GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Đặt vấn đề
Hình ảnh các bà nội trợ hiện đại mang theo hàng chục bịch nilon khi đi chợ hay siêu thị đã trở nên phổ biến Bịch nilon được sử dụng để đựng đa dạng các loại thực phẩm và vật dụng hàng ngày Với giá thành rất rẻ, chỉ từ vài chục đến vài trăm đồng, chúng dễ dàng được phát tán rộng rãi bởi người bán hàng Tuy nhiên, sau khi sử dụng, những bịch nilon này thường bị vứt bỏ bừa bãi, gây ảnh hưởng đến môi trường.
Hình 1-1: Hìnhảnh bịchnilon phát thảiở môi trường
Nguồn: http://dantri.com.vn
Bịch nilon là vật dụng phổ biến trong việc đựng và bảo quản thực phẩm, nhưng ít ai nhận thức được tác hại của chúng đối với môi trường Trung bình mỗi người Việt Nam sử dụng một bịch nilon mỗi ngày, dẫn đến 86 triệu bịch được tiêu thụ hàng ngày và 31,4 tỉ bịch mỗi năm, tương đương một triệu tấn nhựa Mặc dù chưa có thống kê cụ thể, nhưng con số này cho thấy sự gia tăng đáng lo ngại về lượng nilon và tác động của chúng lên môi trường Bịch nilon thường bị vứt bỏ bừa bãi, gây mất mỹ quan và ảnh hưởng xấu đến không gian sống Nếu tính toán, lượng nilon thải ra trong một năm có thể phủ kín bề mặt trái đất bằng một lớp nilon dày tới 0,8mm, trong khi tại Việt Nam, ước tính mỗi mét vuông sẽ có 9,1 bịch nilon trải ra.
Hình 1-2: Hìnhảnh việc phát và sử dụng bịch nilon của hệ thống siêu thị Big C
Nhiều người tiêu dùng sau khi sử dụng túi nilon thường vứt bỏ chúng vào thùng rác hoặc môi trường, dẫn đến việc các túi này nằm lẫn trong đất sau nhiều khâu vận chuyển Thời gian tồn tại của túi nilon có thể kéo dài từ 20 đến 1.000 năm, khiến chúng trở thành một trong những loại rác thải khó phân hủy nhất, gây cản trở cho sự trao đổi chất và các quá trình tự nhiên trong đất và nước.
Tại các nước nghèo và đang phát triển, mức sống tăng cao dẫn đến việc sử dụng bịch nilon ngày càng gia tăng do tính tiện lợi, nhẹ và giá rẻ Tuy nhiên, người dân vẫn chưa nhận thức đầy đủ về tác hại của bịch nilon đối với sức khỏe con người và môi trường Việc lạm dụng bịch nilon đã trở thành vấn đề nghiêm trọng, góp phần thúc đẩy biến đổi khí hậu do nguyên liệu chế tạo chủ yếu từ dầu mỏ và khí đốt.
Từ năm 2005 đến năm 2007, số lượng người đi mua sắm tại các siêu thị và trung tâm thương mại tăng trung bình khoảng 5,2% mỗi năm, với lượng khách ở bốn thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng và Cần Thơ tăng từ 7,7 triệu người năm 2005 lên 8,5 triệu người năm 2007, theo khảo sát của Công ty nghiên cứu thị trường Taylor Nelson Sofres (TNS) Đặc biệt, Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu với khoảng 1,25 triệu người đi siêu thị mỗi tuần, và con số này đang có xu hướng gia tăng.
Theo thống kê của Viện Nghiên cứu Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), số lượng siêu thị tại Việt Nam đã tăng đáng kể từ những năm 1990 Cụ thể, vào cuối năm 2001, cả nước đã có 70 siêu thị, trong đó Hà Nội chiếm 32 siêu thị.
Tính đến tháng 6-2004, Hà Nội đã có 55 siêu thị, trong khi TP.HCM có 71 siêu thị vào năm 2005 Quy hoạch phát triển chợ, trung tâm thương mại và siêu thị giai đoạn 2009 – 2015 của Sở Công thương TP.HCM dự kiến sẽ giảm số lượng chợ từ 238 xuống 235 vào năm 2010 Điều này cho thấy sự chuyển dịch từ chợ truyền thống sang hệ thống phân phối hiện đại ngày càng gia tăng.
Từ 82 siêu thị toàn thành phố (tính các siêu thị đạt chuẩn quy định) sẽ tăng lên đạt 121 siêu thị vào năm 2010 và 177 siêu thị vào năm 2015, tức cao hơn gấp đôi so với hiện nay (Quyết định số 17/2009/QĐ-UBND ngày 12/02/2009 của UBND Tp.HCM).
Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều siêu thị như Big C, Coop Mart, Citimart, Maximark và Metro, trong đó nhiều siêu thị miễn phí bịch nilon cho khách hàng Điều này dẫn đến thói quen sử dụng bịch nilon lãng phí và gây áp lực lên môi trường Theo khảo sát của Trung tâm hỗ trợ ứng phó biến đổi khí hậu (SCC) vào cuối năm 2008, trung bình mỗi gia đình ở Hà Nội sử dụng 11,3 bịch nilon mỗi ngày, tương đương với chi phí hàng năm lên tới hơn 6 tỉ đồng.
Tại Việt Nam, người dân không phải trả chi phí cho việc sử dụng và xử lý túi nilon, dẫn đến việc lượng lớn chất thải này tiếp tục xả ra môi trường, được tài trợ từ ngân sách nhà nước Để giải quyết vấn đề này, cần áp dụng nguyên tắc “người sử dụng phải trả tiền” nhằm giảm thiểu việc phát miễn phí và sử dụng bừa bãi túi nilon Tuy nhiên, hiện tại vẫn thiếu nhiều nghiên cứu về vấn đề này Do đó, đề tài “Tiếp cận phương pháp phí môi trường trong quản lý chất thải túi nilon ở các siêu thị” là cần thiết để hỗ trợ các nhà lập pháp và quản lý đưa ra phương án quản lý rác thải túi nilon hiệu quả hơn, dưới sự hướng dẫn của TS Nguyễn Thị Hải Yến.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng thể: Nghiên cứu hiện trạng xả thải và tính toán phí môi trường để nhà nước quản lý rác thải bịch nilon hiệu quả hơn.
Tìm hiểu tổng thải lượng bịch nilon tại một số siêu thị;
Ước lượng chi phí giá thành và tái chế của các loại bịch;
Đề xuất qui định phí môi trường trong quản lý chất thải bịch nilon.
Nội dung nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu trên, kế hoạch nghiên cứu của tôi bao gồm các nội dung sau:
Tìm hiểu loại bịch nilon được sử dụng tại siêu thị;
Xác định tổng lượng tiêu thụ bịch nilon trung bình trong một ngày tại các siêu thị được chọn làm điểm nghiên cứu;
Điều tra nghiên cứu giá thành sản xuất và chi phí tái chế theo vòng đời của bịch nilon;
Tính toán và đề xuất phí môi trường mà người tiêu dùng hay siêu thị phải trả cho xã hội;
Xử lý và phân tích số liệu, và viết báo cáo, bảo vệ luận văn.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào một số siêu thị với quy mô và khu vực khác nhau tại Thành phố Hồ Chí Minh, chủ yếu khảo sát nguồn rác thải từ bịch nilon chứa HDPE phát sinh trực tiếp từ các siêu thị Nghiên cứu không bao gồm bịch nilon dùng để đóng gói sản phẩm từ các cơ sở sản xuất, mà chỉ tập trung vào vòng đời của bịch nilon, không nghiên cứu vòng đời của hạt nhựa hay các sản phẩm nhựa khác Hình 1-3 minh họa rõ ràng vòng đời của bịch nilon trong nghiên cứu, chi tiết hơn được trình bày ở mục 4.3.1.
Hình 1-3: Vòngđời của bịch nilon
Thu gom, làm sạch Tạo hạt
Thổi tạo bịch sản phẩm dư, sản phẩm lỗi khác
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Tổng quan về đối tượng nghiên cứu
Bịch nilon là sản phẩm quan trọng trong ngành công nghiệp khai thác và chế biến dầu mỏ, được sản xuất từ hạt nhựa PP (Poly Propylene) và PE (Poly Ethylene) Trong số hạt PE, có hai loại chính là HDPE (High Density Poly Ethylene) và LDPE (Low Density Poly Ethylene), cùng với LLDPE (Liner Low Density Poly Ethylene) (Lê Văn Khoa, 2008).
Tùy theo loại hạt nhựa mà bịch nilon được chia ra làm nhiều loại khác nhau (Lê Văn Khoa, 2008):
Bịch sản xuất từ hạt PP thường dùng để phân liều thuốc trong các tiệm thuốc.
Túi xốp, được sản xuất từ hạt nhựa HDPE, là loại bịch nilon phổ biến được sử dụng trong siêu thị, chợ và trung tâm thương mại Chúng đóng vai trò quan trọng trong việc phục vụ nhu cầu mua sắm hàng ngày của người tiêu dùng.
Bịch sản xuất từ hạt LDPE thường gọi là bịch nilon trong, dùng đựng đường, muối
Nhựa PE, được sản xuất từ các sản phẩm hóa dầu, là nguyên liệu chính để tạo ra bịch nilon và bao bì nilon Với độ thấm nước thấp, tính đàn hồi tốt và độ bền hóa học cao, nhựa PE có đặc điểm rất khó phân hủy Thời gian phân hủy của bịch nilon có thể kéo dài từ 20 năm đến 1000 năm, tùy thuộc vào loại chất dẻo Khi bị đốt, nhựa PE phát thải các khí độc hại như CO2, CH4 và dioxin (Lê Văn Khoa, 2008).
Hiện trạng về bịch nilon
2.2.1 Hiện trạng sử dụng bịch nilon
Theo Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA), mỗi năm, Mỹ tiêu thụ hơn 380 tỷ bịch nilon Tình hình sử dụng bịch nilon ở các quốc gia khác cũng đáng chú ý, như Nhật Bản với 300 tỷ bịch nilon mỗi năm (tương đương 300 bịch/người/năm), Úc với 6,9 tỷ bịch nilon (326 bịch/người/năm), và Ireland với 1,2 tỷ bịch nilon (316 bịch/người/năm).
Theo Lê Văn Khoa (2008), mỗi người Trung Quốc sử dụng trung bình một túi nilon mỗi ngày, dẫn đến việc tiêu thụ khoảng 3 tỷ túi nilon hàng ngày trên toàn quốc Tình trạng này đã tạo ra "ô nhiễm trắng" khi túi nilon tràn ngập khắp nơi Để giảm thiểu vấn đề này, từ ngày 01/06/2008, Trung Quốc đã cấm các siêu thị, trung tâm thương mại và cửa hàng phát túi nilon miễn phí, yêu cầu khách hàng phải trả tiền cho túi đựng Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng khuyến khích việc sử dụng túi vải truyền thống, trong khi Đài Loan đã áp dụng lệnh cấm tương tự đối với túi nilon tại các cửa hàng, siêu thị và tiệm ăn nhanh.
Nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện các biện pháp mạnh mẽ để chống lại nạn "ô nhiễm trắng" Ví dụ, vào năm 2007, San Francisco trở thành thành phố đầu tiên ở Mỹ cấm sử dụng túi nhựa từ dầu mỏ tại các cửa hàng tạp phẩm lớn Gần đây, Nam Phi, Ireland và Bangladesh cũng đã áp dụng chính sách đánh thuế đối với người tiêu dùng sử dụng túi nilon Tại Pháp, các chuỗi siêu thị đã bắt đầu hạn chế việc phát túi nilon, trong khi ở Đức, người tiêu dùng phải trả phí để nhận túi nilon.
Theo Hiệp hội Nhựa Việt Nam, nhu cầu bao bì nhựa tại Việt Nam đã tăng 15% mỗi năm trong những năm gần đây, trong đó bao bì nhựa thực phẩm tăng khoảng 25% mỗi năm Từ năm 1996 đến năm 2006, sản lượng bao bì nhựa đã tăng gấp 8 lần, với dự báo đạt 81.500 tấn vào năm 2009 và 105.000 tấn vào năm 2010 (Phạm Hồng Nhật và Huỳnh Thị Thu Hà, 2009).
Việc sử dụng bịch nilon trong đời sống hàng ngày đã trở thành thói quen tiêu dùng phổ biến, đặc biệt ở các đô thị Theo khảo sát của Trung tâm hỗ trợ ứng phó biến đổi khí hậu, trung bình mỗi gia đình ở Hà Nội nhận khoảng 11,3 bịch nilon miễn phí mỗi ngày, trong khi Thành phố Hồ Chí Minh tiêu thụ từ 5 đến 9 triệu bịch mỗi ngày Ông Trần Hồng Hà, Cục trưởng Cục Bảo vệ môi trường, cho biết Việt Nam sử dụng khoảng nửa triệu tấn nhựa để sản xuất bao bì mỗi năm, với mức tiêu thụ bình quân 25-35 kg nhựa/người, dự kiến sẽ tăng lên hơn 40 kg/người trong tương lai Thị trường bao bì nhựa đang tăng trưởng khoảng 30% nhờ vào sự tiện dụng của sản phẩm, nhưng điều này cũng dẫn đến lượng rác thải nhựa gia tăng Hiện tại, chưa có thống kê chính thức về lượng rác thải từ bịch nilon tại các siêu thị ở Việt Nam.
Theo Sở Tài nguyên và Môi trường, Thành phố Hồ Chí Minh mỗi ngày tiếp nhận gần 50 tấn túi nilon vào bãi rác, chưa kể lượng túi nilon vứt bỏ trên đường phố và cống rãnh Tuy nhiên, số người ý thức hạn chế sử dụng túi nilon vẫn còn rất ít.
2.2.2 Nguồn rác thải bịch nilon
Theo các chuyên gia từ Bộ Tài nguyên - Môi trường, mỗi gia đình Việt Nam trung bình sử dụng và thải ra ít nhất một túi nilon mỗi ngày Tại Hà Nội, một trong những thành phố đông dân nhất cả nước, lượng rác thải hàng ngày vượt quá 1.000 tấn, trong đó có một phần đáng kể là túi nilon.
13 tấn là nhựa và túi nilon.
Nhu cầu đi chợ là thiết yếu đối với mỗi gia đình, và siêu thị trở thành lựa chọn phổ biến nhờ tiết kiệm thời gian, đa dạng hàng hóa, giá cả hợp lý, và sản phẩm tươi sạch Để thu hút khách hàng, siêu thị thường cung cấp miễn phí túi nilon tại quầy thanh toán, từ đó hình thành thói quen sử dụng túi nilon một lần rồi vứt bỏ Hành động này dẫn đến gia tăng rác thải, tạo áp lực lớn lên các bãi rác.
Những ảnh hưởng của rác thải bịch nilon
2.3.1 Ảnh hưởng về cảnh quan, du lịch
Những bịch nilon nhẹ rất dễ bị gió cuốn bay, dẫn đến việc chúng vướng vào cành cây, rơi xuống kênh rạch và xuất hiện khắp nơi trên đường phố, gây mất mỹ quan đô thị.
Con người thường tìm đến các địa điểm công cộng như công viên, bãi biển và danh lam thắng cảnh để giải trí và du lịch Tuy nhiên, tình trạng xả rác tại những nơi này không chỉ tạo ấn tượng xấu cho du khách mà còn gây tốn kém cho việc thu gom rác thải.
2.3.2 Ảnh hưởng về môi trường và sức khỏe
Quá trình phân hủy túi nilon có thể kéo dài từ 500 đến 1.000 năm nếu không có ánh sáng mặt trời, theo các nhà môi trường và khoa học gia Khi phân hủy, chất nhựa PVC sẽ làm đất trở nên kém màu mỡ, không giữ được nước và chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng Giáo sư- Tiến sĩ Nguyễn Lân Dũng cũng cho biết rằng rác thải này có thể tạo ra những kẽ hở trong lòng đất, dẫn đến ô nhiễm mạch nước ngầm.
Theo các nhà khoa học, một số loại bịch nilon có chứa lưu huỳnh và dầu hỏa nguyên chất khi bị đốt cháy sẽ tạo ra axit sunfuric, gây ra mưa axit có hại cho phổi Ngoài ra, việc đốt bịch nilon ở nhiệt độ bình thường sinh ra khí độc Dioxin và Furan, dẫn đến ngộ độc, khó thở, nôn ra máu, ung thư, giảm khả năng miễn dịch và các dị tật bẩm sinh ở trẻ nhỏ Các bịch nilon màu chứa thực phẩm có thể làm thực phẩm nhiễm kim loại độc hại như chì và clohydric, gây tác hại cho não và tăng nguy cơ ung thư phổi Hơn nữa, rác thải nhựa làm tắc nghẽn hệ thống thoát nước, gây ngập lụt đô thị và tạo điều kiện cho ruồi muỗi phát sinh, lây truyền dịch bệnh.
Nhiều doanh nghiệp sử dụng bịch nilon in logo công ty để quảng bá thương hiệu, khiến cho chúng trở thành biểu tượng đại diện cho quyền lợi doanh nghiệp Tuy nhiên, các bao bì nilon này tiềm ẩn nguy cơ sức khỏe nghiêm trọng do chứa các chất độc hại như chì và cadimi có trong mực in, có thể gây tổn hại đến não và là nguyên nhân chính dẫn đến bệnh ung thư phổi.
Các loại bịch nilon tái chế trên thị trường hiện nay chứa nhiều hóa chất độc hại do quy trình sản xuất thủ công Những bịch nilon này được làm từ rác thải và thường được trộn lẫn với các hóa chất nhằm tăng độ dẻo và bền, tiềm ẩn nguy cơ gây hại cho sức khỏe Chúng chủ yếu được sản xuất từ nhựa PP và PE.
PS là những loại nhựa an toàn, nhưng một số bịch nilon làm từ polyvinyl có thể chứa các phân tử gây ung thư Hầu hết các loại bịch nilon khác được sản xuất từ nhựa độc hại, trong đó nhựa PVC là loại không an toàn cho việc sản xuất bịch hay hộp đựng thực phẩm.
2.3.3 Ảnh hưởng về kinh tế(chủ yếu là chi phí xử lý hoặc tái chế)
Vào tháng 11/2004, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 41-NQ/TW nhằm bảo vệ môi trường, trong đó nhấn mạnh việc ưu tiên tái sử dụng và tái chế chất thải, đồng thời hạn chế tối đa việc chôn lấp rác Tuy nhiên, hiện nay, Nhà nước vẫn phải chi 300.000 đồng để chôn lấp và vận chuyển một tấn rác, dẫn đến ngân sách quốc gia phải tiêu tốn tới 15.000 tỷ đồng mỗi năm.
Chỉ có 13 trong số 64 tỉnh thành có bãi chôn lấp hợp vệ sinh, phần còn lại là tự nhiên hoặc lộ thiên, gây ô nhiễm đất, nước và không khí do mùi hôi và nước rỉ rác từ các bãi chôn lấp khổng lồ Rác thải đã chiếm dụng 5000 ha đất mỗi năm, theo Văn bản số 1535/UBND-CN Để giảm nhập khẩu hạt nhựa PE và PP, việc thu mua và tái chế bịch nilon đã được thực hiện, nhưng còn nhiều bất cập như ô nhiễm bụi và chất lượng tái chế không cao Tuy nhiên, tái chế giúp xử lý khối lượng lớn rác thải khó phân huỷ Vấn đề cần giải quyết là quản lý ô nhiễm từ ngành công nghiệp tái chế nilon, đặc biệt là xử lý nước thải, vì quy trình này tiêu tốn nhiều nước và hóa chất Theo nghiên cứu, để rửa 1.000 kg phế liệu cần khoảng 20m³ nước sạch, làm tăng chi phí sản xuất và giảm lợi nhuận.
Thực tiễn quản lý chất thải bịch nilon
2.4.1 Quản lý chất thải bịch nilon ở Việt Nam
Việc sử dụng bịch nilon ở Việt Nam rất phổ biến nhờ vào tính tiện lợi và giá thành rẻ, nhưng cũng gây ra nhiều tác hại cho môi trường Hiện tại, chưa có quy định nào hạn chế hoặc cấm sử dụng bịch nilon Để giải quyết vấn đề này, vào ngày 17/12/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2149/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, với tầm nhìn đến năm 2050 Chiến lược này tập trung vào việc phòng ngừa, giảm thiểu chất thải tại nguồn, tăng cường tái sử dụng và tái chế, đồng thời thực hiện nguyên tắc "người gây ô nhiễm phải trả tiền" để các tổ chức và cá nhân gây ô nhiễm có trách nhiệm khắc phục thiệt hại.
Bịch nilon gây ra tác hại nghiêm trọng đối với môi trường, dẫn đến nhiều quốc gia trên thế giới đã quyết định cấm sản xuất và buôn bán loại sản phẩm này Sự lo ngại về tác động tiêu cực của bịch nilon ngày càng gia tăng, khiến nhiều người nhận thức rõ hơn về vấn đề ô nhiễm môi trường.
Chương trình "Metro cùng khách hàng bảo vệ môi trường" do hệ thống siêu thị Metro khởi xướng từ năm 2007 đã thành công trong việc giảm thiểu lượng bịch nilon thải ra môi trường, mặc dù ban đầu gặp phải phản ứng từ khách hàng Metro đã cung cấp những chiếc bịch làm từ sợi tổng hợp có thể tái sử dụng với giá 7 nghìn đồng, thay thế cho các bịch nilon miễn phí Chiến dịch này hoàn toàn tự nguyện vì môi trường, cho thấy người tiêu dùng sẵn sàng chi tiền cho bảo vệ môi trường và các doanh nghiệp đã nhận thức được tác hại của bịch nilon.
Trong khuôn khổ hoạt động của chương trình giáo dục phân loại rác tại nguồn (3R) tại
Vào tháng 8/2008, phường Phan Chu Trinh, Hà Nội, đã phát miễn phí túi eco-bag cho toàn bộ hộ dân và tổ chức buổi thuyết trình về lợi ích của việc sử dụng túi này khi đi chợ Dự án cũng đã tổ chức cuộc thi tìm hiểu về lợi ích của eco-bag, thu hút 90% hộ dân tham gia, góp phần nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đang sản xuất bao bì thân thiện với môi trường Năm 2005, công ty cổ phần văn hóa Tân Bình đã đầu tư vào bao bì nhựa tự hủy theo công nghệ Canada Tiếp theo, công ty Phú Hoà tại Bến Tre đã cho ra mắt sản phẩm bao bì từ phế liệu bã mía và xơ dừa Năm 2008, công ty TNHH thương mại và dịch vụ Phúc Lê Gia tại TP.HCM đã giới thiệu loại bịch nhựa tự phân huỷ sinh học Biocom Gần đây, công ty TNHH thương mại và sản xuất nhựa Tiến Thành ở Gia Lâm, Hà Nội cũng đã phát triển bao bì từ bột bắp, không gây ô nhiễm Công ty Cổ phần Công nghệ mới tại Long Biên, Hà Nội đã sản xuất bao bì tự hủy từ nhựa PE, PP, PVC kết hợp với các phụ gia sinh học, giúp tiêu hủy trong 2,5-3 năm, thay vì nhiều năm như bao nilon thông thường.
Mặc dù có nhiều ý kiến lo ngại về chất lượng, giá cả và tác động môi trường của sản phẩm thân thiện với môi trường, chi phí sản xuất loại bịch tự phân huỷ thường cao hơn nhiều so với bịch nilon Hơn nữa, hiện tại Chính phủ chưa có sự hỗ trợ nào cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này Do đó, các nhà sản xuất bịch thân thiện với môi trường gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với bịch nilon, trong khi người tiêu dùng cũng khó có thể ủng hộ sản phẩm xanh khi tình hình kinh tế còn hạn chế.
Tóm lại, do những nguyên nhân sau đây mà lượng chất thải rắn, đặc biệt là chất thải bịch nilon phát sinh ngày một nhiều hơn:
Người dân chưa thực hiện được phân loại rác đầu nguồn;
Ý thức của người dân chưa cao;
Chưa có quy định mức thu phí cụ thể cho người gây ô nhiễm;
Các cơ sở sản xuất bịch thân thiện môi trường không có đủ vốn để đầu tư công nghệ và trang thiết bị…
Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025 đặt mục tiêu giảm 85% lượng túi nilon sử dụng tại các siêu thị và trung tâm thương mại so với năm 2010 Để đạt được mục tiêu này, việc áp dụng đánh phí môi trường đối với người sử dụng túi nilon được xem là một giải pháp hiệu quả nhằm giảm thiểu chất thải.
2.4.2 Quản lý chất thải bịch nilon ởThành phố Hồ Chí Minh
Hiện tại,Thành phố Hồ Chí Minh chưa có một biện pháp cụ thể trong việc quản lý tiêu dùng bao bì nhựa, cụ thể:
Chưa có tiêu chuẩn, quy định chất lượng cho bao bì nhựa được sử dụng trong từng phạm vi, mục đích cụ thể.
Hiện nay, chưa có các biện pháp quản lý hiệu quả đối với việc sử dụng bao bì nhựa trên thị trường Cần xác định rõ loại hàng hóa nào được phép sử dụng bao bì nilon, khối lượng hàng hóa cụ thể nào cần cấp phát bao bì, và những trường hợp nào không được phép sử dụng bao bì nhựa để đảm bảo tính bền vững và bảo vệ môi trường.
Chưa có chính sách, quy định cụ thể trong trường hợp người sử dụng bao bì xả thải, tính phí trên lượng xả thải rác bịch nilon.
Hiện nay, việc hạn chế tiêu thụ bịch nilon vẫn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà sản xuất, nhà phân phối và nhà quản lý Mặc dù thành phố đã triển khai một số chương trình khuyến khích người tiêu dùng không sử dụng bịch nilon, nhưng các hoạt động này chủ yếu dừng lại ở mức tuyên truyền và hợp tác với các siêu thị Điều này chưa đủ để tạo ra sự đồng bộ và áp dụng rộng rãi tại các khu vực thương mại khác, nơi có mức tiêu thụ bịch nilon cao hơn nhiều.
Việc giảm thiểu sử dụng bịch nilon chưa đạt hiệu quả do thiếu chuẩn bị và đánh giá đúng vai trò của người tiêu dùng Các biện pháp quản lý hiện tại còn hạn chế và không sâu sát, dẫn đến kết quả không như mong đợi.
Vào tháng 8/2008, tại hội thảo "Đề xuất các giải pháp giảm thiểu sử dụng bịch nilon tại Tp.HCM", Quỹ Tái chế thuộc Sở Tài nguyên Môi trường Tp.HCM đã đề xuất đánh thuế đối với mặt hàng bịch nilon Thuế này sẽ áp dụng cho nhà sản xuất và nhà phân phối, tính trên từng đơn vị bịch nilon sản xuất, với mức thuế cao hơn cho bịch xốp dùng một lần so với bịch nilon dày Đặc biệt, bịch bao gói thực phẩm như sản phẩm đựng sữa, trái cây, thịt cá sẽ không bị thu thuế Chi phí thuế sẽ được công khai và cộng vào giá thành của bịch nilon, người tiêu dùng sẽ phải trả thêm khoản này, được ghi rõ trên hóa đơn bán hàng.
Việc áp dụng thuế đối với bịch nilon sẽ tác động trực tiếp đến thói quen của các nhà bán lẻ trong việc phát miễn phí sản phẩm này cho khách hàng, từ đó thay đổi thói quen sử dụng của người tiêu dùng Mức thuế cần phải đủ cao để tạo ra sự thay đổi trong hành vi của cả người bán lẻ và người tiêu dùng Thuế sẽ được thu từ các nhà sản xuất hoặc phân phối và được đưa vào Quỹ bảo vệ môi trường của Thành phố Tuy nhiên, theo Tiến Sĩ Lê Văn Khoa, Giám đốc Quỹ tái chế, việc đánh thuế bịch nilon có thể chỉ được thực hiện từ năm 2012.
2.4.3 Những hạn chế/vấn đề trong quản lý chất thải bịch nilon ở Việt
Nam và Thành phố Hồ Chí Minh
Hiện nay, Việt Nam đang triển khai nhiều biện pháp quản lý chất thải túi nilon, nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn Mặc dù khuyến khích sử dụng túi nilon tự phân hủy, nhưng giá thành cao gấp 2-5 lần so với túi nilon thông thường Thêm vào đó, túi nilon tự phân hủy không thể bảo quản lâu, nếu không tiêu thụ được sẽ phải vứt bỏ, gây rủi ro lớn trong kinh doanh.
Chương trình quản lý chất thải rắn theo mô hình 3R “Giảm thiểu-Tái sử dụng-Tái chế” đã được triển khai tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, với mục tiêu không chỉ giảm sử dụng bịch nilon mà còn tăng cường khả năng tái sử dụng và tái chế chúng Tuy nhiên, chương trình vẫn gặp nhiều khó khăn do ý thức của người dân chưa cao, dẫn đến việc phân loại rác thải tại nguồn chưa đạt hiệu quả, ảnh hưởng đến khả năng tái sử dụng và tái chế bịch nilon.
Các Cơ quan quản lý Nhà nước cần ban hành quy định cấm phân phối miễn phí bịch nilon tại thành phố, nhằm buộc nhà bán lẻ thu phí từ khách hàng cho bịch nilon hoặc khuyến khích sử dụng các loại bịch thay thế Mục tiêu là thay đổi thói quen tiêu dùng của khách hàng và áp dụng phí môi trường đối với việc sử dụng bịch nilon Để thực hiện điều này, việc nghiên cứu và tính toán phí môi trường cho từng loại bịch nilon là cần thiết, tuy nhiên hiện tại chưa có nghiên cứu nào được công bố về vấn đề này.
2.4.4 Quản lý chất thải rắn ở các nước khác
Mỗi nước có cách quản lý chất thải rắn/bịch nilon khác nhau như: (trích từ Clean up Australia: Action on plastic bags around the world vào 12/02/2007)
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khung định hướng nghiên cứu
Để đảm bảo mục tiêu nghiên cứu và hiệu quả thực hiện đề tài, khung định hướng như Hình 3-1 thể hiện sự logic giữa các nội dung, bước và phương pháp nghiên cứu Quản lý chất thải bịch nilon tại các siêu thị ở thành phố Hồ Chí Minh đòi hỏi các tính toán cụ thể và đề xuất phương pháp quản lý thông qua công cụ chính sách phí môi trường Hai nội dung chính cần thực hiện là tìm hiểu tổng thải lượng bịch nilon tại các siêu thị và ước lượng chi phí xử lý loại chất thải này Dựa trên kết quả từ hai nội dung này, chúng ta có thể đề xuất quy định về phí môi trường.
Kế hoạch nghiên cứu để đề xuất phí môi trường đối với chất thải bịch nilon bao gồm bốn phần chính Đầu tiên, cần xác định và giới hạn phạm vi nghiên cứu phù hợp với thời gian và nguồn lực Thứ hai, đối tượng nghiên cứu là bịch nilon phát trực tiếp từ siêu thị, nhằm tránh nhầm lẫn với các sản phẩm nhựa khác Thứ ba, phương pháp thu thập số liệu rất quan trọng, bao gồm việc chọn điểm khảo sát, thời gian khảo sát và cách thức khảo sát để đảm bảo mẫu đại diện cho vùng nghiên cứu Cuối cùng, việc tính toán thải lượng của bịch nilon và chi phí xử lý hay tái chế dựa vào phương pháp chọn điểm và thu thập số liệu, bao gồm việc chọn cơ sở nghiên cứu và phỏng vấn trực tiếp người quản lý tại các cơ sở khảo sát.
Hình 3-1: Khung định hướng nghiên cứu
Nghiên cứu hiện trạng xả thải và tính toán phí môi trường để nhà nước quản lý rác thải bịch nilon hiệu quả hơn
Tìm hiểu tổng thải lượng bịch nilon tại siêu thị Ước lượng chi phí xử lý
THIẾT KẾ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
Phương pháp thu thập số liệu
Thải lượng bịchnilon Đối tượng NC
- Bịch nilon được phát trực tiếp từ siêu thị
Chi phí xử lý/tái chế
PP chọn điểm và thu thập số liệu
Chọn cơ sở NC theo loại hình (tái chế/xử lý).
Chọn cơ sở theo phạm vi
Kết quả Đề xuất qui định phí môi trường Quản lý chất thải bịch nilon tại các siêu thị TPHCM
PP chọn điểm và thu thập số liệu
- Theo phạm vi/qui mô
Chọn thời gian theo ngày/giờ
Chọn ngẫu nhiên quầy thu tiền
Quan sát và đếm số bịch nilon/khách hàng
Phương pháp chọn điểm và điều tra
Cách chọn siêu thị/điểm nghiên cứu
Theo thống kê của Sở Công thương TP.HCM, thành phố hiện có 82 siêu thị, với nhiều siêu thị thuộc sở hữu của các tập đoàn như Coop Mart, Big C, và Maximax, có quy mô khác nhau Bộ Công Thương Việt Nam phân loại siêu thị thành 3 hạng mục khác nhau.
Các siêu thị kinh doanh tổng hợp cần đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản bao gồm kiến trúc hiện đại, kho hàng, kỹ thuật bảo quản, khu vệ sinh và khu giải trí.
Có diện tích kinh doanh từ 5.000m 2 trở lên;
Có danh mục hàng hóa kinh doanh từ 20.000 tên hàng trở lên;
Siêu thị kinh doanh tổng hợp phải đảm bảo các tiêu chuẩn cơ bản sau:
Có diện tích kinh doanh từ 2.000m 2 trở lên;
Có danh mục hàng hóa kinh doanh từ 10.000 tên hàng trở lên;
Siêu thị kinh doanh tổng hợp phải đảm bảo các tiêu chuẩn cơ bản sau:
Có diện tích kinh doanh từ 500m 2 trở lên;
Có danh mục hàng hóa kinh doanh từ 4.000 tên hàng trở lên.
Chúng tôi sẽ chọn sáu siêu thị cho nghiên cứu, với mỗi hai siêu thị đại diện cho từng quy mô: lớn, trung bình và nhỏ, như được nêu trong Bảng 3.1.
Thời gian mở cửa của siêu thị thường từ 8:00 sáng đến 22:00 tối, với lượng khách hàng thay đổi theo giờ Vào các ngày thứ Bảy, Chủ Nhật và lễ, siêu thị sẽ có lượng khách đông hơn Mỗi siêu thị thường có nhiều quầy thanh toán, trong đó các quầy ở vị trí trung tâm gần cửa ra vào và lối đi sẽ thu hút nhiều khách hàng hơn so với những quầy ở vị trí kém thuận lợi Để nghiên cứu tình hình phát thải túi nilon tại siêu thị, việc chọn thời gian và vị trí quầy hàng là rất quan trọng.
Chọn ngày quan sát thực tế
Ngày đông khách: thứ Bảy và Chủ nhật
Ngày ít khách: thứ Hai
Ngày khác: thứ Ba, Tư, Năm và Sáu
Do thời gian hạn chế cho việc làm luận văn, chúng tôi đã tiến hành khảo sát liên tục trong bảy ngày (từ thứ Hai đến Chủ Nhật) tại mỗi siêu thị được chọn để đảm bảo phương pháp chọn mẫu nghiên cứu phản ánh chính xác số lượng bịch phát thải vào các ngày khác nhau trong tuần.
Chọn giờ quan sát thực tế
Số lượng khách hàng tại các siêu thị thay đổi đáng kể, phụ thuộc vào quy mô và vị trí của siêu thị, chẳng hạn như thuộc quận nào, gần khu dân cư hay khu văn phòng, cũng như thói quen sinh hoạt của người dân xung quanh Qua quan sát thực tế, chúng tôi nhận thấy rằng số lượng khách hàng có sự biến động rõ rệt ở các thời điểm khác nhau trong ngày.
Thời điểm đông khách: từ 11:00 đến 13:00 trưa, từ 16:00 đến 18:00 tối;
Thời điểm có lượng khách trung bình: từ 9:00 đến 11:00 trưa, từ 14:00 đến 16:00 chiều, và từ 18:00 đến 21:00 tối;
Thời điểm ít khách: từ 8:00 tới 9:00 sáng, và từ 21:00 đến 22:00 tối.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ thu mẫu theo từng giờ trong khoảng thời gian siêu thị mở cửa từ 8:00 sáng đến 22:00 đêm, tổng cộng là 14 giờ khảo sát mỗi ngày Do lượng khách hàng thay đổi theo thời gian, chúng tôi sẽ nghiên cứu lượng bịch phát thải dựa trên số lượng khách hàng trong cả 14 giờ mỗi ngày tại các siêu thị được chọn Mỗi siêu thị sẽ được khảo sát trong tổng cộng 98 giờ trong suốt một tuần liên tục (xem chi tiết trong Bảng 3-1).
Khi chọn quầy tính tiền để quan sát, cần lưu ý rằng bố trí quầy của các siêu thị có sự khác biệt, nhưng thường khách hàng sẽ giảm dần từ quầy trung tâm ra các quầy biên Để ước tính chính xác số lượng bịch phát thải, việc đếm số lượng bịch theo số khách tại các quầy tính tiền cần đại diện cho cả quầy trung tâm và quầy biên Trong 14 giờ khảo sát trong một ngày, việc thay đổi vị trí quầy để đếm phải đảm bảo tính đại diện theo vị trí quầy.
Chọn quầy trung tâm nơi khách hàng dễ tập trung xếp hàng;
Chọn quầy thanh toán ở hai đầu siêu thị, nơi có thể ít khách hơn, để đảm bảo tính chính xác trong việc lấy mẫu nghiên cứu Tác giả sẽ đếm lại số quầy tính tiền đang hoạt động sau mỗi giờ, vì số lượng này có thể thay đổi do ca làm việc và thời gian đông khách Thông thường, siêu thị sẽ bố trí nhiều quầy hoạt động hơn vào giờ cao điểm, dẫn đến sự biến động số lượng quầy theo từng giờ.
Bảng 3-1: Danh sách siêu thị được chọn để điều tra tạiTp Hồ Chí Minh
Stt Tên siêu thị Địa chỉ
Danh mục hàng hóa kinh doanh
189C Cống Quỳnh, P.Nguyễn Cư Trinh, Q.1
5 Big C Miền Đông 138A Tô Hiến
Siêu thị Family có tổng số giờ quan sát và điều tra là 91 giờ, do thời gian mở cửa từ 9 giờ đến 22 giờ, ít hơn một giờ so với các siêu thị khác trong cùng một ngày.
Cách đếm số lượng bịch nilon theo chủng loại
Các siêu thị phát ra nhiều loại bịch nilon với kích thước khác nhau, dẫn đến số lượng và chủng loại bịch nilon mà mỗi khách hàng nhận cũng khác nhau Để đếm và ghi chép số bịch phát thải theo từng khách hàng tại quầy thanh toán, tác giả sử dụng thiết bị đếm bằng tay (HAND TALLY COUNTER) với 8 thông số Các thông số này bao gồm số lượng người thanh toán, số lượng bịch nilon nhỏ, số lượng bịch nilon lớn hơn, số lượng người không lấy bịch nilon, và số lượng người sử dụng giỏ thân thiện với môi trường Tất cả dữ liệu được ghi nhận trong một giờ và thiết bị sẽ được đặt về số 0 để tiếp tục đếm cho giờ tiếp theo.
Đếm tất cả số bịch nilon do siêu thị phát cho mỗi khách hàng tại quầy quan sát theo giờ và ngày quan sát;
Ghi chép số liệu theo ký hiệu và dạng bịch nilon đã được thiết kế trong biểu mẫu.
Cách chọn cơ sở tái chế chất thải bịch nilon
Hiện nay, Tp.HCM có nhiều cơ sở hoạt động trong ngành tái chế, nhưng chỉ một số ít là sản xuất lớn, còn lại chủ yếu tái chế thủ công với công nghệ lạc hậu Theo Quỹ tái chế chất thải Tp.HCM, có 412 cơ sở tái chế nhựa, bao gồm 97 cơ sở sản xuất nhựa chính phẩm, 64 cơ sở xay xát phế liệu, 11 cơ sở sản xuất bịch nilon tái chế, và 1 cơ sở làm sạch phế liệu Tuy nhiên, con số này chưa phản ánh đầy đủ thực trạng, vì nhiều cơ sở chưa đăng ký kinh doanh Các cơ sở tái chế chủ yếu tập trung ở các quận như Quận 5, Quận 10, Quận 11, Tân Bình, Tân Phú, Bình Chánh, Nhà Bè, Củ Chi, và Hóc Môn, trong đó Quận 5 và Quận 10 thường chỉ là văn phòng đại diện, trong khi sản xuất chính diễn ra tại các quận ven.
Do đó, tác giả chọn cơ sở tái chế chất thải bịch nilon như sau:
Chọn 2-3 cơ sở có qui mô hoạt động khác nhau;
Phỏng vấn bán chính thức để thu thập thông tin định tính về chi phí xử lý MỘT kg chất thải bịch nilon.
Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu
3.3.1 Định lượng tổng thải lượng bịch nilon Định lượng số bịch nilon/kg (tùy theo kích cỡ/ chủng loại): a1, a2, a3 (ai)
Bằng cách cân khối lượng và đếm số lượng bịch nilon trong một đơn vị khối lượng (kg), chúng ta có thể xác định Xai, trong đó X đại diện cho số lượng bịch nilon trên mỗi kg theo từng loại khác nhau.
Theo số liệu điều tra hàng giờ trong suốt một tuần, với kích thước khác nhau của từng bịch nilon, chúng ta có thể tính tổng thải lượng bịch nilon cho một loại sản phẩm tại siêu thị theo khối lượng (kg/tuần) để dễ dàng hiểu và phân tích hơn.
- TLBai là tổng thải lượng bịch nilon cho một chủng loại ai tại siêu thị theo khối lượng (kg/tuần);
- n là số khách hàng đi qua một quầy tính tiền trong một đơn vị thời gian quan sát Hob.
- Nj là số bịch nilon khách hàng j được nhận từ quầy tính tiền của siêu thị.
- mCop là số quầy tính tiền có hoạt động trong thời gian khảo sát của một siêu thị cụ thể.
- Xai là số lượng bịch nilon chủng loại ai trong một kg.
Để có cái nhìn tổng quan về lượng thải ra từ bịch nilon tại một siêu thị, chúng ta có thể tính tổng thải lượng (TL) của một loại bịch nilon theo tháng hoặc năm (bịch/tháng hoặc bịch/năm).
- TPB ai là tổng số lượng bịch nilon chủng loại ai,
- n là số khách hàng đi qua một quầy tính tiền trong một đơn vị thời gian quan sát Hob.
- N j là số bịch nilon khách hàng j được nhận từ quầy tính tiền của siêu thị.
- mCop là số quầy tính tiền có hoạt động trong thời gian khảo sát của một siêu thị cụ thể.
- Hop là số giờ mở cửa của siêu thị.
- D op -month/year là tổng số ngày siêu thị mở cửa trong một tháng hoặc một năm.
3.3.2 Phương pháp tính toán chi phí cho việc tái chế cho một bịch nilon
Bịch nilon do siêu thị phát ra có vòng đời sử dụng ngắn, thường chỉ dùng một lần hoặc để đựng rác trước khi vứt bỏ, nên được coi là chất thải ngay từ khi sử dụng Điều này khiến người tiêu dùng phải chịu chi phí cho việc xử lý loại bịch nilon này.
Bịch nilon siêu thị sau khi sử dụng thường bị bỏ đi, nhưng các cơ sở tái chế sẽ thu gom và làm sạch chúng để tạo hạt, từ đó sản xuất bịch nilon mới Các công đoạn này có thể do nhiều cơ sở khác nhau thực hiện Để tính toán chi phí môi trường, chúng ta có thể phân chia thành hai nhóm: nhóm sử dụng bịch nilon từ hạt nhựa nguyên chất, bao gồm giá bịch nilon siêu thị cộng với chi phí tái chế tạo hạt; và nhóm sử dụng bịch nilon tái chế, bao gồm giá thổi bịch nilon, chi phí thu mua, làm sạch, băm bịch nilon và giá tái chế tạo hạt.
Dựa trên dữ liệu thu thập về chi phí xử lý một kg chất thải nilon từ các cơ sở tái chế và xử lý, chúng ta có thể xác định giá thành chi phí tái chế hoặc xử lý cho từng loại bịch nilon.
Pryc ai = Cryc ai /X ai
- Prycai là giá thành chi phí để tái chế/ xử lý một bịch nilon rác thải chủng loại ai.
- Cryc ai là tổng chi phí để tái chế/ xử lý một kg rác thải bịch nilon chủng loại ai.
Prycai cũng chính là chi phí môi trường khách hàng hoặc siêu thị phải trả cho một bịch nilon chủng loại ai.
3.3.3 Phương pháp phân tích số liệu
Utilizing SPSS software for data analysis, we compare the frequency and total number of customers, as well as the quantity of different types of plastic bags used across various supermarkets This is achieved through methods such as Frequency analysis, Compare Mean, Pearson correlation, and ANOVA testing.
Mối tương quan giữa số lượng bịch nilon phát thải và qui mô diện tích siêu thị tại các siêu thị được nghiên cứu cho thấy rằng thống kê P ≤ 0,05 xác nhận tính đại diện của các siêu thị cho các qui mô khác nhau tại thành phố Hồ Chí Minh Điều này cung cấp cơ sở cho việc ước tính thải lượng bịch nilon và mức phí môi trường cho các siêu thị cùng nhóm qui mô mà không cần nghiên cứu trực tiếp.