1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự việt nam

45 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quyết Định Hình Phạt Trong Trường Hợp Chuẩn Bị Phạm Tội, Phạm Tội Chưa Đạt Theo Luật Hình Sự Việt Nam
Tác giả Lê Quang Trí
Người hướng dẫn Thạc Sĩ Huỳnh Thị Lệ Kha
Trường học Trường Đại Học Thủ Dầu Một
Chuyên ngành Luật học
Thể loại báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học
Năm xuất bản 2014-2015
Thành phố Thủ Dầu Một
Định dạng
Số trang 45
Dung lượng 420,57 KB

Cấu trúc

  • 1.1. Khái niệm, căn cứ và ý nghĩa của việc quyết định hình phạt (8)
    • 1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt (8)
    • 1.1.2. Căn cứ để quyết định hình phạt (9)
    • 1.1.3. Những trường hợp quyết định hình phạt cụ thể (12)
      • 1.1.3.1. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của bộ luật hình sự (12)
      • 1.1.3.2. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (15)
    • 1.1.4. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt (16)
  • 1.2. Khái niệm, đặc điểm của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt (18)
    • 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của hành vi chuẩn bị phạm tội (18)
    • 1.2.2. Khái niệm, đặc điểm của hành vi phạm tội chưa đạt (20)
    • 1.2.3. Phân biệt hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt (21)
  • 1.3. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về chế định quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt từ năm 1945 cho đến nay (21)
    • 1.3.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành bộ luật hình sự năm 1985 (21)
    • 1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành bộ luật hình sự năm 1999 (0)
    • 1.3.3. Giai đoạn từ sau khi ban hành bộ luật hình sự 1999 đến nay (24)
  • 1.4. Kinh nghiệm của một số nước trong việc quyết định hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (24)
  • CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT (29)
    • 2.1. Quy định pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về quyết định hình phạt trong trường hơp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (29)
    • 2.2. Căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo pháp luật hình sự Việt Nam (30)
    • 2.3. Nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (32)
    • 3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (38)
    • 3.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về quyết định hình phạt (40)
  • KẾT LUẬN (42)

Nội dung

Khái niệm, căn cứ và ý nghĩa của việc quyết định hình phạt

Khái niệm quyết định hình phạt

Khái niệm "quyết định hình phạt" là một trong những yếu tố cơ bản và quan trọng nhất trong pháp luật hình sự Việt Nam, phản ánh bản chất giai cấp của pháp luật Trước khi Bộ luật hình sự 1985 được ban hành, thuật ngữ này chưa tồn tại và hoạt động quyết định hình phạt chỉ được hiểu qua khái niệm "lượng hình" Việc sử dụng thuật ngữ "quyết định hình phạt" chính thức bắt đầu từ Bộ luật hình sự năm 1985.

Luật hình sự Việt Nam hiện nay chưa định nghĩa rõ ràng về quyết định hình phạt, mà chỉ được nghiên cứu từ góc độ lý thuyết trong lĩnh vực luật hình sự Khái niệm này chưa được quy định trong các văn bản pháp lý chính thức, và chủ yếu dựa vào quan điểm cá nhân của một số tác giả.

Quyết định hình phạt là quá trình mà Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức độ cụ thể trong khuôn khổ pháp luật để áp dụng cho người phạm tội.

Quan điểm cho rằng quyết định hình phạt là hoạt động của Tòa án trong việc lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể, bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, là một cách tiếp cận chi tiết hơn Tuy nhiên, quan điểm này vẫn chưa đầy đủ khi chưa đề cập hết các vấn đề mà Tòa án phải xem xét trong giai đoạn quyết định hình phạt.

Quyết định hình phạt là quá trình mà tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức độ hình phạt cụ thể theo quy định của pháp luật để áp dụng cho người phạm tội Theo tác giả, khái niệm này có thể được hiểu theo hai cách: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.

Thứ nhất: Quyết định hình phạt theo nghĩa hẹp là quyết định hình phạt chính và hình phạt bổ sung.

Quyết định hình phạt theo nghĩa rộng bao gồm các hình phạt chính và bổ sung, cùng với các biện pháp chấp hành hình phạt Ngoài ra, còn có quyết định miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc áp dụng các biện pháp tư pháp khác nhằm thay thế hoặc bổ sung cho hình phạt.

Chính vì vậy khái niệm quyết định hình phạt có thể được khái niệm như sau:

Quyết định hình phạt của Tòa án dựa trên các căn cứ pháp lý để lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể, bao gồm cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung Tòa án cũng quyết định các biện pháp chấp hành hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc áp dụng các biện pháp tư pháp khác nhằm thay thế hoặc bổ sung hình phạt, đặc biệt trong trường hợp người phạm tội là người chưa thành niên.

Căn cứ để quyết định hình phạt

Quyết định hình phạt là một bước quan trọng trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự, yêu cầu phải tuân thủ các nguyên tắc như pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhân đạo xã hội chủ nghĩa, và cá thể hóa trách nhiệm hình sự Những nguyên tắc này không chỉ mang tính chỉ đạo mà còn được thể hiện cụ thể qua các căn cứ quyết định hình phạt, đảm bảo sự công bằng và hợp lý trong việc xử lý tội phạm.

Thứ nhất : Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự

Theo điều 45 Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009), Tòa án quyết định hình phạt dựa trên các căn cứ như quy định của Bộ luật hình sự, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, cùng với các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tòa án quyết định hình phạt dựa trên quy định của Bộ luật hình sự, trong đó các quy định về tội phạm và hình phạt là cơ sở quan trọng Quyết định này không chỉ tuân thủ các quy định pháp luật mà còn phản ánh nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc áp dụng hình phạt.

Các quy định của Bộ luật hình sự là căn cứ quyết định hình phạt bao gồm các quy định ở phần chung và quy định ở phần các tội phạm.

Bộ luật hình sự quy định các nguyên tắc xử lý tại Điều 3, cùng với các quy định về hình phạt từ Điều 26 đến Điều 40, bao gồm mục đích, nội dung, phạm vi và điều kiện áp dụng Điều 45 nêu rõ căn cứ quyết định hình phạt, trong khi các Điều 47, 50, 51, 52, 53 đề cập đến quyết định hình phạt trong các trường hợp đặc biệt Tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 46, trong khi Điều 48 quy định về tăng nặng trách nhiệm hình sự Điều 49 nói về tái phạm và tái phạm nguy hiểm, còn Điều 60 quy định về án treo Ngoài ra, còn có các quy định về miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt, cùng với các nguyên tắc chung cho việc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong chương X phần chung của Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào quy định trong Bộ Luật Hình Sự, việc quyết định hình phạt được xác định bởi khung hình phạt chính và hình phạt bổ sung tương ứng với từng loại tội phạm.

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, tòa án có quyền xác định khung hình phạt phù hợp, từ đó lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể.

Thứ hai : Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm

Tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm được thể hiện qua hai khái niệm quan trọng: “tính chất” và “mức độ” Tính chất nguy hiểm cho xã hội phản ánh những đặc điểm riêng biệt của từng loại tội phạm, trong khi mức độ nguy hiểm thể hiện khía cạnh “lượng” Cả hai yếu tố này là cơ sở để luật pháp quy định các tội phạm, hình phạt và biện pháp xử lý tương ứng Do đó, khi quyết định hình phạt, Tòa án cần xem xét kỹ lưỡng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm cụ thể.

Tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm: tính chất của quan hệ xã hội được bảo vệ bởi luật hình sự; hành vi gây nguy hiểm cho xã hội; mức độ nghiêm trọng của hậu quả do tội phạm gây ra; thủ đoạn và phương pháp thực hiện; hình thức và mức độ lỗi; động cơ và mục đích của người phạm tội; hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội tại thời điểm xảy ra tội phạm; cũng như các tình tiết về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Thứ ba :căn cứ vào nhân thân của người phạm tội

Nhân thân của người phạm tội trong luật hình sự bao gồm những đặc điểm riêng biệt có ảnh hưởng đến việc xác định trách nhiệm hình sự Các đặc điểm này là cơ sở để quyết định hình phạt, nhằm đạt được mục tiêu trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội và ngăn ngừa hành vi tái phạm.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án cần phải cân nhắc những đặc điểm về nhân thân người phạm tội dưới đây khi quyết định hình phạt:

Đặc điểm nhân thân của người phạm tội có ảnh hưởng lớn đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, thông qua việc tác động đến mức độ lỗi của họ Chẳng hạn, nếu người phạm tội mắc bệnh ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, hoặc thực hiện tội phạm do hoàn cảnh sống lạc hậu, thì mức độ nguy hiểm của hành vi đó có thể bị giảm đi.

Những đặc điểm về nhân thân của người phạm tội có thể cho thấy khả năng cải tạo và giáo dục của họ Chẳng hạn, việc người phạm tội tự thú hay thành khẩn khai báo là những dấu hiệu tích cực, phản ánh sự sẵn sàng nhận trách nhiệm và mong muốn thay đổi.

Đặc điểm nhân thân của người phạm tội phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của họ, do đó Tòa án cần xem xét những yếu tố này khi quyết định hình phạt Việc này nhằm đảm bảo rằng hình phạt đưa ra không chỉ thực tế mà còn phù hợp với chính sách của nhà nước, các nguyên tắc của luật hình sự, cũng như đáp ứng mục đích trừng trị và giáo dục người phạm tội.

Thứ tư :các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự

Các tình tiết này không ảnh hưởng đến việc xác định tội danh hay khung hình phạt, mà chỉ có tác dụng điều chỉnh mức độ trách nhiệm hình sự trong một khung hình phạt cụ thể.

Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điều 46 và điều 48 của Bộ luật hình sự hiện hành.

Nhà làm luật không thể quy định cụ thể mức độ ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với hình phạt, vì chúng phụ thuộc vào từng loại tội và vụ án cụ thể Do đó, Tòa án cần đánh giá tác động của các tình tiết này khi quyết định hình phạt, coi chúng như một trong những căn cứ quan trọng trong quá trình ra quyết định.

Nhìn chung, những tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự có thể được chia làm 3 nhóm:

Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm việc liệu hành vi đó đã gây thiệt hại hay chưa, hoặc nếu có, thiệt hại đó có lớn hay không Ngoài ra, hậu quả của hành vi phạm tội cũng được phân loại thành nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến đánh giá và xử lý pháp lý.

Những trường hợp quyết định hình phạt cụ thể

1.1.3.1 Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự

Trong Bộ luật hình sự, khung hình phạt được quy định dựa trên mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội Tuy nhiên, trong thực tế, có những trường hợp phạm tội với nhiều tình tiết giảm nhẹ, khiến hình phạt tối thiểu có thể trở nên quá nghiêm khắc Do đó, Nhà nước cho phép Tòa án quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định, nhằm cá thể hóa hình phạt và đảm bảo tính nhân đạo trong pháp luật hình sự Quy định này giúp hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009), Tòa án có thể quyết định hình phạt nhẹ hơn mức tối thiểu nếu có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 46 Trong trường hợp chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt nhẹ nhất, Tòa án có quyền áp dụng hình phạt dưới mức tối thiểu hoặc chuyển sang hình phạt nhẹ hơn Lý do giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án Để thực hiện quyết định này, Tòa án cần căn cứ vào các điều khoản tại Điều 45 và Điều 47 của Bộ luật Hình sự Các tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 46 được coi là phổ biến và có giá trị cao hơn so với các tình tiết khác theo khoản 2, do đó, việc áp dụng hình phạt nhẹ hơn yêu cầu người phạm tội phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1.

Khi quyết định hình phạt nhẹ hơn, Tòa án cần xem xét kỹ lưỡng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Nếu chỉ có một tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 46 BLHS, cùng với một hoặc nhiều tình tiết khác, điều này vẫn không đủ để áp dụng hình phạt dưới mức tối thiểu của khung hình phạt do luật định Quy định này nhằm đảm bảo tính chính xác trong việc quyết định hình phạt, đồng thời ngăn chặn việc lạm dụng pháp luật trong việc xác định tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 46 BLHS.

Bộ luật hình sự một cách tùy tiện.

Khi người phạm tội có đủ căn cứ để áp dụng hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, Tòa án sẽ quyết định hình phạt phù hợp, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, nhưng chỉ trong giới hạn cho phép.

Nếu một điều luật có từ hai khung hình phạt trở lên và khung hình phạt đang áp dụng không phải là khung nhẹ nhất, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức tối thiểu của khung hình phạt đã quy định, nhưng phải nằm trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật.

Khung hình phạt nhẹ hơn được xác định dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt Nếu một khung hình phạt có mức cao nhất thấp hơn khung hình phạt khác, thì khung hình phạt đó được coi là nhẹ hơn Trong trường hợp hai khung hình phạt có mức cao nhất bằng nhau, khung hình phạt nào có mức thấp nhất thấp hơn sẽ được xem là nhẹ hơn.

Trong Bộ luật hình sự, các tội phạm có nhiều khung hình phạt thường được sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ đến nặng, với khoản 1 là khoản nhẹ nhất Nếu một điều luật có ba khung hình phạt, thì khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của khoản 3 là khoản 2, và khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của khoản 2 là khoản 1.

Một số điều luật quy định khung hình phạt theo thứ tự giảm dần từ nặng đến nhẹ, với khoản 1 thường là khoản có khung hình phạt nặng nhất Trong trường hợp này, khung hình phạt nhẹ hơn liền kề với khoản 1 sẽ là khoản 2 của điều luật.

Khi quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, mức hình phạt không được thấp hơn mức tối thiểu của khung hình phạt liền kề nhẹ hơn và phải nhẹ hơn mức tối thiểu của khung hình phạt mà điều luật quy định Ví dụ, trong trường hợp tội giết người theo khoản 1 Điều 93 BLHS với khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm, nếu áp dụng Điều 47 BLHS để chuyển sang khung hình phạt tại khoản 2 Điều 93 BLHS (từ 7 đến 15 năm tù), Tòa án phải quyết định hình phạt từ 7 năm tù đến dưới 12 năm tù Điều này đảm bảo rằng hình phạt đưa ra luôn trong giới hạn hợp lý của các khung hình phạt quy định.

Nếu điều luật chỉ quy định một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là mức nhẹ nhất, Tòa án có thể áp dụng hình phạt dưới mức tối thiểu hoặc chuyển sang hình phạt nhẹ hơn.

Trong trường hợp quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, chỉ được áp dụng khi mức thấp nhất của khung hình phạt cao hơn mức thấp nhất của loại hình phạt Tòa án không được quyết định mức hình phạt nhẹ hơn mức thấp nhất đã quy định trong Bộ luật hình sự Ví dụ, mức thấp nhất của hình phạt tù có thời hạn là 3 tháng, cải tạo không giam giữ là 6 tháng, và phạt tiền là 1 triệu đồng Nếu một người phạm tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 133 BLHS (khung hình phạt từ 3 năm đến 10 năm tù), và có đủ điều kiện áp dụng Điều 47 BLHS, Tòa án có thể áp dụng hình phạt từ 3 tháng đến dưới 3 năm tù.

Khi Tòa án quyết định chuyển sang hình phạt nhẹ hơn, ví dụ như trong trường hợp người phạm tội giết con mới đẻ theo Điều 94 BLHS với khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm, nếu người đó đủ điều kiện áp dụng Điều 47 BLHS, Tòa án có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn như cảnh cáo.

Theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, khi quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, cần chú ý đến các yếu tố như tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Việc áp dụng hình phạt nhẹ hơn phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc của pháp luật và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.

Việc áp dụng quy định tại Điều 47 BLHS cần được thực hiện một cách hạn chế và chặt chẽ, đặc biệt khi không có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 46 BLHS Trong trường hợp này, bị cáo sẽ phải nhận mức phạt cao nhất trong khung hình phạt Ngược lại, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 46 BLHS, Tòa án có thể quyết định mức phạt thấp hơn trong khung hình phạt đối với bị cáo.

Quyết định áp dụng hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự chỉ áp dụng cho các hình phạt chính, không bao gồm hình phạt bổ sung Hình phạt bổ sung có tác dụng loại trừ những điều kiện nhất định, ngăn không cho người phạm tội tiếp tục vi phạm Do đó, việc chuyển sang hình phạt nhẹ hơn đối với hình phạt bổ sung là không khả thi.

Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt

Hệ thống tư pháp hình sự có thể được hiểu như một quy trình bắt đầu từ hành vi vi phạm pháp luật của người phạm tội và kết thúc khi họ hoàn thành hình phạt, được giáo dục và cải tạo để trở về với xã hội Sự "đổi mới" của người phạm tội sau quá trình này là tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả của hệ thống tư pháp hình sự Trong đó, quyết định hình phạt đóng vai trò then chốt, quyết định sự thành công trong việc tái hòa nhập của người phạm tội vào cộng đồng.

Quyết định hình phạt đúng đắn, tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm cùng nhân thân người phạm tội là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả hình phạt Hiệu quả này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như xây dựng luật, quyết định hình phạt, chấp hành hình phạt, và tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật, nhưng quyết định hình phạt vẫn là yếu tố quan trọng nhất Nếu hình phạt không được áp dụng chính xác, hệ thống pháp luật hình sự sẽ trở nên cứng nhắc Tính hợp lý và hiệu quả của quy phạm pháp luật hình sự, bao gồm hình phạt, được kiểm nghiệm qua thực tiễn xét xử của Tòa án.

Quyết định hình phạt đúng đắn là yếu tố quan trọng trong việc củng cố pháp chế và trật tự pháp luật Xã hội chủ nghĩa Để đưa ra hình phạt chính xác, thẩm phán cần hiểu rõ các nguyên tắc và quy định liên quan đến quyết định hình phạt Hình phạt phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cũng như nhân thân của người phạm tội Hơn nữa, quyết định hình phạt cần có tác động tích cực đến tâm lý xã hội, đặc biệt là những người có tâm lý dễ dao động, giúp họ nhận thức và từ bỏ ý định phạm tội, đồng thời khuyến khích sự tôn trọng và bảo vệ pháp luật.

Quyết định hình phạt phản ánh chính sách hình sự của Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử Hình phạt không chỉ là một quy định pháp lý đơn thuần mà còn mang tính chất chính trị và xã hội, thể hiện rõ ràng chính sách hình sự của đất nước.

Hình phạt là một phần quan trọng trong chính sách xã hội, phản ánh bản chất giai cấp và chính sách hình sự của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Theo Điều 3 BLHS hiện hành, mọi hành vi phạm tội cần được phát hiện kịp thời và xử lý công minh theo pháp luật, với sự nghiêm trị đối với những người chủ mưu và khoan hồng cho những người tự thú và thành khẩn khai báo Để đạt được mục đích cao nhất của hình phạt, quyết định của Tòa án cần tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời phù hợp với xu thế xã hội và chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước.

Khái niệm, đặc điểm của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt

Khái niệm, đặc điểm của hành vi chuẩn bị phạm tội

Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên trong quá trình thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, bắt đầu khi người phạm tội thực hiện các bước cần thiết để tiến hành hành vi phạm tội.

Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn quan trọng, trong đó người phạm tội tìm kiếm và chuẩn bị công cụ cũng như điều kiện cần thiết để thực hiện hành vi phạm pháp Sự cẩn thận và kỹ lưỡng trong quá trình này có thể gia tăng khả năng phạm tội Tuy nhiên, nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như không gian, thời gian và hoàn cảnh có thể ảnh hưởng đến việc chuẩn bị và thực hiện tội phạm, dẫn đến sự khác biệt trong từng trường hợp cụ thể Điều này cho thấy tính phức tạp của các tội phạm thực tế, đòi hỏi sự quan tâm từ các nhà làm luật để xử lý hiệu quả trong các giai đoạn phạm tội, đặc biệt là giai đoạn chuẩn bị.

Dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự hiện nay có nhiều quan điểm về khái niệm chuẩn bị phạm tội như sau:

Chuẩn bị phạm tội được coi là giai đoạn đầu tiên trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý, trong đó người phạm tội tìm kiếm công cụ và phương tiện, lập kế hoạch thực hiện tội phạm, rủ rê người khác tham gia hoặc thực hiện các hành vi khác nhằm tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm, nhưng chưa bắt đầu hành vi khách quan được quy định trong cấu thành tội phạm.

Hành vi chuẩn bị phạm tội được coi là giai đoạn đầu tiên trong quá trình thực hiện tội phạm cố ý, trong đó người phạm tội thực hiện các hành động cần thiết để tạo ra điều kiện cho việc thực hiện một tội phạm cụ thể, như đã quy định trong Bộ luật hình sự.

Có quan điểm cho rằng việc dừng lại có lý do, theo đó, "chuẩn bị phạm tội" được hiểu là hành vi tạo ra các điều kiện cần thiết để thực hiện một tội phạm cụ thể theo quy định của pháp luật.

Bộ luật hình sự quy định rằng nếu một tội phạm chưa được thực hiện thì phải dừng lại do nguyên nhân ngoài ý muốn Quan điểm này mở rộng không chỉ đề cập đến hành vi phạm tội mà còn bao gồm việc tìm kiếm đồng phạm và nguyên nhân dẫn đến việc dừng lại Cụ thể, "chuẩn bị phạm tội" được hiểu là hành vi tìm kiếm hoặc chuẩn bị công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm, cũng như tìm kiếm đồng phạm và tạo ra các điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm, nhưng không thực hiện được vì những nguyên nhân ngoài ý muốn.

Theo quan điểm cá nhân, chuẩn bị phạm tội là giai đoạn quan trọng trong quá trình thực hiện tội phạm, bao gồm việc tìm kiếm và chuẩn bị công cụ, phương tiện, cũng như tạo ra các điều kiện cần thiết Tuy nhiên, hành vi này có thể không dẫn đến việc thực hiện tội phạm do những nguyên nhân khách quan.

Căn cứ vào những quan điểm đã nêu trên, ta thấy được hành vi chuẩn bị phạm tội có những đặc điểm sau:

Đầu tiên, việc chuẩn bị và tìm kiếm công cụ, phương tiện cũng như tạo ra các điều kiện cần thiết để thực hiện hành vi phạm tội được thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau.

Tìm kiếm công cụ và phương tiện phạm tội bao gồm việc người phạm tội mua sắm, mượn hoặc sử dụng các hình thức khác để có được những công cụ này, thông qua cả cách hợp pháp lẫn bất hợp pháp.

"Sửa soạn" công cụ và phương tiện phạm tội đề cập đến hành vi của người phạm tội trong việc chế tạo, thay thế, lắp ráp hoặc sửa chữa các công cụ và phương tiện nhằm mục đích thực hiện tội phạm một cách dễ dàng và thuận lợi hơn.

Người phạm tội thường tạo ra những điều kiện thuận lợi để thực hiện hành vi phạm tội, bao gồm việc lập kế hoạch, nghiên cứu địa hình và chuẩn bị kỹ lưỡng Những hành động này nhằm mục đích làm cho việc thực hiện tội phạm trở nên dễ dàng hơn, đồng thời giảm thiểu khả năng bị phát hiện hoặc ngăn chặn.

Người phạm tội chưa thực hiện các hành vi phạm tội cụ thể theo quy định của pháp luật hình sự, mà chỉ tiến hành các hoạt động nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm sau này.

Thứ ba, là việc người phạm tội không thực hiện đến cùng mục đích của mình vì những lý do khách quan ngoài ý muốn của họ.

Khái niệm, đặc điểm của hành vi phạm tội chưa đạt

Phạm tội chưa đạt là giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm, khi người phạm tội đã bắt đầu hành vi nhưng không hoàn thành vì lý do khách quan Sự phức tạp của tội phạm hiện nay đòi hỏi có quy định rõ ràng về phạm tội chưa đạt, giúp quyết định hình phạt một cách hợp lý và nhân đạo hơn, từ đó mở ra cơ hội cho người phạm tội sớm trở lại với xã hội.

Dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự, một số tác giả đã đưa ra các quan điểm khác nhau về khái niệm phạm tội chưa đạt, nhấn mạnh sự cần thiết phải hiểu rõ các yếu tố cấu thành và hậu quả của hành vi này trong bối cảnh pháp luật hiện hành.

Trong khoa học luật hình sự, "phạm tội chưa đạt" được định nghĩa là hành vi cố ý trực tiếp nhằm thực hiện một tội phạm, nhưng không thành công do những nguyên nhân ngoài ý muốn của người thực hiện.

Phạm tội chưa đạt được coi là giai đoạn thứ hai trong quá trình thực hiện tội phạm, diễn ra sau giai đoạn chuẩn bị Tại giai đoạn này, người phạm tội sử dụng những điều kiện thuận lợi đã chuẩn bị để thực hiện hành vi theo quy định trong cấu thành tội phạm, nhưng không thể hoàn thành do các nguyên nhân khách quan cản trở.

Tác giả không đưa ra khái niệm cụ thể về tội phạm chưa đạt, mà chỉ nêu rõ rằng trong quá trình thực hiện tội phạm, có những trường hợp kẻ phạm tội không hoàn thành đầy đủ các hành vi cần thiết hoặc không đạt được kết quả mong muốn, do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của họ.

Phạm tội chưa đạt được xem là giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm, khi người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự nhưng không thể hoàn thành do những lý do khách quan.

Dựa trên những khái niệm đã nêu trên, ta có thể khái quát đặc điểm của phạm tội chưa đạt như sau:

Người phạm tội đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự, xâm hại đến các quan hệ xã hội mà pháp luật này thiết lập và bảo vệ.

Thứ hai, người phạm tội chưa thể hoặc không thể thực hiện đến cùng hành vi phạm tội vì những nguyên nhân nằm ngoài ý muốn chủ quan của họ.

Phân biệt hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt

Chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đều là giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm, nhưng có sự khác biệt cơ bản về tính chất Trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, người phạm tội chỉ thực hiện các hành vi như tìm kiếm và chuẩn bị công cụ mà chưa xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ Ngược lại, phạm tội chưa đạt xảy ra khi người phạm tội đã bắt đầu thực hiện hành vi vi phạm, đe dọa xâm hại các quan hệ xã hội này Do đó, mức độ nguy hiểm và trách nhiệm hình sự của hai trường hợp này cũng khác nhau theo quy định của pháp luật.

Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về chế định quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt từ năm 1945 cho đến nay

Giai đoạn từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành bộ luật hình sự năm 1985

Sự kiện Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đánh dấu bước chuyển mình quan trọng trong mọi lĩnh vực của nhà nước Việt Nam, đặc biệt là trong pháp luật Trước đây, Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ và áp dụng luật pháp của Pháp, nhưng sau Cách mạng, nhà nước mới đã ban hành những quy định nhằm bảo vệ trật tự xã hội và chính quyền non trẻ Những quy định này không chỉ mới mẻ mà còn mang tính sáng tạo, nhân văn và đậm đà bản sắc dân tộc.

Trong bối cảnh chiến tranh, việc xây dựng hệ thống pháp luật hình sự toàn diện gặp nhiều khó khăn, dẫn đến việc không có văn bản pháp luật nào quy định rõ ràng về hình phạt cho hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt Mặc dù vậy, sắc luật số 02/SLT ban hành ngày 18/06/1957 đã đề cập đến các trường hợp cụ thể như phạm pháp quả tang và những tình huống khẩn cấp, cho phép cơ quan Công an thực hiện bắt giữ nhằm ngăn ngừa thiệt hại đến an ninh quốc gia, trật tự xã hội, tài sản của Nhà nước và tính mạng của nhân dân trước khi có lệnh từ cơ quan tư pháp hoặc Tòa án quân sự.

1 Có hành động chuẩn bị làm việc phạm pháp.

2 Người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra vụ phạm pháp chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là kẻ phạm pháp.

3 Tìm thấy chứng cớ phạm pháp trong người hoặc tại nhà ở của người tình nghi phạm pháp.

4 Có hành động chuẩn bị trốn, hoặc đang trốn.

5 Có hành động chuẩn bị tiêu hủy chứng cớ hoặc đang tiêu hủy chứng cớ; làm giả chứng cớ hoặc đang tiêu hủy chứng cớ Có sự thông đồng giữa những kẻ phạm pháp với nhau để trốn tránh pháp luật.

6 Căn cước, lai lịch không rõ ràng.

Bản tổng kết số 452/HS2 ngày 18/09/1970 chỉ ra rằng hành vi chuẩn bị phạm tội được coi là nguy hiểm và phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng chưa có quy định cụ thể về hình phạt cho hành vi này Mặc dù tài liệu có hướng dẫn về quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa đạt, nhưng chỉ áp dụng cho trường hợp giết người chưa đạt, vẫn thiếu quy định tổng quát cho các hành vi chuẩn bị phạm tội khác.

Hậu quả của tội giết người đã thành thương thường bị xử nặng hơn so với tội giết người chưa đạt, do tính chất nghiêm trọng hơn của hậu quả Trong các vụ giết người chưa đạt, những trường hợp gây thương tích nặng thường nhận mức án cao hơn so với những trường hợp chỉ gây thương tích nhẹ Ngược lại, các trường hợp chỉ gây thương tích nhẹ thường bị xử phạt nặng hơn so với những vụ chưa gây thương tích.

Pháp luật hình sự hiện tại chưa quy định cụ thể về hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt Thông tin này chủ yếu được đề cập thông qua các sắc luật và tổng kết xét xử của Tòa án.

1.3.2 Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 đến trước khi ban hành

Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ra đời vào năm 1985, đã đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ của đất nước, với quy định cụ thể về khái niệm chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt trong Điều 15.

1 Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm Người chuẩn bị phạm một tội nghiêm trọng phải chịu trách nhiệm hình sự.

2 Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.

3 Đối với những hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các Điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng, tuỳ theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.

Chế định quyết định hình phạt cho hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt không được quy định độc lập trong chương quyết định hình phạt Thay vào đó, nó được quy định chung với các điều khoản liên quan tại khoản 3 Điều 15 của Bộ luật Hình sự 1985.

Bộ luật hình sự 1985 chỉ đưa ra các căn cứ để xác định hình phạt và quy định khung hình phạt chung cho mọi trường hợp, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành, nhưng chưa xác định rõ giới hạn cụ thể cho từng loại tội phạm.

Giai đoạn từ sau khi ban hành bộ luật hình sự 1999 đến nay

Từ năm 1985 đến 1999, qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung, các nhà làm luật đã nhận ra sự cần thiết phải quy định chi tiết và chặt chẽ hơn về vấn đề này dựa trên thực tiễn xét xử.

Tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 6, khóa X đã thông qua Bộ luật hình sự Việt Nam năm

Bộ luật hình sự năm 1999 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/07/2000, quy định về vấn đề chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt tại điều 17 và 18 Ngày 04/08/2000, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP, hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của bộ luật này, bao gồm cả vấn đề chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.

Chế định hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đã được cải cách trong Bộ luật hình sự 1999, với quy định rõ ràng về việc giảm nhẹ hình phạt cho những trường hợp này Cụ thể, hình phạt dành cho người chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt phải thấp hơn so với hình phạt của người thực hiện tội phạm hoàn thành, thể hiện nguyên tắc cá thể hóa hình phạt Điều này tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho Tòa án trong việc quyết định hình phạt phù hợp Tuy nhiên, mặc dù Bộ luật hình sự đã được sửa đổi vào năm 2009, các quy định liên quan đến chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt vẫn được giữ nguyên.

Kinh nghiệm của một số nước trong việc quyết định hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt

trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, đặt ra thách thức cho nhà nước và yêu cầu cho cá nhân, tổ chức, và cơ quan, bao gồm cả các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý Sự phát triển và thành tựu của khoa học pháp lý tại các quốc gia lớn trên thế giới cung cấp những kinh nghiệm quý báu, hỗ trợ quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật tại Việt Nam.

Bài viết sẽ tập trung vào quy định liên quan đến chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, cũng như cách quyết định hình phạt trong các trường hợp này tại Liên bang Nga và Ukraina Đây là hai quốc gia không xa lạ với Việt Nam, đã cùng nhau phát triển trên con đường xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ hưng thịnh của Liên bang Xô Viết.

Bộ luật hình sự liên bang Nga được thông qua bởi Đu-ma quốc gia vào ngày 24/5/1996, được hội đồng liên bang phê chuẩn vào ngày 5/6/1996, và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/1997 sau khi tổng thống ký ban hành vào ngày 13/6/1996 Từ đó, bộ luật đã trải qua nhiều lần sửa đổi, với lần sửa đổi gần nhất diễn ra vào ngày 5/4/2013.

Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định về việc phân loại tội phạm như sau: Điều 5 Phân loại tội phạm

Theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, tội phạm được phân loại thành bốn nhóm: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng trung bình, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Tội phạm ít nghiêm trọng bao gồm những hành vi cố ý hoặc vô ý, với mức hình phạt tối đa theo quy định của bộ luật này không vượt quá ba năm tù.

Tội phạm nghiêm trọng trung bình bao gồm các hành vi phạm tội cố ý với mức án tối đa không vượt quá năm năm tù, và các hành vi phạm tội vô ý có mức án tối đa trên ba năm tù theo quy định của bộ luật.

4 Tội phạm nghiêm trọng là những hành vi cố ý mà mức cao nhất của khung hình phạt do bộ luật này quy định là không quá mười năm tù.

Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được xác định là những hành vi cố ý mà mức hình phạt cao nhất theo quy định của bộ luật này là trên mười năm tù hoặc các hình phạt nghiêm khắc hơn.

Khi xem xét các tình tiết thực tế và mức độ nguy hiểm của tội phạm, tòa án có quyền giảm loại tội phạm xuống một mức nhẹ hơn, với điều kiện người phạm tội không bị kết án hình phạt tù quá năm năm hoặc hình phạt nhẹ hơn Đối với những người phạm tội theo các khoản 3, 4 và 5, mức án tối đa lần lượt là năm năm và bảy năm tù.

Bài viết này đề cập đến việc phân loại tội phạm theo Bộ luật hình sự Liên bang Nga, đặc biệt là trong việc xác định hình phạt cho các trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt Trước khi thảo luận về các quy định liên quan đến hình phạt, chúng ta cần xem xét các quy định về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, được quy định tại Điều 29 của Bộ luật hình sự, nêu rõ sự khác biệt giữa tội phạm hoàn thành và tội phạm chưa hoàn thành.

Tội phạm được xem là hoàn thành khi hành vi của người phạm tội thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm theo quy định của bộ luật.

2 Chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt là tội phạm chưa hoàn thành.

Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành được quy định theo điều luật liên quan đến tội phạm hoàn thành, với việc viện dẫn các điều khoản cụ thể Điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải xem xét các yếu tố liên quan đến hành vi phạm tội chưa hoàn thành để xác định mức độ trách nhiệm hình sự của người vi phạm.

30 của bộ luật này. Điều 30 Chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt

Chuẩn bị phạm tội bao gồm việc tìm kiếm và chuẩn bị công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội, tìm kiếm đồng phạm, thảo luận về kế hoạch thực hiện tội phạm, hoặc cố ý tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm, ngay cả khi hành vi phạm tội không thể hoàn thành do những yếu tố khách quan.

2 Trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với chuẩn bị phạm tội nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.

Phạm tội chưa đạt là hành vi cố ý của người phạm tội nhằm thực hiện tội phạm nhưng không thành công do hoàn cảnh khách quan Điều 66 quy định về quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành.

1 Khi quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành phải cân nhắc các tình tiết làm cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.

Thời hạn và mức hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội không được vượt quá thời hạn và mức hình phạt cao nhất của tội danh hoàn thành.

Thời hạn và mức hình phạt cho tội phạm chưa đạt không được vượt quá thời hạn và mức cao nhất của hình phạt nặng nhất đối với tội hoàn thành.

4 Không áp dụng hình phạt tử hình và tù chung thân đối với việc chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT

Ngày đăng: 20/07/2021, 07:24

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8/2000 của hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8/2000 của hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung bộ luật hình sự năm 1999
Tác giả: Tòa án nhân dân tối cao
Nhà XB: Hà Nội
Năm: 2000
7. Trịnh Tiến Việt (2009), “ Về phạm tội chưa đạt và một số hình thức phạm tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm”, Tạp chí khoa học đại học Quốc gia Hà Nội (chuyên san luật học ) số 25 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về phạm tội chưa đạt và một số hình thức phạm tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm
Tác giả: Trịnh Tiến Việt
Nhà XB: Tạp chí khoa học đại học Quốc gia Hà Nội (chuyên san luật học )
Năm: 2009
8. Trịnh Tiến Việt ( Chủ biên ) ( 2013 ), Tội phạm và trách nhiệm hình sự ( sách chuyên khảo ), Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tội phạm và trách nhiệm hình sự
Tác giả: Trịnh Tiến Việt
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia – sự thật
Năm: 2013
9. Dương Tuyết Miên ( Chủ biên ) ( 2007 ), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb lao động – xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Định tội danh và quyết định hình phạt
Tác giả: Dương Tuyết Miên
Nhà XB: Nxb lao động – xã hội
Năm: 2007
10. Nguyễn Tất Thành ( Chủ biên ) ( 2013 ), Luật hình sự một số nước trên thế giới ( phần chung ), Nxb Hồng đức, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật hình sự một số nước trên thế giới ( phần chung )
Tác giả: Nguyễn Tất Thành
Nhà XB: Nxb Hồng đức
Năm: 2013
6. Quốc hội ( 2009 ), Bộ luật hình sự ( sửa đổi, bổ sung ), Hà Nội Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w