Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm bổ sung dữ liệu khoa học về sinh học, sinh sản của rắn Hổ mang chúa trong điều kiện nuôi nhốt; Góp phần hoàn thiện qui trình chăn nuôi và quản lý rắn Hổ mang chúa nuôi nhốt. Mời các bạn cùng tham khảo!
Vị trí phân loại và phân bố của Hổ mang chúa Ophiophagus hannah (Cantor, 1836)
Tên Việt Nam: Rắn Hổ mang chúa, Hổ mang đen, Hổ mang chì, Hổ đước Tên khoa học: Ophiophagus hannah (Cantor, 1836)
Tên đồng nghĩa: Hamadryas hannah T Cantor, 1836; Naja hannah
Bourret, 1927; Naia hannah Bourret, 1935; Ophiophagus hannah, C.M
Họ phụ Rắn cạp nong Bungarinae
Hổ mang chúa phân bố rộng rãi ở Nam và Đông Nam Á, nhưng không phổ biến, chủ yếu sống ở các khu rừng vùng núi cao, đặc biệt gần sông, suối, ao và hồ Mật độ của loài này đã giảm mạnh do tình trạng phá rừng và săn bắt quá mức, và hiện được liệt kê trong Phụ lục II của CITES.
Hình 1.1: Phân bố loài Hổ mang chúa trên thế giới ( )
Đặc điểm hình thái loài Hổ mang chúa
Họ Rắn hổ bao gồm các loài rắn độc với đặc điểm đầu hình bầu dục, không phân biệt rõ với cổ, và có vảy hình tấm ghép sát nhau Chúng thiếu tấm má, tấm gian đỉnh và hố má Răng của chúng có hai móc độc lớn hơn các răng khác, có rãnh hoặc ống dẫn nọc độc Mí mắt của rắn hổ dính liền và trong suốt Khoang miệng của các loài này điển hình gồm răng độc, lỗ phóng chất độc, lỗ mũi, hố má thiếu, ống dẫn chất độc, tuyến độc và khe họng.
Hình 1 2: Khoang miệng điển hình của các loài Rắn hổ (theo Hickman)
Rắn Hổ mang chúa, thuộc họ rắn hổ, là loài rắn có nọc độc mạnh nhất thế giới, có thể dài đến 5.6 m Con đực thường lớn hơn và dày mình hơn con cái Màu sắc của rắn trưởng thành đa dạng, bao gồm vàng ánh xanh, nâu xám hoặc đen, với các vệt vàng nhạt dọc theo thân Bụng của chúng có màu kem hoặc vàng nhạt, với các vảy mềm mại Rắn non có màu đen bóng và các khoang vàng hẹp, dễ nhầm với rắn cạp nong Hổ mang chúa có khả năng mở rộng xương vuông để nuốt mồi lớn và sở hữu hai móc độc phía trước miệng, hoạt động giống như kim tiêm để tiêm nọc độc vào con mồi.
Hình 1 3: Xương đầu rắn Hổ mang chúa [32]
Hình 1 4: Khoang miệng rắn Hổ mang chúa
Hổ mang chúa là loài duy nhất thuộc giống Ophiophagus, trong khi hầu hết các loài khác của họ phụ Rắn cạp nong (Bungarinae) thuộc giống Naja
Hổ mang chúa có thể dễ dàng phân biệt với các loài rắn khác nhờ kích thước lớn và hình dạng đặc trưng của phần đầu Đặc biệt, trên đầu của chúng có các băng màu trắng hình chữ V ngược, trong khi các loài khác thuộc giống Naja thường có các băng hình "mắt kính", có thể là cặp hoặc đơn lẻ.
Nghiên cứu chung trên thế giới
Nghiên cứu về Bò sát, đặc biệt là loài Hổ mang chúa, đã được quan tâm từ lâu, nhưng chủ yếu tập trung vào phân loại Laurenti đã thực hiện công trình đầu tiên vào năm 1786, mô tả và phân bố các loài thuộc giống Rắn hổ mang (Naja) Năm 1803, Daudin công bố kết quả khảo sát các loài rắn thuộc giống Cạp nong (Bungarus), trong khi Gunther báo cáo kết quả điều tra riêng về giống hổ chúa (Ophiophagus) vào năm 1846.
Các loài thuộc giống Ophiophagus chủ yếu được tìm thấy tại Ấn Độ và nhiều khu vực Nam Á Từ năm 1924 đến 1944, Bourret và các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu hệ động vật Đông Dương, bao gồm cả các loài bò sát.
Naja hannah Bourret, tên gọi của loài Hổ mang chúa, là công trình phân loại học động vật hoang dã đầu tiên tại Đông Dương và nhiều khu vực ở Việt Nam Trong nghiên cứu này, tác giả đã thống kê và mô tả 177 loài thằn lằn, 245 loài rắn và 171 loài ếch nhái.
Trước năm 1944, nghiên cứu về bò sát chủ yếu tập trung vào phân loại và phân bố, trong khi các đặc điểm sinh học và sinh thái của các loài chưa được chú trọng nhiều Gần đây, nghiên cứu về sinh học và sinh thái bò sát trong môi trường tự nhiên đã thu hút sự quan tâm, nhưng nghiên cứu sâu về loài rắn Hổ mang chúa vẫn còn hạn chế Peter et al (1998) đã công bố kết quả nghiên cứu về các loài rắn và thằn lằn ở Thái Lan và Đông Nam Á, nêu rõ các đặc điểm sinh học, sinh thái, sinh sản và phân bố của nhiều loài bò sát, bao gồm rắn Hổ mang chúa và một số loài rắn độc khác.
Hổ mang chúa, loài rắn lớn và độc nhất thế giới, có tập tính hung dữ và thường sống trong rừng thưa, đôi khi gần khu dân cư Chúng thường tìm nơi cư trú trong hang của động vật khác đã bỏ đi, dưới gốc cây gỗ mục hoặc ven sông suối, với độ cao phân bố lên tới 2.135m Thức ăn chính của hổ mang chúa là các loài rắn khác, bên cạnh đó, chúng cũng ăn thằn lằn, chuột và cóc Mỗi lứa đẻ từ 20-51 trứng, với tập tính chuẩn bị ổ đẻ và canh trứng cẩn thận.
Trong những năm gần đây, nghiên cứu về chăn nuôi rắn, đặc biệt là rắn Hổ mang chúa, đã thu hút sự quan tâm tại một số quốc gia như Trung Quốc, Thái Lan và Ấn Độ.
Từ Phổ Hữu (2001) đã nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái và kỹ thuật chăn nuôi 10 loài rắn độc, bao gồm rắn Hổ mang chúa và rắn hổ mang Trung Quốc, đồng thời chỉ ra rằng việc nuôi rắn Hổ mang chúa tại Trung Quốc gặp nhiều khó khăn do khí hậu không phù hợp Vương Kiếm Bình (2002) đã chia sẻ kinh nghiệm về kỹ thuật xây chuồng trại và chế độ ăn uống nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi rắn tại một số vùng ở Trung Quốc, mặc dù tác giả chủ yếu tập trung vào kỹ thuật nuôi loài rắn cụ thể.
Trong báo cáo "Ophiophagus hannah: Captive care notes" của Sierra (2003), tác giả đã mô tả kỹ thuật nuôi rắn Hổ mang chúa trong điều kiện phòng thí nghiệm, nhấn mạnh rằng người nuôi cần có kinh nghiệm, không gian nuôi phải đủ rộng và điều kiện chăm sóc phải được đảm bảo Rắn Hổ mang chúa thường được nuôi trong chuồng gỗ có mặt kính để dễ dàng quan sát khi cho ăn chuột Về mùa sinh sản, loài này có tập tính giao hoan kéo dài khoảng 1 giờ và thường giao phối từ 2-3 lần Con cái đẻ khoảng 23 trứng, trong đó có 19 trứng có phôi, được ấp ở nhiệt độ 80-84°F (27-29°C) và độ ẩm gần 100% Sau 69 ngày ấp, tỷ lệ nở đạt 82,61%, với 19 con non, bao gồm 9 con cái và 10 con đực, có chiều dài trung bình 18 inchs (45,72 cm) và cũng ăn chuột như bố mẹ chúng.
Hổ mang chúa tại Vườn thú Philadelphia có khả năng tiêu thụ 12 con chuột hoặc rắn nhỏ mỗi tuần và có thể sống đến 26 năm trong môi trường vườn thú Con cái của loài này đẻ từ 20 đến 50 trứng và ấp trong khoảng 65-80 ngày Khi nở, con non dài từ 18-20 inches (45,7 - 50,8cm) và được xem là loài rắn thông minh nhất trong số các loài rắn nuôi tại đây.
(2002) [36] Hổ mang chúa đẻ từ 18-50 trứng/lứa, ấp từ 70-77 ngày, con non dài từ 12-20 inches (30,4 - 50,8cm), tuổi thọ khoảng 20 năm.
Tình hình nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu về bò sát và ếch nhái, bao gồm cả loài hổ mang chúa, tại Việt Nam đã bắt đầu từ thế kỷ XIX, với sự đóng góp của các nhà nghiên cứu phương Tây như Morice (1875), Anderson (1878), Tirant (1885) và Boulenger.
(1890), Flower (1896), v.v Các nghiên cứu trong giai đoạn này chủ yếu đi sâu về điều tra khu hệ và phân loại, xây dựng danh mục bò sát cho các vùng
Kể từ khi Miền Bắc được giải phóng vào năm 1954, nhiều nghiên cứu về bò sát, đặc biệt là rắn Hổ mang chúa, đã được thực hiện ở nhiều địa phương trên cả nước Các nhà nghiên cứu tiêu biểu như Đào Văn Tiến, Nguyễn Văn Sáng, Trần Kiên, Hồ Thu Cúc, Lê Nguyên Ngật và Nguyễn Quảng Trưởng đã đóng góp quan trọng vào lĩnh vực này trong những năm gần đây.
Các công trình quan trọng trong giai đoạn này gồm: Đào Văn Tiến
Từ năm 1956 đến 1975, nghiên cứu về Bò sát tại miền Bắc Việt Nam đã ghi nhận được 159 loài thuộc 2 bộ khác nhau Các công trình nghiên cứu quan trọng, như "Khóa định loại Bò sát Việt Nam" (1968, 1969, 1971) của Trần Kiên, Nguyễn Văn Sáng, và Hồ Thu Cúc (1981), đã đóng góp đáng kể vào việc tìm hiểu về Bò sát và Ếch nhái trong khu vực này.
Tính đến năm 1985, Việt Nam có 19 họ và 69 loài ếch nhái thuộc 3 bộ và 9 họ Báo cáo danh lục khu hệ bò sát và ếch nhái Việt Nam đã ghi nhận tổng cộng 160 loài bò sát và 90 loài ếch nhái.
Năm 1993 Hoàng Xuân Quang điều tra thống kê danh lục Bò sát - Ếch nhái ở các tỉnh Bắc Trung Bộ gồm 94 loài Bò sát xếp trong 59 giống, 17 họ và
Bài viết cập nhật danh sách 34 loài ếch nhái thuộc 14 giống và 7 họ, bổ sung cho danh lục Bò sát - ếch nhái Bắc Trung Bộ với 23 loài và phát hiện thêm 9 loài mới trong vùng phân bố Đến năm 1998, tác giả đã bổ sung 12 loài cho khu hệ Bò sát - ếch nhái Bắc Trung Bộ, cùng với 1 giống và 1 loài cho khu hệ Bò sát - ếch nhái Việt Nam.
Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc, Nguyễn Quảng Trường, (2005) lập
“Danh lục Ếch nhái và Bò sát Việt Nam” đã thống kê 296 loài Bò sát và 162 loài Ếch nhái của Việt Nam Năm 2009 nhóm tác giải đã xuất bản:
Khu hệ bò sát ếch nhái Việt Nam bao gồm 489 loài bò sát và 172 loài ếch nhái, với thông tin chi tiết về vùng phân bố tự nhiên của từng loài Theo thống kê mới nhất, Bộ phụ rắn tại Việt Nam có 9 họ, trong đó họ Rắn hổ (Elapidae) có 35 loài thuộc 15 giống, chia thành 4 họ phụ: Rắn hổ mang (Elapinae), Rắn cạp nong (Bungarinae), Rắn biển (Hydrophiinae) và Đẻn cạp nong (Laticaudinae) Nhiều loài thuộc họ Rắn cạp nong hiện đang bị khai thác quá mức và được bảo vệ theo quy định trong nước và quốc tế.
Bảng 1.1: Tình trạng bảo tồn một số loài rắn độc họ phụ Rắn cạp nong tại Việt
1 Hổ mang chúa Ophiophagus hannah IB Phụ luc II CR
2 Hổ mang trung quốc Naja atra 2B Phụ luc II EN
3 Hổ mang một mắt kính Naja kaouthia 2B Phụ luc II EN
4 Hổ mang xiêm Naja siamensis 2B Phụ luc II EN
5 Cạp nia nam Bungarus candidus 2B
6 Cạp nia đầu vàng Bungarus flaviceps 2B
7 Cạp nia bắc Bungarus multicinctus 2B
8 Cạp nong Bungarus fasciatus 2B EN
Ghi chú: CR: Cực kỹ nguy cấp; EN: nguy cấp
Từ năm 1990, nghiên cứu về sinh học, sinh thái và nhân nuôi các loài rắn đã được thực hiện nhiều, nhưng chưa có công trình nào về rắn Hổ mang chúa Năm 1991, Trần Kiên và Lê Nguyên Ngật đã nghiên cứu nhu cầu thức ăn của rắn hổ mang (Naja naja Linnaeus, 1758) non nuôi nhốt Ngô Thị Kim từ Viện công nghệ sinh học đã tiến hành nghiên cứu về nọc độc của rắn hổ mang trong các năm 1986, 1993 và 1997 Năm 1993, Trần Kiên và Đinh Phương Anh công bố nghiên cứu về dinh dưỡng và sự tăng trưởng của rắn ráo (Ptyas korros) tại Quảng Nam - Đà Nẵng Năm 1995, Trần Kiên và Nguyễn Quốc Thắng đã nghiên cứu về các loài rắn độc ở Việt Nam, khái quát phân loại, đặc điểm nhận dạng, sinh học, sinh thái, phân bố tự nhiên và tình trạng của 18 loài rắn độc sống ở cạn cùng 13 loài rắn độc sống ở biển.
Xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc hiện đang dẫn đầu cả nước trong việc nuôi rắn, đặc biệt là rắn Hổ mang chúa Các chủ nuôi nơi đây sở hữu nhiều kinh nghiệm và kiến thức bản địa phong phú, tạo nền tảng quan trọng cho việc chăn nuôi rắn Hổ mang chúa nhằm bảo tồn và phát triển loài này, đồng thời là cơ sở thiết yếu cho nghiên cứu quy trình kỹ thuật nuôi rắn Hổ mang chúa.
Năm 2009, Sở Khoa học & Công nghệ tỉnh Vĩnh Phúc đã cho phép Hợp tác xã Vĩnh Thịnh phối hợp với Viện Công nghệ sinh học và Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, do TS Ngô Thị Kim chủ trì, tiến hành nghiên cứu về ấp trứng rắn Hổ mang chúa Hợp tác xã Vĩnh Thịnh đã báo cáo kết quả ban đầu về việc nhân rộng mô hình khoa học và công nghệ nuôi rắn Hổ mang chúa sinh sản, trong đó chỉ ra rằng nhiệt độ nuôi thích hợp là từ 28-30°C và độ ẩm cần duy trì từ 75-85%.
4 ngày/lần, lượng thức ăn bằng 10-15% khối lượng rắn; Thời gian ấp nở từ 60-70 ngày [13]
Từ năm 2009-2010, Hợp tác xã chăn nuôi rắn Đại Thành tại xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc đã hợp tác với Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật để thực hiện dự án nghiên cứu nuôi rắn Hổ mang chúa Dự án này, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt, là công trình đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam, với mục tiêu hoàn thành vào tháng 12/2010, nhằm phát triển nguồn giống và mở rộng mô hình nuôi rắn.
Cho đến nay, các nghiên cứu về Bò sát chủ yếu tập trung vào việc điều tra khu hệ và lập danh mục cho từng vùng lãnh thổ Việc nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái loài và kỹ thuật chăn nuôi mới chỉ được chú ý trong vài năm gần đây Tài liệu công bố trong và ngoài nước về vấn đề này còn hạn chế, đặc biệt là trong nghiên cứu về rắn Hổ mang chúa.
Vị trí địa lý
Vĩnh Sơn là một xã nông nghiệp nằm ở trung tâm huyện Vĩnh Tường, cách quốc lộ 2 khoảng 4 km về phía nam Xã có tổng diện tích tự nhiên 327,43 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 231,45 ha Vị trí địa lý của Vĩnh Sơn được xác định với tọa độ 23° 15' 50'' đến 23° 35' 00'' vĩ độ Bắc và 05° 33' 00'' đến 05° 51' 00'' kinh độ Đông.
Ranh giới: Phía Bắc giáp Xã Thượng Lạp, Thị trấn Thổ Tang;
Phía Tây giáp Xã Vũ Di;
Phía Nam giáp Thị trấn Vĩnh Tường;
Phía Đông giáp Thị trấn Thổ Tang, Huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc
Hình 2 5: Vị trí xã Vĩnh Sơn trên Bản đổ vệ tinh Google map ( )
Địa hình
Vĩnh Sơn nằm trong khu vực đồng bằng Bắc bộ với địa hình bằng phẳng, độ cao từ 40m đến gần 60m và độ dốc trung bình khoảng 20-30 độ Khu vực này có mức độ chia cắt thấp, hình thành từ quá trình nâng lên yếu của Tân kiến tạo cùng với sự xâm thực và bồi tụ của các dòng sông cổ Kết quả là những dãy đồi đất thấp xen kẽ với dải đồng bằng rộng, khe suối hẹp và các đồi thường không có đỉnh hoặc có đỉnh bằng, với độ dốc dưới 40 độ.
Khí hậu thủy văn
Khu vực này thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa của đồng bằng Bắc Bộ, với hai mùa rõ rệt: mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 9 và mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau Tháng 4 và tháng 10 là các tháng chuyển tiếp, mang lại khí hậu ôn hòa, mát mẻ Nhiệt độ trung bình năm đạt 23,4°C, với nhiệt độ tối cao trung bình là 27,3°C và nhiệt độ tối thấp trung bình là 20,5°C Nhiệt độ tối cao tuyệt đối ghi nhận là 42,3°C vào tháng 7/1927, trong khi nhiệt độ tối thấp tuyệt đối là 2,7°C vào tháng 1/1970 Biên độ nhiệt giữa ngày và đêm trung bình năm là 6,8°C, với tổng nhiệt độ trung bình năm là 8400°C.
Lượng mưa trung bình hàng năm dao động từ 1850 đến 2100mm, với năm có lượng mưa thấp nhất ghi nhận là 962mm vào năm 1889 và năm có lượng mưa cao nhất là 2625mm vào năm 1896 Lượng mưa cực đại trong một ngày đạt 569mm, trong khi lượng mưa cực đại trong một tháng là 884mm Tháng có lượng mưa trung bình lớn nhất là tháng 7 với 323mm, và tháng có lượng mưa trung bình nhỏ nhất là tháng 12 với 18mm Trung bình, có khoảng 135 ngày mưa trong một năm.
Mùa mưa ở khu vực này bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10, với tháng 8 là tháng có lượng mưa lớn nhất, chiếm 85-90% tổng lượng mưa cả năm Nửa đầu mùa đông là thời kỳ ít mưa nhất, với tổng lượng mưa tháng đạt 30-35mm, trong khi nửa cuối mùa đông có số ngày mưa tăng nhưng tổng lượng mưa chỉ khoảng 70-80mm/tháng Độ ẩm trung bình năm dao động từ 85-88%, cao nhất vào tháng 2 và 3, có thể lên tới 90-95% Trong khi đó, độ ẩm giữa mùa mưa chỉ khoảng 87-88% Khu vực này không có thời kỳ khô hanh rõ rệt, chỉ có hai tháng tương đối khô (12 và 1) với độ ẩm khoảng 75-78% Mùa đông ở đây khá khắc nghiệt, gây khó khăn cho việc chăn nuôi bò sát.
Hình 2 6: Đồ thị sinh khí hậu khu vực Vĩnh Yên
Mục tiêu nghiên cứu
Bài viết này cung cấp dữ liệu khoa học về sinh học và sinh sản của rắn Hổ mang chúa trong điều kiện nuôi nhốt, nhằm hoàn thiện quy trình chăn nuôi và quản lý loài rắn này.
Đối tượng nghiên cứu
Gia đình ông Nguyễn Văn Quyết ở thôn 4 xã Vĩnh Sơn, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc đang nuôi một quần thể rắn Hổ mang chúa Đồng thời, Trại rắn thực nghiệm Công ty TNHH Kim Long cũng tọa lạc tại xã Vĩnh Sơn, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.
Do hạn chế về thời gian, chúng tôi chỉ nghiên cứu về rắn hổ mang chúa trưởng thành (đàn bố mẹ), quá trình ấp trứng và rắn con mới nở.
Nội dung nghiên cứu
Con trưởng thành và con non mới nở có những đặc điểm hình thái riêng biệt, bao gồm kích thước và màu sắc của các bộ phận cơ thể như đầu, thân và đuôi Đặc biệt, việc đếm số hàng vảy trên thân và xác định số lượng cũng như hình dạng các tấm trên đầu là rất quan trọng để phân biệt giữa các giai đoạn phát triển của chúng.
Mô tả các đặc điểm về hình dạng, kích thước, màu sắc vỏ trứng, độ cứng của vỏ
3.3.2 Tăng trưởng khối lượng con trưởng thành
Theo dõi sự tăng trọng của đàn rắn giống được nghiên cứu trong điều kiện nuôi nhốt và chăm sóc tại cơ sở thực nghiệm
3.3.3 Thức ăn và hiệu suất chuyến hoá thức ăn của rắn bố mẹ
Xác định thành phần và loại thức ăn ưa thích, cùng với nhu cầu lượng thức ăn là rất quan trọng Nghiên cứu cũng cần làm rõ mối quan hệ giữa lượng thức ăn tiêu thụ và sự tăng trưởng khối lượng rắn Thời gian thực nghiệm sẽ được thực hiện trong một tháng, từ giữa tháng 7 đến tháng 8.
3.3.4 Đặc điểm sinh sản và năng lực sinh sản
Theo dõi và xác định các đặc điểm sinh sản của rắn, bao gồm tuổi trưởng thành sinh dục, số lứa đẻ trong năm, số trứng mỗi lứa và tỷ lệ ấp nở Việc này giúp đánh giá khả năng sinh sản của đàn rắn bố mẹ trong một chu kỳ thời gian cụ thể.
3.3.5 Tập tính loài trong điều kiện nuôi nhốt
Theo dõi các tập tính chính như: Thời gian vận động, nghỉ ngơi; tập tính ăn mồi, sinh sản, tự vệ.
Phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Tham vấn chuyên gia và người nuôi rắn
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn các chủ nuôi và người chăn nuôi rắn có kinh nghiệm, cùng với các chuyên gia về bò sát, nhằm thu thập thông tin và số liệu khoa học cần thiết cho nghiên cứu.
Mô tả các đặc điểm hình thái, cấu tạo bên ngoài theo Đào Văn Tiến
(1982) và được chú giải theo Hình 3.7
Hình 3 7: Cách mô tả và đếm vảy rắn
Chọn 60 cá thể rắn trưởng thành (gồm 20 cá thể đực 40 cá thể cái), có kích thước tương đối đồng đều, khoẻ mạnh, da láng bóng, không bị dị tật Mỗi cá thể được nuôi riêng trong một ô chuồng kích thước 60 x 100 x 50cm Ô chuồng được xây nổi bằng gạch, phía trên có cửa khung gỗ bản lề, bịt bằng lưới thép mắt cáo kích thước 2x2cm
3.4.3.2 Xác định tăng trưởng khối lượng rắn trưởng thành
Vợt bắt rắn được thiết kế bằng vải mềm màu đen, với miệng hình tròn đường kính 30cm và chiều sâu 50cm Sản phẩm có cán dài 1,2m, có thể tháo rời phần miệng vợt, cùng với dây vải dài 40cm được đính ở ngang thân và đáy, giúp việc bắt rắn trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn.
Gậy bắt rắn: Gậy dài 1,2m bằng gỗ cứng, đầu gậy có móc hình chữ
"U" bằng thép đường kính 5mm, khẩu độ rộng 5-7cm;
Cân đồng hồ: Độ chính xác tới 10gam
Phương pháp bắt và cân rắn:
Để bắt rắn, sử dụng gậy móc để đưa rắn ra khỏi chuồng và cho vào túi Rắn sẽ tự động trườn vào túi khi di chuyển đến nơi tối để ẩn nấp Sau đó, buộc chặt túi bằng dây vải, tháo cán và cân cả túi cùng rắn Sau khi hoàn tất việc cân, lắp lại cán và di chuyển miệng vợt đến gần cửa chuồng đã mở sẵn Cuối cùng, tháo dây ngang thân vợt và cầm dây đáy, dốc ngược từ từ để rắn tự di chuyển trở lại vào chuồng.
Trong quá trình thực hiện, cần đảm bảo không làm rắn sợ hãi để tránh nguy hiểm Tại các trại nuôi rắn, người nuôi thường trực tiếp bắt rắn, nhưng phương pháp này tiềm ẩn nhiều rủi ro Do đó, tác giả đã quyết định không áp dụng cách này trong quá trình thực nghiệm.
3.4.3.3 Phương pháp đo kích thước trứng rắn
Trứng rắn Hổ mang chúa rất mềm và khó đo, không thể sử dụng thước kẹp vì dễ làm trầy xước Để đo kích thước trứng, cần sử dụng một hộp gỗ bán động gồm hai phần, hoạt động giống thước kẹp Palme Chỉ cần xếp nhẹ trứng vào hộp, kéo phần còn lại để chạm vào hai đầu của trứng, sau đó khép hai bên hộp để đo đường kính Cuối cùng, ghi chép chi tiết kích thước trứng theo Mẫu Bảng 01 trong phần phụ lục.
3.4.3.4 Đo kích thước, cân rắn non mới nở
Ống đo chiều dài được làm từ ống nhựa trong suốt, có đường kính 30mm và chiều dài 50cm, với một đầu gắn phễu nhỏ để thu hút rắn chui vào Công cụ này giúp quan sát và đánh dấu vị trí của rắn khi chúng di chuyển qua ống.
- Cân bàn loại nhỏ dùng để cân trọng rắn
- Gậy chẻ đầu dài 50cm
Rắn non mới nở có khả năng vận động yếu, sau khi bò ra khỏi vỏ trứng, cần dùng gậy để định hướng cho rắn di chuyển vào ống qua phễu Khi rắn đã vào hoàn toàn trong ống, hãy đánh dấu điểm đầu và điểm cuối của rắn trên thân ống để đo chiều dài.
Để đo kích thước của rắn non mới nở, đặt ống chứa rắn lên cân và ghi lại khối lượng Khối lượng của rắn sẽ được tính bằng khối lượng tổng cộng trừ đi khối lượng ống đo Hãy ghi chép chi tiết các thông số theo Mẫu Bảng 02 trong phần phụ lục.
3.4.3.5 Phương pháp nghiên cứu thức ăn của rắn trưởng thành
Để xây dựng danh mục thức ăn cho rắn Hổ mang chúa, cần tìm hiểu thông tin từ người chăn nuôi về các loại thức ăn phù hợp Kết hợp với thực nghiệm các loại thức ăn, kết quả sẽ được ghi chép theo Mẫu bảng 04 trong phần phụ lục.
Để xác định thức ăn ưa thích của rắn Hổ mang chúa, cần đưa các loại thức ăn vào chuồng cùng một lúc với cùng một lượng và theo dõi quá trình ăn uống của chúng Thực hiện cho ăn thử nghiệm trong 3-5 ngày cho mỗi đợt, với 3-6 loại thức ăn khác nhau Nếu rắn Hổ mang chúa ăn trước với số lượng trên 75%, loại thức ăn đó được xếp vào loại ưa thích (+++); từ 50% đến 70% được coi là loại bình thường (++); và dưới 50% là ít ưa thích (+).
Số liệu được ghi theo Mẫu bảng 04 (Phần phụ lục)
Nghiên cứu nhu cầu lượng ăn hàng ngày
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung vào hai loài rắn phổ biến làm thức ăn cho rắn Hổ mang chúa, bao gồm Rắn bồng chì (Enhydris plumbea) và Rắn bồng Trung Quốc (Enhydris chinensis) Chúng tôi đã tiến hành cân trọng lượng thức ăn cung cấp và lượng thức ăn thừa cho mỗi loại, từ đó xác định nhu cầu dinh dưỡng của rắn Hổ mang chúa Dữ liệu được ghi chép theo Mẫu Bảng 05 trong phần phụ lục.
Nhu cầu thức ăn trong ngày của rắn Hổ mang chúa (N) được xác định theo công thức:
Trong đó: N: Nhu cầu thức ăn trong ngày (g/ cá thể)
Ni : Lượng thức ăn nhu cầu (loại i) (g)
Ci: Lượng thức ăn cung cấp (loại i)(g)
Ti: Lượng thức ăn dư thừa (loại i) (g)
3.4.3.6 Nghiên cứu tập tính rắn trưởng thành
Nghiên cứu hành vi của rắn trong suốt cả ngày bao gồm các hoạt động như kiếm ăn, nghỉ ngơi, vận động, tự vệ và giao phối, đồng thời xem xét sự thay đổi của những hoạt động này dưới ảnh hưởng của các yếu tố sinh học và sinh thái như giới tính, độ tuổi, nhiệt độ và ánh sáng Ô quan sát được thiết kế bằng lưới thép mắt cáo nhỏ (0,5 x 0,5 cm), kích thước 3 x 3,5 m, cao 2 m, với môi trường bên trong có thảm lá mục, lá tre hoặc lá thông, cùng với đá và mái che Các hoạt động của rắn được quan sát liên tục 24/24h theo định kỳ trong suốt thời gian nghiên cứu, với kết quả được ghi lại theo Mẫu Bảng 06a, 06b trong phần phụ lục.
Hình 3.9: Chuồng quan sát tập tính rắn bố mẹ
3.4.3.7 Nghiên cứu đặc điểm sinh sản và năng lực sinh sản
- Xác định năng lực sinh sản của đàn thông qua: Số con cái đã thành thục sinh sản trong đàn;
Tỷ lệ đẻ trứng của đàn giống (số con cái sinh sản thành công/ tổng số con cái đang nuôi);
Tỷ lệ trứng đạt tiêu chuẩn ấp sau khi đẻ (số trứng được trọn đi ấp/tổng số trứng thu được);
Tỷ lệ ấp nở thành công;
Số liệu thu thập được ghi theo Mẫu Bảng 07 (phần phụ lục)
- Ấp trứng theo 02 phương pháp:
Để ấp trứng hiệu quả, sử dụng cát sạch để vùi trứng với độ dày từ 10-15cm Nhiệt độ ổ trứng cần duy trì ở mức 29-30 độ C và độ ẩm dao động từ 85-90% Ngoài ra, ổ trứng nên được đặt trong phòng có mái che để bảo vệ khỏi các yếu tố bên ngoài.
Để ấp trứng rắn hiệu quả, bạn cần ngâm gạch nung trong nước một đêm, sau đó xếp thành khung và đặt trứng rắn vào giữa Tiếp theo, bạn hãy đậy kín trứng bằng gạch và ủ cát xung quanh, đảm bảo trứng không tiếp xúc trực tiếp với cát Cuối cùng, duy trì nhiệt độ, độ ẩm và các điều kiện khác giống như phương pháp ấp vùi cát trực tiếp.
(1) Vùi trứng trực tiếp trong cát (2) Xếp trứng trong gạch nung trước khi vùi trong cát
Hình 3.10: Các hình thức ấp trứng
Chi tiết kết quả ấp trứng ghi theo Mẫu Bảng 08 (phần phụ lục)
3.4.5 Phương pháp xử lý số liệu
Đặc điểm hình thái rắn Hổ mang chúa
4.1.1 Đặc điểm hình thái ngoài Đặc điểm phần đầu:
Rắn Hổ mang chúa có đầu lớn, màu sắc đồng nhất với thân, và khi bị kích thích, phần cổ rắn bạnh rộng, nhưng nhỏ hơn so với các loài Naja Đuôi của nó dài trung bình và con ngươi tròn Đỉnh đầu có 6 hàng vảy lớn xếp đối xứng, thiếu tấm gian đỉnh, tấm má và hố má, với 2 tấm chẩm Vảy môi trên có 7 tấm, trong đó tấm thứ 3 và 4 chạm mắt, môi dưới có 8 tấm, trước mắt 1 tấm và sau mắt 3 tấm Đầu con đực lớn và tròn hơn đầu con cái.
Hình 4.11: Mặt trước phần đầu rắn Hổ mang chúa trưởng thành
Hình 4.12: Mặt bên phần đầu rắn
Hổ mang chúa mới nở
Hình 4.13: Mặt trên đầu rắn Hổ mang chúa trưởng thành
Hình 4.14: Mặt sau đầu rắn Hổ mang chúa mới nở
Rắn Hổ mang chúa không có "mắt giả" hay "gọng kính" như các loài thuộc giống Naja, mà có vạch hình chữ V ngược ở phía lưng Phần đầu của rắn non có hai màu đen và trắng ngà xen kẽ, trong khi đầu của rắn Hổ mang có màu đen hoặc xám đen Mắt của rắn non lồi hơn so với con trưởng thành, và khi hoạt động, rắn thường phóng lưỡi ra ngoài và phát ra tiếng kêu "tạch, tạch".
Hình 4 15: Phần đầu rắn Hổ mang
Rắn Hổ mang chúa có phần đầu đặc trưng và chiều dài thân từ 2800mm đến 3680mm, trong khi phần đuôi dài từ 285mm đến 328mm Rắn non thường có các vạch màu vàng bẩn rõ rệt xen kẽ với các khoang màu đen, dễ gây nhầm lẫn với loài rắn cặp nong Ở giai đoạn trưởng thành, rắn có màu xám nhạt, đen hoặc màu đất bẩn, với các dải màu vàng được thay thế bằng viền trắng mờ hẹp hơn, đôi khi không rõ ràng.
Hình 4.17: Rắn Hổ mang chúa non
Hình 4.18: Màu thân con trưởng thành
(1) vàng đất; (2) xám bẩn; (3) đen
Trên lưng, phần giữa thân của loài rắn thuộc giống Naja có 15 hàng vảy, trong khi các loài khác thường có 21 hàng Cổ của chúng có 22 hàng vảy Về phần bụng, con đực có 241 vảy, trong khi con cái có 240 vảy Vảy dưới đuôi, nằm sau hậu môn, có số lượng từ 83-96 vảy ở cá thể đực và từ 77-98 vảy ở cá thể cái.
Tăng trưởng khối lượng con trưởng thành
Kết quả theo dõi và thống kê về sự tăng trưởng của đàn rắn bố mẹ được trình bày chi tiết trong bảng 4.2 và được minh họa bằng đồ thị trong hình 4.19.
Bảng 4 2: Thống kê số lượng và tăng trưởng đàn rắn bố mẹ
Số lượng cá thể đo (con)
Khối lượng trung bình (kg)
Tăng trưởng trung bình (kg) Tổng Đực Cái Đực Cái T.bình Đực Cái T.bình
Sinh trưởng bình quân rắn đực Sinh trưởng bình quân rắn cái
Hình 4.19: Biểu đồ tăng trưởng rắn bố mẹ
Trong 7 tháng theo dõi cho thấy, bình quân tăng trưởng của rắn bố mẹ trong thời gian nghiên cứu đạt 0,07kg/tháng Khoảng thời gian từ tháng 2-3 rắn tăng trưởng rất chậm (0,04kg/tháng) Tháng 4 và 5, là giai đoạn rắn bố mẹ bắt đầu tăng trọng nhanh mặc dù đang đầu mùa sinh sản, mức tăng trọng trung bình đạt 0,21 kg/tháng, tuy nhiên con cái có mức tăng trong cao hơn con đực (con đực: 0,15 và 0,03; con cái: 0,26 và 0,39) Mức tăng trọng của con cái cao nhất 0,39kg/tháng (tháng 5), trong khi đó con đực có mức độ tăng trưởng là thấp nhất 0,03kg/tháng Tháng 6 con cái sinh sản có lượng tăng trưởng âm
Trong nghiên cứu, con cái rắn có mức tăng trưởng trung bình là -0,65 kg/tháng, trong khi con đực đạt mức cao nhất là 0,18 kg/tháng Sau giai đoạn đẻ (tháng 7-8), rắn bắt đầu tăng trưởng trở lại với tốc độ từ 0,08 - 0,11 kg/tháng, trong đó con cái có mức tăng trưởng cao hơn con đực Trung bình trong 7 tháng thí nghiệm, mức tăng trưởng chung của đàn giống là 0,07 kg/con/tháng, với con đực đạt 0,09 kg/con/tháng và con cái 0,05 kg/con/tháng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong suốt 7 tháng theo dõi, tỷ lệ rắn Hổ mang chúa chết hoặc bị thải loại là 11%, tương đương với 7 cá thể Hiện tượng này xảy ra do một số cá thể không đạt tiêu chuẩn giống, theo báo cáo từ các chủ nuôi.
Theo kinh nghiệm của người dân nuôi rắn, khoảng thời gian từ tháng 7-
Mỗi năm, rắn trải qua giai đoạn tăng trưởng nhanh nhất, tích lũy năng lượng để chuẩn bị cho mùa đông dài Một cá thể trưởng thành có khối lượng từ 3-5kg có thể tăng trung bình 1,5kg mỗi năm, tuy nhiên, cần có thêm nghiên cứu để xác định chính xác thông tin này.
Thức ăn và hiệu suất chuyển hóa thức ăn của rắn bố mẹ
4.3.1 Thành phần thức ăn, thức ăn ưa thích và nhu cầu lượng thức ăn
Kết quả điều tra về thức ăn cho rắn Hổ mang chúa trong điều kiện nuôi nhốt cho thấy danh mục các loài thực phẩm phù hợp, được trình bày trong bảng 4.3.
Bảng 4 3: Thức ăn và thức ăn ưa thích của rắn Hổ mang chúa
TT Tên Việt Nam Tên khoa học Mức độ ưa thích
2 Rắn nước vân đen Sinonatrix percarinata ++
4 Rắn hoa cỏ nhỏ Rhabdophis subminiatus ++
5 Rắn hoa cỏ vàng Rhabdophis chrysagus ++
6 Rắn bồng chì Enhydris plumbea +++
7 Rắn bồng trung quốc Enhydris chinensis +++
Ghi chú: Loài rất ưa thích: +++; Loài ưa thích bình thường ++; Loài ít ưa thích +
Tại nơi nghiên cứu, người chăn nuôi sử dụng 8 loài động vật làm thức ăn cho rắn Hổ mang chúa, bao gồm 7 loài rắn thuộc họ rắn nước (Colubridae) và 1 loài ếch nhái (Cóc nhà).
Nghiên cứu về thức ăn ưa thích của rắn Hổ mang chúa cho thấy các loài thức ăn chính bao gồm Rắn ráo (Ptyas korros) và Rắn bồng chì (Enhydris plumbea), trong khi các loài thức ăn ưa thích trung bình là Rắn nước vân đen (Sinonatrix percarinata), Rắn nước (Xenochrophis piscator), Rắn hoa cỏ vàng (Rhabdophis chrysagus) và Rắn hoa cỏ nhỏ (Rhabdophis subminiatus) Cóc nhà (Duttaphrynus melanostictus) được xem là loại thức ăn ít ưa thích Để rắn Hổ mang chúa phát triển tốt, cần đa dạng hóa thành phần thức ăn, tuy nhiên, tại cơ sở nghiên cứu, rắn chủ yếu được nuôi bằng Rắn bồng chì (Enhydris plumbea) do khả năng cung cấp nguồn thức ăn và mức độ ưa thích của chúng.
Rắn bồng chì được nuôi làm thức ăn cho rắn Hổ mang chúa Đối với rắn non mới nở, rắn mồi cần được lọc sạch vảy, mổ bỏ ruột và cắt thành từng khúc 1-2cm để dễ tiêu hóa Còn với rắn bố mẹ, rắn mồi phải được dìm nước cho chết trước khi cho ăn Thức ăn thường được tẩm thuốc Tetraciclin để phòng ngừa các bệnh đường ruột cho rắn.
Rắn nên được cho ăn mỗi 4 - 6 ngày, với lượng thức ăn khoảng 15% trọng lượng cơ thể, tùy thuộc vào kích thước của rắn Thức ăn được đặt trong đĩa nhựa có đường kính từ 15 - 20cm và để trực tiếp trong chuồng nuôi Vào sáng hôm sau, cần thu dọn thức ăn thừa để đảm bảo vệ sinh cho môi trường sống của rắn.
4.3.2 Hiệu suất chuyển hóa thức ăn của rắn bố mẹ
Kết quả theo dõi khả năng tiêu thụ thức ăn cho thấy mối quan hệ giữa lượng thức ăn tiêu thụ và sự tăng trưởng khối lượng, được thể hiện rõ qua đồ thị trong hình 4.21.
Hình 4 21: Phân bố thực nghiệm sinh trưởng khối lượng và lượng thức ăn
Tăng trưởng khối lượng của rắn Hổ mang chúa trong điều kiện nuôi nhốt tỷ lệ thuận với lượng thức ăn tiêu thụ Phương trình mô phỏng mối quan hệ này được biểu diễn dưới dạng: y = 0.008301593 + 0.160706739x.
- y: Lượng tăng trưởng khối lượng rắn (biến phụ thuộc)
- x: Lượng thức ăn tiêu thụ (biến độc lập)
- Với hệ số tương quan r = 0.96818949
Trong chăn nuôi rắn, có thể áp dụng phương trình để dự đoán lượng tăng trưởng khối lượng dựa trên lượng thức ăn tiêu thụ Điều này giúp xác định lượng thức ăn hợp lý cần thiết cho từng cá thể và lượng thức ăn dự trữ cho toàn đàn.
Để tăng 1 kg thể trọng, rắn Hổ mang chúa cần tiêu thụ 6,2 kg rắn mồi đã sơ chế, cụ thể là loài rắn bồng chì Enhydris plumbea Lượng thức ăn trung bình mà rắn cần trong một tháng được tính toán dựa trên nhu cầu dinh dưỡng này.
Lượng thức ăn thừa trong chăn nuôi rắn hiện nay đạt trung bình 0,14kg, tương đương 12%, cho thấy tỷ lệ này khá cao Nguyên nhân chủ yếu là do các chủ nuôi muốn rắn tăng trọng nhanh chóng, dẫn đến việc cung cấp thức ăn vượt quá nhu cầu thực tế của chúng Để nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi, việc xác định lượng thức ăn hợp lý là rất cần thiết, nhằm tránh tình trạng dư thừa và lãng phí.
Đặc điểm sinh sản và năng lực sinh sản
Hổ mang chúa trưởng thành sinh dục sau 2,5 - 3 năm tuổi, khi đạt khối lượng cơ thể từ 1,7 đến 2,0 kg Loài rắn này có chu kỳ động dục 1 lần mỗi năm, với mùa động dục diễn ra vào tháng 3 - 4 hàng năm.
Biểu hiện động dục của rắn Hổ mang chúa cái bao gồm việc bài xuất phân nhiều, có dịch ở khe huyệt và rắn bỏ ăn Khi con đực nhận tín hiệu từ con cái, cả hai sẽ tăng cường di chuyển và tìm cách thoát ra ngoài Theo kinh nghiệm, người nuôi thường ghép đàn từ tháng 2-3 để rắn làm quen, ghép 1 cá thể đực với 1-2 cá thể cái.
Trước khi giao phối, rắn cái có biểu hiện bạnh mang và di chuyển song song với rắn đực Rắn đực kiểm tra thái độ của rắn cái bằng cách dùng mõm dũi vào thân trên; nếu không có phản ứng chống cự, rắn đực sẽ quấn đuôi vào rắn cái để tìm vị trí giao phối Trong quá trình này, rắn đực và rắn cái nằm song song, với rắn đực đưa gai sinh dục vào khe huyệt của rắn cái Thời gian giao phối của rắn Hổ mang chúa kéo dài từ 2 đến 3 giờ, sau đó rắn đực sẽ rời đi trước.
Trong mùa sinh sản, cá thể rắn Hổ mang chúa cái có thể giao phối nhiều lần, với một số cá thể giao phối đến ba lần, trong khi những cá thể khác chỉ giao phối một lần Giao phối thường diễn ra vào ban ngày, theo kinh nghiệm của người nuôi, và không quan sát thấy rắn giao phối vào ban đêm Khi ghép một con đực với ba con cái, con đực sẽ giao phối lần lượt với từng con cái, nhưng không giao phối cùng một ngày với hai cá thể cái.
Quan sát cho thấy, rắn Hổ mang chúa đực nếu không được giao phối sẽ bỏ ăn khoảng 20 ngày, sau đó lại ăn uống bình thường
Hình 4.22: Rắn Hổ mang chúa giao phối
Khi rắn cái không chấp nhận sự ve vãn của rắn đực, người nuôi cần tách chúng ra và đưa về chuồng nuôi cũ Đồng thời, cần chăm sóc rắn mẹ để chuẩn bị cho quá trình đẻ trứng Thời gian từ khi giao phối đến khi rắn Hổ mang chúa đẻ trứng khoảng 70 ngày.
Khi rắn cái có dấu hiệu động dục, người chăn nuôi nên cung cấp khoảng 500 gram lá khô để rắn mẹ làm tổ Khác với rắn Hổ mang thuộc giống Naja, Hổ mang chúa không đẻ trứng thành đống hay chuỗi mà rải rác xung quanh ổ Sau khi đẻ xong, rắn mẹ dùng đuôi quận trứng lại và phủ lá tre lên trên Rắn mẹ có hành vi canh trứng và thường ăn ít, trở nên hung dữ trước và sau khi đẻ.
Hình 4 23: Rắn mẹ đẻ và canh trứng sau khi đẻ
Trứng rắn Hổ mang chúa có hình dạng bầu dục tù và màu trắng, với vỏ trứng mỏng và mềm hơn so với các loài trong giống Naja Khi mới đẻ, trứng có màu trắng hồng, sau đó chuyển sang màu trắng ngà và trở nên cứng hơn Mặc dù kích thước gần tương đương, trứng Hổ mang chúa có hai đầu tù hơn so với trứng Kỳ đà vân, nhưng lại thon nhọn hơn trứng rắn Ráo trâu.
Hình 4.24: Trứng rắn Hổ mang chúa mới đẻ
Hình 4.25: Trứng rắn Hổ mang chúa sau 3 ngày
Kết quả đo kích thước trứng được trình bày trong Bảng 4.4, kích thước trung bình của trứng mới đẻ sau 3 ngày dài 70,0mm, đường kính 25,0mm
Bảng 4 4: Kết quả đo kích thước trứng rắn Hổ mang chúa
Kết quả đo đại diện trứng Chiều dài (mm) Đường kính (mm) T.lượng (gam)
Trứng rắn nở sau 60-70 ngày, tùy thuộc vào nhiệt độ môi trường Gần ngày nở, rắn con bắt đầu cử động nhiều trong vỏ trứng và con khỏe mạnh sẽ tự xé vỏ bằng răng sữa, trong khi những con không làm được sẽ chết trong 2-3 ngày Trước khi nở, vỏ trứng biến dạng liên tục và có dấu hiệu của đầu rắn thúc vào, sau khoảng 30 phút, vỏ trứng sẽ vỡ ra Sau khi đầu rắn chui ra, rắn thường nằm yên trong 2-5 giờ, mặc dù phần thân có thể dài đến 20 cm nhưng vẫn chui lại vào vỏ Sau khi nở, rắn con nhanh chóng cử động và có thể uống nước sau 5 ngày, nhưng phải đến 25-30 ngày sau mới bắt đầu ăn.
Kết quả đo kích thước rắn non cho thấy hổ mang chúa mới nở có chiều dài trung bình là 49,39 cm, với con dài nhất đạt 57 cm và con ngắn nhất là 45 cm Khối lượng trung bình của rắn non là 20,08 gam, trong đó con nặng nhất đạt 25 g và con nhẹ nhất là 14 g So với khối lượng trứng ban đầu trước khi ấp, khối lượng rắn non giảm 5,22 gam Tuy nhiên, không có mối tương quan rõ ràng giữa chiều dài và trọng lượng của rắn mới nở.
Bảng 4 5: Kết quả đo kích thước rắn Hổ mang chúa non mới nở
1 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 48 22
2 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 49 23
3 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 52 20
4 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 46 20
5 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 51 17
6 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 53 17
7 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 45 14
8 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 48 19
9 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 50 21
10 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 51 19
11 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 53 20
12 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 45 18
13 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 48 19
14 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 47 22
15 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 53 21
16 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 45 23
17 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 50 18
18 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 53 19
19 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 45 20
20 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 57 20
21 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 53 19
22 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 45 23
23 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 51 18
24 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 53 19
25 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 53 19
26 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 45 25
27 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 46 25
28 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 53 19
29 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 45 25
30 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 53 19
31 Rắn Hổ mang chúa con mới nở 45 22
Theo kết quả từ Vườn thú Philadelphia, chiều dài của hổ mang chúa non mới nở dao động từ 45,7-50,8 cm, trong khi con non Sean.S có chiều dài từ 30,4-50,8 cm So với những số liệu này, rắn con mới nở từ quần thể nghiên cứu có kích thước lớn hơn, với chiều dài trung bình là 49,39 cm và trọng lượng 20,08 gam Để nâng cao tỷ lệ trứng ấp nở, trứng được thu thập, phân loại và ấp nhân tạo trong vòng 3 ngày sau khi rắn đẻ Sau khi trứng được lấy ra khỏi tổ, rắn mẹ thường có biểu hiện stress, di chuyển nhiều trong chuồng, phát ra tiếng rít và bỏ ăn, nhưng sẽ ổn định trở lại sau khoảng 15 ngày.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, phương pháp ấp trứng trong gạch nung phủ cát đạt tỷ lệ nở 79,22%, cao hơn so với 55% của phương pháp ấp trứng trực tiếp trong cát Sự khác biệt này có thể do vỏ trứng rắn Hổ mang chúa mỏng và mềm, khiến việc vùi trứng trong cát và tưới nước hàng ngày có thể làm tăng độ ẩm, ảnh hưởng đến khả năng trao đổi dưỡng khí và tăng nguy cơ nhiễm khuẩn Cần tiến hành nghiên cứu thêm để làm rõ vấn đề này.
Bảng 4.6 tổng hợp các chỉ số quan trọng về đàn rắn bố mẹ, bao gồm tổng đàn, số lượng con cái, số con cái sinh sản, tổng số trứng, số trứng đạt tiêu chuẩn (có phôi) và số trứng ấp nở thành công.
Bảng 4 6: Tổng hợp kết quả theo dõi sinh sản và ấp trứng
Stt Các chỉ số Đơn vị tính Số liệu
1 Tổng số đàn bố mẹ Con 60
2 Tổng số con cái Con 40
3 Số con cái sinh sản Con 29
5 Số trứng đạt tiêu chuẩn ấp Quả 680
Hình 4.26: Hiên tượng trứng rắn sùi bọt trước khi nở
Hình 4.27: Rắn non mới nở mới nở và chui ra khỏi vỏ trứng
7 Tỷ lệ con cái sinh sản % 72,5
8 Số trứng bình quân/ổ (con cái) % 27,50
9 Tỷ lệ trứng đạt tiêu chuẩn ấp % 85,43
10 Tỉ lệ ấp nở thành công % 62,47
11 Bình quân con cái /con non Con 10,62
Theo số liệu từ bảng, tỷ lệ sinh sản của rắn Hổ mang chúa cái đạt 72,5% (29/40), với trung bình mỗi cá thể đẻ 27,45 quả trứng mỗi lứa (dao động từ 20 đến 51 quả) Kết quả cho thấy số trứng bình quân của mỗi con cái cao hơn so với nghiên cứu trước đó tại Sierra.
Trong một nghiên cứu, tỷ lệ trứng đạt tiêu chuẩn mang ấp (trứng có phôi) đạt 85,43%, nhưng tỷ lệ trứng ấp nở thành công chỉ đạt 63,47%, tương đương 10,62 con/lứa trong một mùa sinh sản So với Sierra, tỷ lệ ấp nở thành công cao hơn, đạt 82,61%.
Cũng từ số liệu ở Bảng trên, đã tính được năng lực sinh sản của đàn rắn giống thí nghiệm đạt trung bình 10,62 con/ 01 con cái.
Tập tính Hổ mang chúa trong điều kiện nuôi nhốt
Hổ mang chúa thường sống trong môi trường khô ráo, yên tĩnh và đơn độc, ngoại trừ mùa sinh sản Trong điều kiện nuôi nhốt, chúng có thể ăn cả ngày và đêm tùy thuộc vào nhu cầu thức ăn Tuy nhiên, khi nhiệt độ giảm dưới 16,5°C và độ ẩm 49%, chúng không hoạt động, ngay cả khi bị kích thích Vào những ngày nắng nóng, khi được làm mát bằng máy phun sương và quạt, rắn di chuyển nhiều hơn và tìm cách thoát ra ngoài Ngược lại, vào những thời điểm khác, chúng thường nằm yên ở góc tối của chuồng, cuộn tròn với phần đầu hướng ra ngoài, chỉ hoạt động lưỡi khi có dấu hiệu của vật lạ Trong chuồng thí nghiệm rộng, Hổ mang chúa thích leo trèo và hoạt động mạnh vào buổi tối, đặc biệt khi thời tiết thay đổi như trước và sau mưa rào hoặc chuyển mùa.
4.6.2 Thời gian hoạt động trong ngày của rắn Hổ mang chúa
Kết quả quan sát tập tính của Hổ mang chúa trong chuồng nuôi được thực hiện liên tục 24/24 giờ trong 6 ngày, đặc biệt vào những ngày cho rắn ăn, đã được mô tả chi tiết trong bảng 4.7.
Bảng 4 7: Kế quả quan sát tập tính loài Hổ mang chúa Stt
Từ (h) Đến (h) Vận động Ăn HĐSS Nghi ngơi
Dữ liệu được tổng hợp và phân tích cho thấy thời gian hoạt động và cách sử dụng thời gian trong ngày của rắn Hổ mang chúa, với kết quả được trình bày trong bảng (4.8) và phụ lục.
Bảng 4 8: Sử dụng thời gian của rắn Hổ mang chúa
Vận động Ăn HĐSS Nghỉ ngơi
Vận động Ăn HĐSS Nghỉ ngơi
Tỷ lệ thời gian cho các họat động
Hình 4 28: Đồ thị tỷ lệ thời gian dành cho các hoạt động
Kết quả cho thấy: Rắn Hổ mang chúa hoạt động chủ yếu vào ban đêm;
Thời gian ngủ và nghỉ diễn ra từ 05 giờ đến 17 giờ, trong khi thời gian vận động và kiếm ăn bắt đầu từ 17 giờ đến 05 giờ sáng hôm sau Thời gian ăn tập trung được tổ chức từ 18 giờ.
Thời gian dành cho nghỉ ngơi vận là 14h48 ' (chiếm 61,7% thời gian trong ngày); Cho ăn là 5h41 ' (chiếm 23,7%); Cho vận động là 3h30 ' (chiếm
Rắn Hổ mang chúa dành 14,6% thời gian trong ngày cho hoạt động, chủ yếu là ngủ và nghỉ ngơi Thời gian còn lại được sử dụng cho việc ăn uống và tìm kiếm thức ăn Trong suốt tháng 7, không ghi nhận hoạt động sinh dục của loài rắn này.
Rắn Hổ mang chúa có khả năng nhận biết sự chuyển động của các vật lạ từ xa rất tốt, có thể phát hiện người di chuyển trong khoảng 30 mét Khi có người đến gần, rắn trong chuồng sẽ tăng cường chuyển động lưỡi để thu thập thông tin và hướng đầu về phía có người, mặc dù tầm nhìn bị chắn bởi vách chuồng và các vật thể khác.
Khi cho thức ăn vào chuồng, Hổ mang chúa không vội vàng ăn ngay mà quan sát kỹ con mồi, ngẩng cao đầu và thè lưỡi trước khi tấn công bằng một cú cắn mạnh Sau khi tiêm nọc độc để làm tê liệt con mồi trong khoảng 3 phút, nó sẽ nuốt từ phía đầu và nằm yên trong 10-15 phút để tiêu hóa Sau 5 ngày, Hổ mang chúa bắt đầu di chuyển và tìm kiếm thức ăn, cho thấy quá trình tiêu hóa đã hoàn tất Theo kinh nghiệm của người nuôi, thời gian giữa hai lần cho ăn của rắn Hổ mang chúa dao động từ 4 đến 6 ngày, tùy thuộc vào kích thước con mồi và thời tiết.
Rắn Hổ mang chúa non có khả năng nuốt những con mồi lớn và săn mồi như rắn trưởng thành Thức ăn chính của chúng là các loài rắn nhỏ, đặc biệt là rắn nước Để nuôi rắn non, cần cạo vẩy, bỏ ruột và cắt nhỏ thức ăn cho phù hợp với kích thước của chúng.
Hình 4 29: Hổ mang chúa nuốt mồi
(loài Ptyas korros) Hình 4 30: Rắn Hổ mang chúa non nuốt con mồi
Lột xác
Trong điều kiện nuôi nhốt, rắn Hổ mang chúa phát triển nhanh chóng và thường xuyên lột xác Qua 7 tháng quan sát, khoảng cách giữa hai lần lột xác phụ thuộc vào mùa và lượng thức ăn Trong mùa khô, rắn ít lột xác, với khoảng thời gian giữa hai lần lột xác có thể lên đến 3 tháng Ngược lại, từ tháng 3-4 và tháng 6-7, rắn lột xác nhiều hơn Khoảng cách ngắn nhất giữa hai lần lột xác được ghi nhận là 30 ngày vào tháng 4/2010.
Trước khi rắn Hổ mang chúa lột xác, màng mắt chuyển sang màu trắng đục, hiện tượng này được gọi là "đeo kính" Khi thấy dấu hiệu này, chủ nuôi thường thả vào chuồng một quận dây thừng bằng giang để giúp rắn cọ mình, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lột xác Trong thời gian này, rắn di chuyển chậm và tìm nơi kín đáo để ẩn nấp Sau khoảng 2 ngày, màng mắt sẽ trở lại trong suốt với viền đục xung quanh, lúc này rắn sẽ di chuyển nhiều hơn và cọ người vào nền chuồng Quá trình lột xác diễn ra từ đầu đến đuôi, bắt đầu bằng việc lột phần da đầu thường rách không thành khuôn, sau đó rắn cọ thân vào các vật nhám để lột bỏ lớp da đã hóa sừng Sau khi lột xác, da rắn sẽ trở nên sáng và bóng hơn.
Hình 4 31: Hiện tượng "đeo kính" trước khi lột xác
Hình 4 32: Phần đầu Hổ mang chúa đang lột xác
Hình 4 33: Phần thân Hổ mang chúa đang lột xác
Một số nhận xét về tình hình nhân nuôi rắn tại nơi nghiên cứu và các vấn đề về quản lý liên quan
Rắn Hổ mang chúa là loài động vật hoang dã quý hiếm được bảo vệ cao nhất theo luật pháp Việt Nam, yêu cầu các biện pháp quản lý chặt chẽ để ngăn chặn việc khai thác từ thiên nhiên Pháp luật cũng khuyến khích phát triển nhân nuôi hợp pháp các loài động vật này nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội và bảo tồn Việc nhân nuôi rắn Hổ mang chúa cần quản lý nghiêm ngặt đàn giống bố mẹ để tránh cận huyết và thoái hóa giống qua nhiều thế hệ.
Việc nuôi rắn Hổ mang chúa tại Việt Nam hiện nay chủ yếu diễn ra ở quy mô hộ gia đình và phần lớn là bất hợp pháp Nguyên nhân chính bao gồm sự phát triển tự phát trong chăn nuôi, thiếu hướng dẫn về quản lý và quy trình kỹ thuật, cũng như hạn chế trong việc phòng trị dịch bệnh và vệ sinh môi trường, dẫn đến rủi ro cho người nuôi Hơn nữa, nhiều cơ sở nuôi không có phương pháp theo dõi và quản lý phả hệ, làm tăng nguy cơ cận huyết và thoái hóa giống, đồng thời gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc kiểm soát theo quy định pháp luật.
Việc đề xuất và thực hiện các nghiên cứu, thử nghiệm nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến phát triển bền vững trong nhân nuôi rắn là rất quan trọng Điều này không chỉ đảm bảo sự phát triển bền vững mà còn tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật hiện hành.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
1 Đã mô tả những đặc điểm hình thái ngoài của quần thể Rắn Hổ mang nghiên cứu, trong đó đáng lưu ý về sự đa hình về mầu sắc giữa rắn non và rắn trưởng thành, cũng như sự đa dạng về mầu sắc của rắn trưởng thành (màu xám nhạt, đen hoặc màu đất bẩn) Hổ mang chúa mới nở có chiều dài bình quân 49,39cm, khối lượng đạt 20,08 gam So với khối lượng trứng ban đầu trước khi ấp giảm 5,22.gam
Trong điều kiện nuôi nhốt thực nghiệm kéo dài 7 tháng, đàn giống bố mẹ có mức tăng trưởng trung bình là 0,07 kg/con/tháng, trong đó con đực đạt mức tăng trưởng cao hơn (0,09 kg/con/tháng) so với con cái (0,05 kg/con/tháng) Tốc độ tăng trưởng này còn thay đổi theo mùa, tình trạng sinh sản và giới tính, có thể lên đến 0,39 kg/tháng đối với con cái và 0,18 kg/tháng đối với con đực.
Con cái sau sinh sản có lượng tăng trưởng âm (-0,65kg/tháng) trong khi đó con đực có mức tăng trưởng cao nhất
Rắn Hổ mang chúa có 8 loài động vật làm thức ăn, bao gồm 7 loài rắn nước và 1 loài cóc nhà Các loài thức ăn ưa thích của chúng là Rắn ráo, Rắn bồng chì và Rắn bồng Trung Quốc, trong khi Rắn nước vân đen, Rắn nước, Rắn hoa cỏ vàng và Rắn hoa cỏ nhỏ là những loài ưa thích ở mức trung bình Cóc nhà là loại thức ăn ít được ưa chuộng Khẩu phần ăn trung bình của rắn Hổ mang chúa chiếm 15% trọng lượng cơ thể, với hiệu suất chuyển hóa thức ăn là 6,2 kg thức ăn cho 1 kg tăng trọng Một phương trình tương quan giữa lượng tăng trưởng bình quân (Y) và lượng thức ăn tiêu thụ (X) đã được xác định: Y = 0.008301593 + 0.160706739 X, với hệ số tương quan R = 0.96818949.
4 Rắn Hổ mang chúa sinh sản mỗi năm 1 lứa, mùa sinh sản tập trung vào tháng 5-6 Tỷ lệ bình quân con cái sinh sản được đạt 72,5%, với số lượng trứng 27,45 quả/lứa/một cá thể cái đẻ được Tỷ lệ ấp nở thành công trung bình chỉ đạt 10,62 con non/con cái trong một mùa sinh sản Phương pháp ấp trứng trong gạch nung phủ cát cho tỷ lệ trứng nở đạt 79,22%, cao hơn nhiều so với phương pháp ấp trứng trực tiếp trong cát, có tỉ lệ nở 55%
5 Rắn Hổ mang chúa hoạt động chủ yếu vào ban đêm, trong một ngày, thời gian dành cho nghỉ ngơi là chiếm 61,7%, cho ăn mồi chiếm 23,7% và vận động là 14,6% Tần xuất lột xác thay đổi theo mùa, từ tháng 3-4 và tháng 6-7 rắn lột xác nhiều hơn, thời gian ngắn nhất giữa 2 lần lột xác là 30 ngày và dài nhất có thể tới 3 tháng Thời gian giữa hai lần ăn mồi khoảng 4- 6 ngày.
Kiến nghị
1 Đề tài được thực hiện trong thời gian ngắn, chỉ tập trung nghiên cứu con trưởng thành và đặc điểm sinh sản, do vậy để có kết luận đầy đủ hơn cần nghiên cứu bổ sung các nhóm tuổi khác để có thêm các số liệu khoa học nhằm hoàn thiện quy trình kỹ thuật gây nuôi rắn Hổ mang chúa
2 Thực tế việc quản lý nuôi rắn Hổ mang chúa tại địa phương và trên toàn quốc nói chung còn nhiều vấn đề bật cập, cần có các nghiên cứu tìm biện pháp quản lý phù hợp, đáp ứng được các qui đinh của pháp luật hiện hành, nhưng vẫn phát triển được nghề chăn nuôi rắn Hổ mang chúa.