp cũng khuyến khích các nhà tư bản Pháp đầu tư vào nông nghiệp, công nghiệp và ngoại thương, tạo ra những thay đổi mới trong hoạt động kinh tế của khu vực.

Hệ thống giao thông thời kỳ đó bao gồm quốc lộ I A, trước đây gọi là đường thuộc địa số 1, được xây dựng trên nền tảng của con đường thiên lý Bắc – Nam từ thời nhà Nguyễn, kết nối Hà Nội với Sài Gòn Ở phía Nam, chính quyền Pháp đã tiến hành xây dựng thêm nhiều con đường khác.

2 Paul ISOART, Le phénomène national vietnamien Paris, 1961, tr tr 206

3 nối liền giữa Sài Gòn với Vũng Tàu, Đà Lạt, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bạc Liêu và Cà Mau

Sự phát triển của hệ thống giao thông đường bộ đã cải thiện đáng kể khả năng di chuyển giữa các tỉnh, thành phố trong khu vực Đông Nam Bộ, đồng thời nâng cao vai trò trung tâm của các đô thị lớn như Sài Gòn, Vũng Tàu, Thủ Dầu Một và Biên Hòa.

Người Pháp đã xâm lược Việt Nam qua đường biển, chiếm Sài Gòn – Gia Định từ cửa biển Vũng Tàu, dẫn đến việc xây dựng hệ thống cảng biển và phát triển giao thông đường thủy được chính quyền thực dân đặc biệt chú trọng Giá cước vận tải đường biển luôn rẻ hơn so với các phương tiện khác Kể từ năm 1860, khi quân Pháp bắt đầu chiếm đóng Nam Bộ, cảng Sài Gòn đã trở thành một trong những thương cảng quan trọng nhất ở Viễn Đông, có khả năng tiếp nhận đồng thời 40 tàu trọng tải lớn Lượng lúa gạo xuất khẩu từ cảng Sài Gòn đã tăng mạnh, đạt 747.000 tấn vào năm 1900 và 1.548.000 tấn vào năm 1937.

Trade activities flourished in Saigon, leading to the emergence of numerous foreign import-export companies such as Denis Frères d’Indochine, Société Marseillaise d’Outre-Mer, and others These firms, including Etablissements Boy Landry, Dumarest d’Indochine, and Comptoirs Généraux de l’Indochine, held monopolies that controlled the trade between Vietnam and France.

Chính sách khai thác đất đai của thực dân Pháp là mục tiêu hàng đầu, tiếp nối giai đoạn chinh phục quân sự và là nền tảng cho toàn bộ chính sách thuộc địa Chính quyền thực dân nhấn mạnh việc khai thác các vùng lãnh thổ rộng lớn đã chiếm được, thiết lập đồn điền và phát triển sức sản xuất của thuộc địa, từ đó thúc đẩy mối quan hệ thương mại với chính quốc.

Tại Đông Nam Bộ, đất đai còn hoang hóa nhiều nhưng lại bị tập trung trong tay một số địa chủ, trong khi phần lớn nông dân chỉ là người phân canh hay tá điền Chính quyền thực dân đã cấp phát những diện tích ruộng đất rộng lớn cho các địa chủ tay sai, thay vì áp dụng các phương pháp canh tác mới và khoa học, họ lại chia nhỏ đất đai để giao cho tá điền, từ đó bốc lột chủ yếu thông qua địa tô.

3 Nguyễn Thế Anh (1970), Việt Nam thời Pháp đô hộ, Lửa thiêng, Sài Gòn, tr.184

Bài viết của Lê Khoa (1969) tập trung vào tình hình kinh tế Đông Dương từ năm 1900 đến 1939, đồng thời trình bày kế hoạch tái thiết và trang bị canh tân khu vực này Nội dung được dịch và bình luận dựa trên nguyên tác của Ủy ban kế hoạch Pháp, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về những biến động kinh tế trong giai đoạn lịch sử quan trọng này.

Hoạt động quản lý biển đảo ở Đông Nam Bộ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945

Việc ký kết hiệp ước Harmand và thành lập Liên bang Đông Dương vào năm 1887 đã thúc đẩy xuất khẩu gạo, nông sản và hàng hóa ở Nam Bộ, từ đó ảnh hưởng sâu sắc đến quản lý biển đảo tại khu vực Đông Nam Bộ.

Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam qua đường biển, nhận thức rõ tầm quan trọng của lực lượng hải quân và các bến cảng Họ thấy Sài Gòn là một vị trí chiến lược, dễ dàng tiếp cận cho quân đội và là nguồn cung cấp lương thực cho kinh thành Huế Nam Kỳ, với khả năng tự cung tự cấp, có thể nuôi sống dân cư gấp 20 lần nhu cầu, không cần viện trợ như các thuộc địa khác Hơn nữa, hệ thống cảng và sông ngòi thuận lợi cho tàu lớn di chuyển và vận chuyển hàng hóa, tạo điều kiện cho thương mại phát triển mạnh mẽ.

Thực dân Pháp đã nhận thức rõ tầm quan trọng của biển đảo Đông Nam Bộ, coi đây là một bàn đạp chiến lược để thực hiện các kế hoạch xâm lược trong khu vực.

5 Trần Văn Giàu (1985), "Lược sử thành phố Hồ Chí Minh", Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr.249

6 Nguyễn Phan Quang (1997), "Nam Kỳ Sài Gòn năm 1863 dưới mắt thực dân Pháp", Tạp chí Xưa và Nay SỐ36B thánh 2/1997

Thực dân Pháp đã chiếm đóng 5 tỉnh Nam, Bắc và Trung Kỳ, đồng thời đặt Cao Miên dưới sự đô hộ của họ, sử dụng Sài Gòn làm đầu mối trung chuyển hàng hóa ra thị trường thế giới Họ tập trung vào việc khai thác vị thế biển đảo của Đông Nam Bộ, đặc biệt là xây dựng cảng Sài Gòn và phát triển du lịch biển Vũng Tàu, biến Sài Gòn thành trung tâm kinh tế của khu vực J Bouchot đã ghi nhận rằng người Pháp đã biến cảng Sài Gòn thành một điểm trao đổi hàng hóa xuất sắc.

Sài Gòn, nằm giữa hai con sông lớn Cửu Long và Đồng Nai, là cửa ngõ quan trọng cho hệ thống đường thủy kết nối Nam Kỳ với Lào và Campuchia, đồng thời ra biển Cảng Sài Gòn thông qua cửa biển Cần Giờ, liên kết với mạng lưới kênh rạch dày đặc ở Sài Gòn và Nam Bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu và giao thương giữa Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ.

Vào những năm đầu thế kỷ XX, Pháp nhận thức rõ vị thế chiến lược của Sài Gòn và Vũng Tàu trong việc quản lý và khai thác biển đảo Đông Nam Bộ Họ đã đầu tư mạnh mẽ vào việc phát triển Sài Gòn thành trung tâm giao thông quan trọng, kết nối Đông và Tây của Nam Bộ, mở rộng đến những vùng đất mới khẩn hoang, kéo dài tới Nam Vang và kinh thành Huế.

Với nguồn tài nguyên phong phú, đặc biệt là tài nguyên vị thế của Đông Nam

Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng tại Đông Nam Bộ, bao gồm bến cảng, nạo vét đường sông, và mở rộng hệ thống đường bộ cùng thông tin liên lạc Năm 1862, họ đã xây dựng đường dây thông tin liên lạc dài 157 km từ Sài Gòn đến Vũng Tàu và lắp đặt hệ thống cáp ngầm kết nối Sài Gòn với các quốc gia khác qua Vũng Tàu vào năm 1871 Để kiểm soát đường thủy quan trọng và bảo vệ Sài Gòn, Pháp đã xây dựng đồn bốt, công sự và các trận địa pháo tại Vũng Tàu Đầu thế kỷ XX, họ tiếp tục nâng cấp hệ thống đường bộ, rải đá tuyến đường liên tỉnh ven biển, bao gồm các con đường từ Sài Gòn đi Bà Rịa và các tỉnh lân cận, đồng thời mở rộng kết nối với các đồn điền và bến cảng.

7 Henri Cucheroustest (1924), La Cochinchine à la Foire de Hanoi 1923 Edition de 1'Eveil Economique, Hanoi, tr.90

Kinh tế vùng Đông Nam Bộ được phát triển nhờ vào hệ thống giao thông thủy thuận lợi, tạo điều kiện cho việc đi lại và lưu thông hàng hóa giữa các địa phương Từ đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã tập trung phát triển giao thông thủy bằng cách nạo vét và mở rộng các kênh rạch, giúp vận chuyển lúa gạo từ các vùng sản xuất vào giang cảng Chợ Lớn và cảng Sài Gòn Hệ thống giao thông liên hoàn giữa đường biển, đường sông và đường bộ đã được hình thành, góp phần kích thích nền kinh tế hàng hóa phát triển Chính quyền Pháp cũng đã xây dựng nhà máy xay gạo đầu tiên tại Sài Gòn và khơi thông ngoại thương, tận dụng lợi thế của dòng chảy kênh đào Nam Bộ để phát triển vùng đất này.

Việc phát triển vùng đất này liên quan đến việc mở rộng và khai thông các kênh để phục vụ vận chuyển hàng hóa vào Sài Gòn Theo ghi chép của Sơn Nam, vào năm 1866, Pháp đã cho mở rộng kênh Bảo Định, tiếp theo là kênh Bến Lức, kênh Chợ Gạo và kênh Trà Ôn vào năm 1875.

Để tăng cường quản lý biển đảo vùng Đông Nam Bộ, vào đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp không chỉ đầu tư phát triển Sài Gòn mà còn chú trọng đến Bà Rịa – Vũng Tàu, xây dựng Cap Saint Jacques thành một thành phố đa chức năng, phục vụ cả phòng thủ và nghỉ dưỡng Sự phát triển đường sá và dịch vụ đã biến Vũng Tàu thành một thành phố biển sầm uất với các chợ đầu mối hoạt động nhộn nhịp, đóng góp quan trọng vào sự chuyển biến kinh tế - xã hội của tỉnh Để phục vụ bộ máy chính quyền thực dân, từ cuối thế kỷ XIX, viện điều dưỡng Sanatorium du Cap Saint Jacques được xây dựng tại Vũng Tàu, và năm 1895, một trạm cứu thương được lập ở Bến Đình, sau đó mở rộng thành Viện quân y vào đầu thế kỷ XX.

Viện hồi lực làm nơi nghỉ dưỡng cho bệnh binh người Pháp

Trong tư duy của thực dân Pháp, vùng biển đảo Đông Nam Bộ không chỉ có giá trị chiến lược trong việc khai thác tài nguyên mà còn mang ý nghĩa quân sự đặc biệt.

Sau khi ổn định tình hình vào đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã xây dựng nhiều cơ sở hậu cần, cứ điểm quân sự và nơi nghỉ ngơi, dưỡng bệnh tại Việt Nam Đặc biệt, họ cũng đã xây dựng nhiều nhà tù, trong đó có nhà tù Chí Hòa và Khám, là những nhà tù đầu tiên và nổi bật nhất thời bấy giờ.

Bà Rịa - Vũng Tàu, với Vũng Tàu và ngục Côn Đảo nổi bật, đóng vai trò là cửa ngõ giao thông quan trọng nối liền Bắc và Nam Khu vực này không chỉ là trung tâm giao thương mà còn là điểm trung chuyển tù chính trị từ Sơn La và Hỏa Lò, góp phần vào lịch sử và văn hóa đặc sắc của miền Đông Nam Bộ.

Lò và Khám Lớn-Sài Gòn ra Côn Đảo

Vào những năm đầu thế kỷ XX, chính quyền thực dân Pháp đã tiến hành quản lý biển đảo tại Vũng Tàu bằng cách xây dựng hệ thống đồn bốt và công sự, lắp đặt trận địa pháo trên núi Lớn và núi Nhỏ Họ đã biến Vũng Tàu thành tiền đồn cho bộ máy chính quyền ở Nam Kỳ với hai chức năng chính: bảo vệ an ninh và chủ quyền biển đảo phía Nam Việt Nam, đồng thời phòng thủ Sài Gòn từ hướng Đông Paul Doumer, Toàn quyền Đông Dương thời kỳ này, nhấn mạnh rằng việc tăng cường phòng thủ Cap Saint Jacques là cần thiết để đảm bảo an toàn cho thành phố Sài Gòn.

Hệ thống trận địa pháo Vũng Tàu, được khởi công vào năm 1885 và hoàn thành vào năm 1905, là một công trình kiên cố và hiện đại nhất Đông Dương thời bấy giờ, phục vụ cho mục đích phòng thủ và kiểm soát cửa biển miền Đông Nam Bộ Nằm ở độ cao 100m so với mực nước biển, hệ thống này bao gồm 23 khẩu trọng pháo, mỗi khẩu được đặt trong công sự hình tròn có đường kính hơn 10m, kết nối với nhau qua hệ thống giao thông hào và hầm trú ẩn Để xây dựng trận địa pháo lớn nhất lúc đó, thực dân Pháp đã sử dụng lao động khổ sai của người dân để khai thác đá, làm đường và đào hào bằng phương tiện thô sơ.

Trận địa pháo Vũng Tàu phân chia thành ba cụm: Trận địa pháo Núi Lớn, Trận địa pháo Tao Phùng và Trận địa pháo Cầu Đá

Trận địa pháo Núi lớn gồm có 6 khẩu trọng pháo do Pháp chế tạo từ năm 1872-

1876, được đặt trên bệ, bố trí theo hình vòng cung, mỗi khẩu cách nhau khoảng 17,5m

8 Thạch Phương – Nguyễn Trọng Minh, Địa chí Bà Rịa – Vũng Tàu, Tlđd, tr.234

Khai thác biển đảo Đông Nam Bộ từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945

Sức mạnh của chủ nghĩa tư bản phương Tây vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX chủ yếu thể hiện qua quyền lực trên biển Sự đe dọa và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc đối với Việt Nam và nhiều quốc gia kém phát triển khác xuất phát từ hướng biển Vùng biển đảo Đông Nam Bộ từng là nơi diễn ra nhiều biến động, đặc biệt trong thời kỳ Nguyễn Ánh phải chạy trốn khỏi sự truy đuổi của nhà Tây Sơn Tại đây, Việt Nam đã sớm phải đối mặt với cuộc xâm lược vũ trang của liên quân Pháp – Tây Ban Nha vào năm 1859, đánh dấu sự khởi đầu của cuộc xâm lược toàn bộ Nam Bộ.

Sau khi chiếm đóng Đông Nam Bộ, thực dân Pháp nhanh chóng triển khai kế hoạch khai thác thuộc địa, tập trung vào việc cải tạo và phát triển hệ thống giao thông đường thủy Hai mục tiêu chính của họ là khai thác kinh tế và áp dụng chiến lược bình định để đàn áp các cuộc nổi dậy.

14 Trung tâm Lưu trữ quốc gia II KH: IA2/1316 (4)

Tại Đông Nam Bộ, sự hiện diện của tư bản Pháp đã dẫn đến việc hình thành hai loại đồn điền lớn: đồn điền trồng lúa và đồn điền cao su, đánh dấu sự đổi mới trong khai thác của Pháp tại Nam Bộ Vào đầu thế kỷ XX, các công ty như Công ty cao su Đồng Nai (1908), Công ty đồn điền đất đỏ (1910) và Công ty cao su Viễn Đông (CEXO) đã được thành lập để khai thác các đồn điền cao su lớn tại miền Đông Nam Kỳ, với nhiều địa điểm nổi bật như Trảng Bom, Cây Gáo và Quản Lợi.

In 1910, two major rubber plantations were established in Vietnam: the Tây Ninh Rubber Company (Société des Hévéas de Tây Ninh), founded in 1913, and the Indochina Rubber Company (Société Indochinoise des Plantations d'Hévéas, abbreviated as S.I.P.H), which was founded in 1906.

Công ty các đồn điền cao su Michelin, được thành lập năm 1917, sở hữu nhiều đồn điền lớn như Dầu Tiếng và Phú Riềng Mặc dù vốn đầu tư ngày càng tăng, hoạt động của các công ty này trong giai đoạn trước Chiến tranh thế giới thứ nhất chủ yếu chỉ dừng lại ở việc trồng thử nghiệm mà chưa phát triển khai thác quy mô lớn Đến năm 1918, thực dân Pháp đã chiếm khoảng 184.700 ha đất đai ở Nam Bộ để làm đồn điền, trong đó chỉ có khoảng 7.400 ha được sử dụng để trồng cao su, với sản lượng khai thác chỉ đạt khoảng 150-200 tấn mủ cao su mỗi năm (số liệu năm 1914).

Vào đầu thế kỷ XX, Bà Rịa – Vũng Tàu chứng kiến sự xuất hiện của các đồn điền do các ông chủ tư bản người Pháp đầu tư, chuyên trồng mía, cao su và dừa Một trong những đồn điền nổi bật là Sở dừa ông Tám, được thành lập tại làng Bông Trang – Xuyên Mộc, với diện tích hàng chục hecta và thu hút nhiều lao động từ các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên.

Bà Rịa – Vũng Tàu, với khí hậu và đất đỏ, đất xám của miền Đông Nam Bộ, rất thích hợp cho việc trồng cây cao su Sau khi thành công trong việc ươm giống và trồng thử nghiệm ở Thủ Dầu Một và Suối Dầu, thực dân Pháp đã đầu tư và chiếm đất để mở các đồn điền cao su tại khu vực này Năm 1908, họ lập đồn điền cao su đầu tiên tại Bình Ba, mang tên Gallia Theo tài liệu của Công ty cao su Bà Rịa, đến năm 1930, đồn điền Bình Ba đã có 1.598 công nhân Đến năm 1935, đồn điền này phát triển thêm các phân xưởng Xà Bang, Xuân Sơn, Sông Cầu, dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng số lượng công nhân cao su từ hai nguồn chính.

13 đồng bào trong vùng bị cướp đất, bần cùng hoá và nguồn phu mộ từ các tỉnh Bắc Kỳ” 15

Đến cuối năm 1937, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu hiện nay có 10 đồn điền cao su, trong đó 8 đồn điền thuộc về người Pháp và 6 đồn điền của người Việt Diện tích trồng cao su đã tăng trưởng qua các năm, từ 35ha vào năm 1910 lên 370ha vào năm 1914, và đạt 918ha vào năm 1926 Tuy nhiên, diện tích trồng cao su đã có sự thay đổi trong năm 1927.

Giữa những năm 1918-1935, diện tích đồn điền cao su tại Bà Rịa – Vũng Tàu tăng mạnh từ 3.217ha năm 1928 lên 8.000ha năm 1929 Chủ Pháp đã khai thác rừng già một cách tàn bạo, mộ phu và sử dụng công cụ thô sơ, dẫn đến nhiều tai nạn lao động nghiêm trọng Hàng ngày, xe bò chở người bị thương từ rừng về và đưa người chết đến nghĩa địa Láng Lớn Công nhân bị bóc lột nặng nề, với mức lương chỉ 30 xu mỗi ngày cho công việc cạo mủ, thấp hơn so với hợp đồng 50 xu/ngày, trong khi những người làm việc tạp vụ chỉ nhận 20 xu/ngày, chưa kể đến các khoản cúp, phạt và sự hành hạ Nhiều người thậm chí còn bị đánh chết chỉ vì không đủ sức lao động.

Công cuộc khai thác thuộc địa ở Bà Rịa – Vũng Tàu từ đầu thế kỷ XX đã thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa và đô thị hóa bán đảo Vũng Tàu, nhằm xây dựng Cap Saint Jacques thành một thành phố đa chức năng, vừa là tiền đồn phòng thủ, vừa là trung tâm nghỉ dưỡng biển lớn nhất Đông Dương Việc xây dựng và mở rộng đường sá cùng các dịch vụ tại Vũng Tàu đã biến nơi đây thành một thành phố biển sầm uất, với các chợ đầu mối hoạt động nhộn nhịp và hàng hóa phong phú, góp phần quan trọng vào sự chuyển biến kinh tế - xã hội của Bà Rịa – Vũng Tàu trong những năm đầu thế kỷ.

Vào năm 1862, Pháp đã xây dựng một ngọn hải đăng trên đỉnh núi Nhỏ (hay núi Tao Phùng) để hướng dẫn và báo hiệu cho tàu thuyền qua lại Gành Rái Đến năm 1913, ngọn hải đăng này được cải tạo lại, được đặt ở độ cao 170m, với khả năng chiếu sáng xa 30 hải lý (khoảng 55 km).

15 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tập 1 (1930

- 1945), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.39

16 Thạch Phương – Nguyễn Trọng Minh, Địa chí Bà Rịa – Vũng Tàu, Tlđd, tr.379

17 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tập 1 (1930

- 1945), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.40

Hải đăng Vũng Tàu, một trong những hải đăng cổ xưa nhất Việt Nam và Đông Nam Á, là biểu tượng nổi bật của thành phố biển Vũng Tàu Kiến trúc của hải đăng là tháp hình trụ cao 18 m và đường kính 3 m, được sơn màu trắng nổi bật Hải đăng được kết nối với khu nhà ở của nhân viên vận hành qua một đường hầm cong kiên cố, xung quanh là khu vườn hoa sứ rực rỡ Bên trong, cầu thang dẫn lên gần đỉnh hải đăng, nơi có ban công cho phép du khách ngắm toàn cảnh thành phố Vũng Tàu.

Đầu thế kỷ XX, Pháp đã xây dựng hải cảng Quai De Lanessan trên nền cảng Bến Đình cũ để phục vụ tàu khách Tuy nhiên, do chênh lệch mực nước thủy triều lớn, hoạt động của cảng gặp nhiều khó khăn, khiến tàu chở 100 hành khách không thể cập bến trong những lúc thủy triều xuống, phải chờ hàng giờ cho đến khi thủy triều lên Do đó, cảng này chỉ hoạt động được khoảng 2 năm, và việc vận chuyển hành khách sau đó phải chuyển sang cảng Rạch Dừa.

Vận tải đường thủy tại Bà Rịa – Vũng Tàu vào đầu thế kỷ XX chủ yếu dựa vào tàu khách và sà-lúp Francis Garnier chạy bằng hơi nước, có khả năng chở khoảng 100 hành khách Sài Gòn, với vai trò là trung tâm hành chính miền Nam, đã phát triển mạnh mẽ nhờ vào các hoạt động mua bán nhộn nhịp, được mệnh danh là hòn ngọc viễn Đông Các đô thị như Biên Hòa và Mỹ Tho cũng phát triển theo, đặc biệt khi kênh Ruột Ngựa được đào vào năm 1772, kết nối Rạch Cát và Rạch Lò Gốm, tạo thành hệ thống thủy lộ thuận lợi cho việc di chuyển giữa miền Tây và miền Đông Nam Bộ.

Thực dân Pháp xâm lược nước ta qua đường biển, nhận thức rõ vai trò quan trọng của hải quân và các bến cảng Họ hiểu rằng Sài Gòn nằm trên một con sông thuận lợi cho chiến thuyền, giúp việc tiếp cận và chiếm đóng trở nên dễ dàng hơn Sài Gòn không chỉ là điểm chiến lược mà còn là vựa thóc, cung cấp nguồn lương thực quan trọng cho quân đội.

18 Tên Toàn quyền Đông Dương lúc bấy giờ

Ngày đăng: 20/07/2021, 09:05

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Trần Văn An (2001), Một số vấn đề về yếu tố biển trong văn hóa Quảng Nam. Trong Văn hóa Quảng Nam những giá trị đặc trưng, Sở Văn hóa Thông tin Quảng Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về yếu tố biển trong văn hóa Quảng Nam". Trong "Văn hóa Quảng Nam những giá trị đặc trưng
Tác giả: Trần Văn An
Năm: 2001
2. Nguyễn Thế Anh (1970), Việt Nam thời Pháp đô hộ, Lửa thiêng, Sài Gòn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam thời Pháp đô hộ
Tác giả: Nguyễn Thế Anh
Năm: 1970
3. A.A Pouyanne (1998), Các công trình giao thông công chính Đông Dương, Nguyễn Trọng Giai dịch, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các công trình giao thông công chính Đông Dương
Tác giả: A.A Pouyanne
Nhà XB: Nxb Giao thông vận tải
Năm: 1998
5. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tập 1 (1930 - 1945), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tập 1 (1930 - 1945)
Tác giả: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2000
6. Đỗ Bang (1997), Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới triều Nguyễn
Tác giả: Đỗ Bang
Nhà XB: Nxb Thuận Hóa
Năm: 1997
7. Bộ giáo dục và đào tạo (2003) Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình triết học Mác – Lênin
Nhà XB: NXB Chính Trị Quốc Gia
8. Bulletin officiel de l’expédition de Cochinchine (B.O.E.C.) (Tập san chính thức của cuộc chinh phục Nam Kỳ), 1863 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bulletin officiel de l’expédition de Cochinchine
9. Charles B.Maybon (2006), Những người châu Âu ở An Nam, Ngô Thừa Hỷ dịch, Nxb Thế giới, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những người châu Âu ở An Nam
Tác giả: Charles B.Maybon
Nhà XB: Nxb Thế giới
Năm: 2006
10. Cahier des colons de ưlndochine (1907), Imprimerie "L'Avenir du Tonkin", Hanoi Sách, tạp chí
Tiêu đề: L'Avenir du Tonkin
Tác giả: Cahier des colons de ưlndochine
Năm: 1907
11. Phan Huy Chú, Hải trình chí lược, Phan Huy Lê, Tạ Trọng Hiệp dịch và giới thiệu, Cahier d’Archipel 25, EHESS, Paris, 1994 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hải trình chí lược
12. Huỳnh Tịnh Của (1895), Đại Nam quấc âm tự vị, tome I, Imprimerie Rey Curiol &Cie Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại Nam quấc âm tự vị
13. Ch. Robequain, “Les dragages de Cochinchine”, Annales de Géographie. 1932 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Les dragages de Cochinchine”, "Annales de Géographie
14. William Dampier (2006), Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688, Hoàng Anh Tuấn dịch, chú thích và viết tựa, Nxb Thế giới, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688
Tác giả: William Dampier
Nhà XB: Nxb Thế giới
Năm: 2006
4. Báo cáo của Thống đốc Nam Kỳ đề ngày 23-9-1883 gửi Bộ trưởng Bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp, rồi Công văn của Tổng đốc Bình Thuận đề ngày 17-10-1883 - Trung tâm Lưu trữ quốc gia II. KH: IA.2/041 Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Nhìn vào bảng trên cho thấy tỉ lệ cá khô, mắm muối bán ra thị trường nước ngoài là đáng kể - Hoạt động quản lý và khai thác biển đảo ở đông nam bộ từ đầu thế kỷ xx đến năm 1945  tập 2
h ìn vào bảng trên cho thấy tỉ lệ cá khô, mắm muối bán ra thị trường nước ngoài là đáng kể (Trang 55)
Nghề đan lưới ở Đông Nam Bộ được hình thành từ thế kỷ XVII, XVIII sau hàng loạt các cuộc di dân từ phía bắc vào phía Nam, ở các vùng ven biển, làng xóm nhanh  chóng mọc lên gắn liền với lập vạn chài - Hoạt động quản lý và khai thác biển đảo ở đông nam bộ từ đầu thế kỷ xx đến năm 1945  tập 2
gh ề đan lưới ở Đông Nam Bộ được hình thành từ thế kỷ XVII, XVIII sau hàng loạt các cuộc di dân từ phía bắc vào phía Nam, ở các vùng ven biển, làng xóm nhanh chóng mọc lên gắn liền với lập vạn chài (Trang 74)
mang đậm phong các hÁ Đông, được thành lập trong những năm đầu tiên hình thành vùng đất Sài Gòn xưa - Hoạt động quản lý và khai thác biển đảo ở đông nam bộ từ đầu thế kỷ xx đến năm 1945  tập 2
mang đậm phong các hÁ Đông, được thành lập trong những năm đầu tiên hình thành vùng đất Sài Gòn xưa (Trang 91)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w