1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tác động của quản trị công ty đến quản tri lợi nhuận tại các công ty niêm yết vn30 trên sở giao dịch chứng khoán thành phố hồ chí minh

87 10 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 87
Dung lượng 1,06 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do thực hiện đề tài (11)
  • 2. Mục tiêu (13)
    • 2.1. Mục tiêu tổng quát (13)
    • 2.2. Mục tiêu cụ thể (13)
  • 3. Câu hỏi nghiên cứu (14)
  • 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu (14)
    • 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu (14)
    • 4.2. Phạm vi nghiên cứu (14)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (14)
  • 6. Đóng góp của đề tài (14)
  • 7. Kết cấu của luận văn (15)
  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU (16)
    • 1.1 Các nghiên cứu nước ngoài (16)
    • 1.2 Các nghiên cứu trong nước (20)
    • 1.3 Nhận xét về các công trình nghiên cứu trước đây (25)
    • 1.4 Khoảng trống nghiên cứu (26)
  • CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT (28)
    • 2.1. Các khái niệm (28)
      • 2.1.1. Quản trị lợi nhuận (28)
      • 2.1.2 Đo lường động cơ quản trị lợi nhuận (29)
      • 2.1.3. Quản trị công ty (31)
      • 2.1.4 Nguồn gốc quản trị công ty (33)
    • 2.2 Các lý thuyết có liên quan (34)
      • 2.2.1. Lý thuyết các bên liên quan (Stakeholder theory) (34)
      • 2.2.2. Lý thuyết đại diện (Agency theory) (35)
      • 2.2.3. Lý thuyết quản lý (Stewardship theory) (36)
      • 2.2.4. Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực (Resource dependency theory) (37)
      • 2.2.5 Lý thuyết hành vi (37)
  • CHƯƠNG 3 THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU (40)
    • 3.1 Quy trình nghiên cứu (40)
    • 3.2. Mô tả tổng thể mẫu nghiên cứu (42)
    • 3.3 Mô hình nghiên cứu (42)
      • 3.3.1 Lựa chọn và đo lường các biến (42)
        • 3.3.1.1 Biến phụ thuộc : Quản trị lợi nhuận (42)
        • 3.3.1.2. Các biến độc lập (43)
      • 3.3.2 Mô hình nghiên cứu (48)
        • 3.3.2.1 Mô tả các biến nghiên cứu (48)
        • 3.3.2.2. Mô hình hồi qui đa biến (50)
  • CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (53)
    • 4.1 Kết quả thống kê mô tả (53)
    • 4.2 Phân tích tương quan và hồi qui (54)
      • 4.2.1 Phân tích tương quan (54)
      • 4.2.2 Phân tích hồi qui (55)
    • 4.3 Kiểm định giả thuyết (55)
      • 4.3.1 Quy mô hội đồng quản trị (56)
      • 4.3.2 Tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị độc lập (56)
      • 4.3.3 Tính kiêm nhiệm của chủ tịch HĐQT và tổng giám đốc (57)
      • 4.3.4 Cuộc họp của hội đồng quản trị (58)
      • 4.3.5 Tỷ lệ sở hữu của hội đồng quản trị (59)
      • 4.3.6 Trình độ chuyên môn của hội đồng quản trị (60)
    • 4.4 Kết quả phân tích hồi qui đa biến (61)
      • 4.4.1 Xét ma trận hệ số tương quan (61)
      • 4.4.2 Đánh giá sự phù hợp của mô hình (63)
      • 4.4.3 Kiểm định sự phù hợp của mô hình (64)
      • 4.4.4 Kiểm tra đa công tuyến (64)
      • 4.4.5 Kết quả hồi quy (65)
      • 4.4.6 Bàn luận về kết quả nghiên cứu (67)
  • CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH (69)
    • 5.1 Kết luận (69)
    • 5.2 Gợi ý các chính sách có liên quan (69)
    • 5.3 Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu trong tương lai (70)

Nội dung

Lý do thực hiện đề tài

Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, Việt Nam đã gia nhập nhiều tổ chức kinh tế - chính trị quốc tế và khu vực như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) Việt Nam cũng tích cực tham gia vào các diễn đàn hợp tác như APEC, ASEM và ASEAN, đặc biệt là việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) Sự kiện này đã đặt ra nhu cầu cấp bách về quản trị công ty (QTCT) Để đáp ứng nhu cầu này, các trường đại học, trung tâm nghiên cứu, hiệp hội doanh nghiệp và tổ chức xã hội sẽ hợp tác với chính phủ để phát triển hệ thống QTCT phù hợp Các tổ chức nghiên cứu và hiệp hội sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, hoàn thiện cơ chế pháp luật, tạo niềm tin và mang lại giá trị cho doanh nghiệp và xã hội.

Hội nhập kinh tế mang lại nhiều cơ hội phát triển cho đất nước, trong đó phát triển thị trường chứng khoán là điều kiện quan trọng để gia nhập kinh tế thế giới Các công ty kinh doanh đều hướng đến mục tiêu niêm yết trên sàn giao dịch, yêu cầu báo cáo tài chính phải tuân thủ chuẩn mực và cung cấp thông tin hữu ích cho nhà đầu tư Gần đây, báo chí Việt Nam đã đề cập nhiều vấn đề của thị trường chứng khoán như giao dịch nội gián và công ty niêm yết chưa hiểu rõ về công bố thông tin, gây tranh cãi trong cộng đồng đầu tư Tuy nhiên, nhà đầu tư chủ yếu quan tâm đến chỉ tiêu lợi nhuận và kết quả hoạt động của công ty, vì lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất trong báo cáo tài chính.

Quản trị công ty đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Một bộ phận quản trị tốt không chỉ tạo ra lợi nhuận mà còn nâng cao hiệu suất làm việc (Syed Fuziet al., 2015) Ngược lại, quản trị kém có thể dẫn đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận, gây ra hiệu quả tiêu cực và thậm chí dẫn đến phá sản (Võ Văn Nhị và Hoàng Cẩm Trang, 2013).

Tại Việt Nam, các vấn đề liên quan đến quản trị công ty (QTCT) bắt nguồn từ quá trình cổ phần hóa, minh chứng là Nghị định 59/2011/NĐ-CP và Nghị định 116/2015/NĐ-CP của Chính phủ Việc xây dựng cấu trúc quản trị tốt là yếu tố quyết định cho thành công của cổ phần hóa, cho dù là từ phía Nhà nước hay tư nhân Kinh nghiệm cho thấy, quy định không rõ ràng và thiếu minh bạch đã dẫn đến hành vi kinh doanh không nghiêm túc Hơn nữa, QTCT hiện nay cũng được coi là cơ chế đảm bảo phát triển bền vững cho doanh nghiệp, do đó, việc xây dựng hệ thống QTCT hiệu quả là nhu cầu thiết yếu cho cả khu vực nhà nước và tư nhân.

Các công ty niêm yết thường thực hiện các biện pháp quản trị lợi nhuận để đạt được các mục tiêu đã đề ra Theo thống kê của Vietstock tính đến ngày 09/05/2016, trong số 628 doanh nghiệp công bố báo cáo tài chính quý 1/2016, có 60 doanh nghiệp đảo ngược vị thế, 28 doanh nghiệp chuyển lỗ sang lãi, và 32 doanh nghiệp chuyển lãi sang lỗ, dẫn đến việc báo cáo tài chính không phản ánh chính xác tình hình thực tế của doanh nghiệp (Trần Quyền, 2016).

Hành động QTLN có tác động mạnh mẽ đến nhà đầu tư và lợi ích của cổ đông, điều này đang thu hút sự chú ý đáng kể Nhà đầu tư phải đối mặt với nhiều thách thức trong việc tiếp cận và xử lý thông tin, đặc biệt khi chất lượng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam rất đa dạng và không phải tất cả đều đáng tin cậy.

Thị trường chứng khoán Việt Nam, đặc biệt là chỉ số VN30, nổi bật với vai trò dẫn đầu về giá trị vốn hóa và tính thanh khoản cao.

Chỉ số VN30 không chỉ cung cấp cho nhà đầu tư một chỉ số tham chiếu mà còn tạo ra hàng hóa mới trên thị trường chứng khoán, mở rộng sự lựa chọn đầu tư Đối với các doanh nghiệp niêm yết, việc có mã chứng khoán được vinh danh trên đại sảnh HOSE không chỉ là niềm tự hào mà còn là động lực phát triển Để duy trì vị trí trong Top 30 doanh nghiệp hàng đầu, các doanh nghiệp cần nỗ lực tối đa trong sản xuất kinh doanh, quản trị công ty và thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin Những rào cản khó khăn để vào rổ chỉ số VN30 cũng tạo ra động lực cho tất cả doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán không ngừng phấn đấu.

VN30 ra đời nhằm cung cấp thông tin chi tiết về thị trường, đồng thời tạo ra một chỉ số có khả năng mô phỏng và đầu tư hiệu quả Điều này mang đến cho các nhà đầu tư nhiều cơ hội hơn và giúp họ tự tin hơn trong việc xây dựng danh mục đầu tư cá nhân.

Bài viết nghiên cứu “Tác động của quản trị công ty đến quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30 trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM” được chọn dựa trên thực tiễn và những nhận định về mối quan hệ quan trọng giữa quản trị công ty và quản trị lợi nhuận.

Mục tiêu

Mục tiêu tổng quát

Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố của quản trị công ty (QTCT) ảnh hưởng đến quản trị lợi nhuận (QTLN) tại các công ty niêm yết VN30 trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM Mục tiêu là đưa ra các gợi ý chính sách giúp các đối tượng sử dụng thông tin một cách chính xác để cải thiện QTLN tại các công ty này.

Mục tiêu cụ thể

Đề tài xác định các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố của QTCT đến quản trị lợi nhuận

Dưới đây là bốn đề tài gợi ý chính sách liên quan đến quản trị công ty tại các công ty niêm yết VN30, nhằm hỗ trợ các nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách và nhà đầu tư tiềm năng Những đề tài này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản trị mà còn tạo ra môi trường đầu tư minh bạch và bền vững cho thị trường chứng khoán Việt Nam.

Câu hỏi nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, bài viết đặt ra hai câu hỏi chính: Các nhân tố của quản trị công ty (QTCT) là gì và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến chất lượng lãnh đạo (QTLN) của các công ty niêm yết VN30 trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM ra sao?

Chính sách nào phù hợp để kiểm soát QTLN tại các công ty niêm yết VN30?

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu

Các nhân tố của QTCT tác động đến quản trị lợi nhuận ở các công ty niêm yết VN30 trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM.

Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu tập trung vào cơ sở lý thuyết và xác định các yếu tố của quản trị công ty (QTCT) ảnh hưởng đến chất lượng lãnh đạo (QTLN) tại các công ty niêm yết trong chỉ số VN30 trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM.

Về không gian và thời gian : Gồm 30 công ty niêm yết VN30 trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM trong giai đoạn 5 năm từ năm 2012- 2016.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu này áp dụng phương pháp định lượng qua dữ liệu bảng theo chuỗi thời gian (OLS) để kiểm định giả thuyết, xây dựng ma trận hệ số tương quan, đánh giá mức độ phù hợp của mô hình và thực hiện phân tích hồi quy đa biến Mục tiêu là xác định các nhân tố của quản trị công ty (QTCT) tác động đến chất lượng lãnh đạo (QTLN) tại các công ty niêm yết VN30 trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM.

Đóng góp của đề tài

Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố của quản trị công ty (QTCT) ảnh hưởng đến chất lượng lãnh đạo (QTLN) tại các công ty niêm yết VN30 trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM.

Nghiên cứu này đưa ra các gợi ý chính sách nhằm nâng cao mức độ quản trị lợi nhuận (QTLN) tại các công ty niêm yết trong chỉ số VN30 trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM Các đề xuất này dựa trên kết quả phân tích hiện trạng quản trị lợi nhuận tại các doanh nghiệp, nhằm cải thiện tính minh bạch và hiệu quả hoạt động kinh doanh.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, bảng biểu và phụ lục, luận văn gồm có 5 chương Chương 1 : Tổng quan các nghiên cứu

Chương 2 : Cơ sở lý thuyết

Chương 3 : Thiết kế nghiên cứu

Chương 4 : Kết quả nghiên cứu

Chương 5 : Kết luận và gợi ý chính sách

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU

Các nghiên cứu nước ngoài

Nghiên cứu của Park và Shin (2004) phân tích mối quan hệ giữa thành phần hội đồng quản trị và quản trị lợi nhuận, dựa trên 539 mẫu quan sát từ các công ty Canada trong giai đoạn 1991-1997, sử dụng mô hình điều chỉnh lợi nhuận của Dechow và các cộng sự (1995) Kết quả cho thấy sự hiện diện của thành viên hội đồng từ các trung gian tài chính và cổ đông tổ chức làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận, trong khi tỷ lệ thành viên hội đồng bên ngoài cao lại làm tăng hành vi này Điều này trái ngược với quan điểm cho rằng tăng tỷ lệ thành viên bên ngoài sẽ nâng cao tính độc lập và giải quyết xung đột lợi ích giữa các cổ đông Tác giả nhận định rằng các thành viên hội đồng bên ngoài tại Canada có thể thiếu kiến thức tài chính, thông tin cần thiết để phát hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận, và có thể không quan tâm đến hoạt động công ty do thiếu quyền sở hữu và thực sự độc lập.

Nghiên cứu của Ali Shah, S Z., Zafar, N và Durrani, T N (2009) đã phân tích mối quan hệ giữa hội đồng thành phần và quản trị lợi nhuận tại 120 công ty niêm yết ở Pakistan trong giai đoạn 2003-2007 Dữ liệu được thu thập từ bảng phân tích cân đối kế toán và báo cáo thường niên Phương pháp quản trị lợi nhuận được áp dụng dựa trên bảng cân đối kế toán và báo cáo lưu chuyển tiền Nghiên cứu sử dụng hồi quy và thống kê mô tả để xem xét các yếu tố như hội đồng quản trị độc lập, sở hữu tổ chức, quy mô công ty và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) Kết quả cho thấy các yếu tố này đều có ảnh hưởng tiêu cực đến quản trị lợi nhuận, trong khi hội đồng quản trị độc lập có ảnh hưởng tích cực nhưng không đáng kể về mặt thống kê.

Nugroho, B.Y và Eko, U (2011) đã tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của đặc tính hội đồng quản trị đến quản trị lợi nhuận của 212 công ty niêm yết tại Indonesia trong giai đoạn 2004 – 2008 Nghiên cứu xem xét 8 yếu tố, bao gồm hội đồng quản trị độc lập, tính kiêm nhiệm của chủ tịch HĐQT và CEO, quy mô hội đồng quản trị, quyền sở hữu quản lý, hội đồng thành phần, nhiệm kỳ hội đồng quản trị, hội đồng kiêm nhiệm và ủy ban kiểm toán Qua phân tích định lượng và dữ liệu thứ cấp, kết quả cho thấy chỉ có tính kiêm nhiệm của chủ tịch HĐQT và CEO có ảnh hưởng tích cực đến quản trị lợi nhuận, trong khi 7 biến còn lại tác động tiêu cực.

Nghiên cứu của Ahmed S (2013) phân tích mối quan hệ giữa đặc điểm Ban giám đốc và quản trị lợi nhuận trên 71 công ty niêm yết tại Malaysia trong giai đoạn 2011-2015 Thông tin về Ban giám đốc được thu thập từ báo cáo hàng năm và các dữ liệu khác từ các công ty Quản trị lợi nhuận được đo bằng phương pháp trích trước, với việc sử dụng hồi quy tuyến tính và phần mềm SPSS để phân tích Tác giả đưa ra 4 giả thuyết nghiên cứu liên quan đến các cuộc họp của hội đồng quản trị, tỷ lệ giám đốc thuê bên ngoài, trình độ chuyên môn tài chính của nhà quản trị, và sự hiện diện của giám đốc quản lý và giám đốc điều hành Kết quả cho thấy số lượng cuộc họp của hội đồng quản trị không có mối liên hệ với tùy ý trích trước, trong khi giám đốc thuê bên ngoài và trình độ chuyên môn tài chính có ảnh hưởng tích cực đến biến tùy ý trích trước; ngược lại, sự hiện diện của giám đốc quản lý và giám đốc điều hành không có tác động đáng kể.

Nghiên cứu của Sukeecheeo, S., Yarram, S.R và Farooque, O A (2013) tập trung vào quản trị lợi nhuận và đặc tính hội đồng quản trị tại Thái Lan Tác giả đã chọn mẫu gồm 550 công ty niêm yết ở Thái Lan trong giai đoạn 2006-2010 và áp dụng mô hình nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận của Dechow và các cộng sự.

Nghiên cứu của Modified Jones (1995) đã xác định năm biến quan trọng liên quan đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận, bao gồm tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị, tỷ lệ thành viên độc lập, tính kiêm nhiệm giữa hội đồng quản trị và tổng giám đốc, tần suất họp hội đồng quản trị, và quy mô hội đồng quản trị Kết quả cho thấy, việc tăng tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị tham gia ở các công ty khác sẽ làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận Ngoài ra, các công ty có lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh cao cũng giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận Tuy nhiên, thành viên hội đồng quản trị độc lập không điều hành lại làm tăng hành vi này Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Park & Shin (2004), cho rằng thành viên độc lập tại các công ty niêm yết ở Thái Lan thiếu độc lập và quyền lực để điều tra sai phạm Nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ giữa tính kiêm nhiệm, quy mô hội đồng quản trị, và tần suất họp với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.

C.A Kankanamage (2015) nghiên cứu mối quan hệ giữa đặc tính hội đồng và quản trị lợi nhuận, bằng chứng từ các công ty niêm yết tại Srilankan trong giai đoạn 2012 đến 2015 Tác giả chọn mẫu 160 công ty niêm yết, mô hình gồm 4 biến độc lập gồm : quy mô hội đồng quản trị, thành phần hội đồng quản trị, cuộc họp của hội đồng quản trị, chuyên môn tài chính của ban quản trị và biến phụ thuộc là QTLN Sau khi phân tích định lƣợng nghiên cứu kết luận rằng biến quy mô hội đồng quản trị có mối quan hệ tích cực đáng kể với quản trị lợi nhuận trong khi các biến chuyên môn tài chính của hội đồng quản trị, cuộc họp của hội đồng quản trị và thành phần hồi đồng quản trị có ảnh hưởng tiêu cực đến quản trị lợi nhuận

Nghiên cứu của Okougbo và Okike (2015) về quản trị công ty và quản trị lợi nhuận tại Nigeria đã sử dụng dữ liệu từ 62 công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Nigeria trong năm 2008 Nghiên cứu này tập trung vào ba biến độc lập: tính kiêm nhiệm của giám đốc điều hành và chủ tịch Hội đồng quản trị, quy mô Hội đồng quản trị, và sự tồn tại của ủy ban kiểm toán độc lập Ngoài ra, tác giả còn xem xét năm biến kiểm soát bao gồm quy mô doanh nghiệp, độ tuổi công ty, và loại hình doanh nghiệp.

Nghiên cứu về mối quan hệ giữa kiểm toán viên, đòn bẩy tài chính và ROA cho thấy rằng trong ba biến độc lập, chỉ có kích thước Hội đồng Quản trị có mối liên hệ cùng chiều với quản trị lợi nhuận Hai biến độc lập còn lại không có ý nghĩa thống kê Trong số sáu biến kiểm soát, ROA thể hiện mối quan hệ tích cực với quản trị lợi nhuận, trong khi các biến kiểm soát khác không cho thấy ý nghĩa thống kê.

Nghiên cứu của Bassiouny, S W., Soliman, M và MandRagab, A (2016) đã phân tích ảnh hưởng của các đặc điểm công ty đến quản trị lợi nhuận tại 60 công ty niêm yết lớn nhất ở Ai Cập trong giai đoạn 2007-2011, ngoại trừ ngân hàng và công ty bảo hiểm, với tổng cộng 300 quan sát Sử dụng mô hình hồi quy ngẫu nhiên qua phần mềm Stata, tác giả đo lường biến phụ thuộc thông qua phương pháp trích trước tùy ý cho quản trị lợi nhuận và áp dụng phương pháp báo cáo lưu chuyển tiền để tính tổng số trích trước Các biến độc lập được kiểm tra bao gồm quy mô doanh nghiệp, đòn bẩy tài chính, tuổi công ty và chất lượng kiểm toán Kết quả cho thấy đòn bẩy tài chính có mối quan hệ tích cực đáng kể với quản trị lợi nhuận, trong khi các biến còn lại không bị bác bỏ Nghiên cứu cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của chất lượng báo cáo tài chính.

Nghiên cứu của Abbadi, S S., Hajazi, Q F và Rahahled, A.S (2016) về chất lượng quản trị công ty và quản lý thu nhập tại Jordan đã xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến quản trị lợi nhuận trong giai đoạn 2009-2013, với 121 công ty và 558 quan sát Chất lượng quản trị công ty, bao gồm ban giám đốc, các cuộc họp của ban giám đốc, kiểm toán và tiền bồi thường, được xác định là biến điều khiển Kết quả nghiên cứu cho thấy quản trị công ty có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đến quản trị lợi nhuận, trong khi quy mô công ty, tỷ lệ tăng doanh thu và lợi nhuận trên tài sản (ROA) cũng có tác động tiêu cực Ngược lại, đòn bẩy tài chính lại có ảnh hưởng tích cực đến quản trị lợi nhuận.

Daghsni, O., Zouhayer, M và Bel Hadj Mbarek, K (2016) đã thực hiện một nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của đặc điểm Ban Quản trị đến quản trị lợi nhuận của 70 công ty niêm yết tại Pháp, với 350 quan sát trong giai đoạn 2008 – 2012 Nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa bốn biến độc lập: kích thước hội đồng quản trị, tính độc lập của Ban quản trị, tính kiêm nhiệm giữa chủ tịch hội đồng quản trị và CEO, cùng với hoạt động của hội đồng quản trị Ngoài ra, tác giả còn đưa vào nghiên cứu các yếu tố khác liên quan.

Nghiên cứu xác định bốn biến kiểm soát gồm kích thước công ty, đoàn bẩy tài chính, khu vực công nghệ cao và ROI, trong đó có hai biến ảnh hưởng tích cực đến quản trị lợi nhuận: tính kiêm nhiệm của chủ tịch hội đồng quản trị và CEO, cùng với các hoạt động của hội đồng quản trị Hai biến còn lại lại có mối quan hệ tiêu cực với quản trị lợi nhuận Đáng chú ý, các biến điều khiển trong nghiên cứu không có tác động đến quản trị lợi nhuận.

Các nghiên cứu trong nước

Phạm Thị Bích Vân (2012) đã thực hiện nghiên cứu về hành vi điều chỉnh lợi nhuận của 60 doanh nghiệp niêm yết tại Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội, sử dụng mô hình Modified Jones trong niên độ kế toán 2010 Kết quả cho thấy mô hình này không hiệu quả trong việc nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận, do hệ số đo lường mức độ phù hợp không đạt yêu cầu và các hệ số hồi quy không có ý nghĩa Để phù hợp với bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam, tác giả đã điều chỉnh một số biến, như thay thế biến tài sản cố định bằng chi phí khấu hao và dự phòng, biến doanh thu thuần bằng phải thu khách hàng, cũng như thay thế khoản phải trả người bán bằng giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp Sau khi điều chỉnh, mô hình đã cho kết quả khả quan hơn.

Mô hình nghiên cứu chỉ ra rằng 11 doanh nghiệp có hành vi điều chỉnh lợi nhuận niêm yết trên sàn giao dịch Hà Nội Hệ số đo lường sự phù hợp của mô hình cho thấy sự gia tăng, với tất cả các biến trong mô hình đều có ý nghĩa thống kê.

Nguyễn Thị Minh Trang (2012) đã áp dụng mô hình của Deangelo và Friedlan để nhận diện hành động điều chỉnh lợi nhuận của các nhà quản trị Tác giả chỉ ra rằng có nhiều động cơ thúc đẩy các nhà quản trị điều chỉnh lợi nhuận theo ý muốn cá nhân, điều này thường không được nhận ra bởi những người sử dụng thông tin một cách thông thường Nghiên cứu này không chỉ cung cấp một mô hình nhận diện hành động điều chỉnh lợi nhuận mà còn giúp các đối tượng có được thông tin chính xác để đưa ra quyết định đúng đắn, từ đó mang lại ý nghĩa quan trọng cho việc cải thiện quá trình ra quyết định trong quản trị.

Bài viết đề cập đến 20 doanh nghiệp thuộc bốn loại hình khác nhau: doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn Tác giả áp dụng mô hình điều chỉnh lợi nhuận của DeAngelo (1986) cùng với mô hình Friedlan để phân tích hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này.

Năm 1994, nghiên cứu đã chỉ ra hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông qua việc xác định các biến kế toán dồn tích có và không điều chỉnh Dựa trên số liệu từ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ năm 2008-2009, tác giả kết luận rằng hầu hết các doanh nghiệp có thể điều chỉnh lợi nhuận theo ý muốn của nhà quản trị, cho phép tăng hoặc giảm lợi nhuận so với thực tế Nguyên nhân điều chỉnh lợi nhuận khác nhau giữa các loại hình doanh nghiệp; chẳng hạn, công ty cổ phần thường điều chỉnh lợi nhuận để thu hút đầu tư bên ngoài, trong khi các doanh nghiệp không niêm yết thường điều chỉnh giảm lợi nhuận để giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp.

Hoang, C., T Abeysekera I., và Ma, S (2014) đã tiến hành nghiên cứu về mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và quản trị lợi nhuận, chỉ ra rằng các nghiên cứu trong lĩnh vực này còn hạn chế Họ cũng nhấn mạnh rằng tài liệu hiện có cung cấp những bằng chứng không nhất quán, gây ra sự nhầm lẫn về mối quan hệ giữa quyền sở hữu nhà nước và quản trị lợi nhuận Nghiên cứu sử dụng dữ liệu tài chính từ Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội cùng với các báo cáo liên quan.

Nghiên cứu này phân tích hiệu quả của quyền sở hữu nhà nước đối với quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, dựa trên 12 công bố hàng năm Tác giả nhận thấy rằng doanh nghiệp nhà nước (DNNN) quản trị lợi nhuận ít hơn thông qua các khoản thu nhập so với doanh nghiệp tư nhân (POE), điều này trái ngược với niềm tin thông thường rằng DNNN có khả năng điều khiển thu nhập tốt hơn Sử dụng số liệu tài chính của 150 công ty niêm yết từ năm 2005 đến 2011 tại thị trường chứng khoán Hồ Chí Minh và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, tác giả đã chỉ ra rằng sở hữu nhà nước có tác động tiêu cực đến quản trị lợi nhuận, đặc biệt thông qua các khoản trích trước.

Giáp Thị Liên (2014) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa quản trị công ty và hành vi điều chỉnh lợi nhuận của 101 công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM trong giai đoạn từ 2009 đến 2013 Mô hình nghiên cứu bao gồm 9 nhân tố ảnh hưởng đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận, trong đó có việc tách vai trò của Chủ tịch HĐQT và Tổng Giám đốc, thành viên HĐQT không điều hành, thành viên hội đồng quản trị độc lập, quy mô HĐQT, tính độc lập của ban kiểm soát, chuyên môn của ban kiểm soát, và sở hữu cổ phần của HĐQT không điều hành, Ban Giám đốc, cùng Ban Kiểm soát Qua phương pháp định lượng, tác giả đã xác định 4 biến có ý nghĩa thống kê, bao gồm tách vai trò của Chủ tịch HĐQT và Tổng Giám đốc, thành viên HĐQT không điều hành, thành viên hội đồng quản trị độc lập, và sở hữu cổ phần của Ban Giám đốc, trong khi các biến còn lại không có ý nghĩa với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.

Nghiên cứu của Trần Thị Mỹ Tú (2014) phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận trên báo cáo tài chính của các công ty cổ phần niêm yết tại sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM, bao gồm bốn yếu tố chính: tính độc lập của hội đồng quản trị, công ty kiểm toán, quy mô công ty và đòn bẩy tài chính.

Trong nghiên cứu, tác giả đã chỉ ra 13 phương pháp định lượng và xác định rằng có 2 trong 4 nhân tố có mối quan hệ cùng chiều với hành vi điều chỉnh lợi nhuận, đó là quy mô công ty và đòn bẩy tài chính Ngược lại, 2 biến còn lại lại có tác động ngược chiều đối với hành vi này.

Nghiên cứu của Đoàn Ngọc Phúc và Lê Văn Thông (2014) tập trung vào tác động của quản trị doanh nghiệp đối với hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa tại Việt Nam Mục tiêu chính là đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố quản trị đến hiệu quả kinh doanh của 217 doanh nghiệp niêm yết trên hai sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM và Hà Nội trong giai đoạn 2007-2012 Mô hình nghiên cứu bao gồm sáu biến độc lập: quy mô hội đồng quản trị (HĐQT), sự độc lập của HĐQT, tính kiêm nhiệm của giám đốc điều hành và chủ tịch HĐQT, sở hữu HĐQT, kinh nghiệm của HĐQT, và trình độ học vấn của HĐQT.

Bài viết phân tích ba biến kiểm soát: quy mô doanh nghiệp, tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp và tỷ lệ nợ, trong khi sử dụng ROA và ROE làm biến phụ thuộc để đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh Kết quả cho thấy sự độc lập của Hội đồng quản trị (HĐQT) có tác động tích cực đến hiệu quả kinh doanh, trong khi hai biến độc lập là sở hữu HĐQT và kinh nghiệm của HĐQT lại có tác động tiêu cực Các biến độc lập còn lại không có ý nghĩa thống kê Biến kiểm soát quy mô doanh nghiệp cũng cho thấy tác động tích cực đến hiệu quả kinh doanh, trong khi tỷ lệ nợ lại có mối quan hệ tiêu cực với hiệu quả kinh doanh, và biến còn lại không có ý nghĩa thống kê.

Nguyễn Trọng Nguyên (2015) đã nghiên cứu tác động của quản trị công ty đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính (BCTC) tại các công ty niêm yết ở Việt Nam Nghiên cứu chỉ ra rằng 4 trong 6 nhân tố có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng BCTC, bao gồm tính độc lập của Hội đồng quản trị (HĐQT), mức độ chuyên môn kế toán tài chính của HĐQT, số lượng cuộc họp và sự tồn tại của kiểm toán nội bộ Ngược lại, hai nhân tố là sự kiêm nhiệm chức danh chủ tịch HĐQT và tính độc lập của Ban kiểm soát không có tác động đến chất lượng BCTC.

Nghiên cứu của Trần Thị Giang Tân và Trương Thùy Dương (2016) về ảnh hưởng của đặc tính hội đồng quản trị đến sai sót trọng yếu trên báo cáo tài chính tại Việt Nam đã sử dụng mẫu 216 doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán TP.HCM và Hà Nội Phương pháp hồi quy Logistic với phần mềm R đã được áp dụng, dựa trên dữ liệu từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của các doanh nghiệp giai đoạn 2011-2014 Mô hình nghiên cứu gồm 6 biến độc lập, trong đó có quy mô hội đồng quản trị, tỷ lệ thành viên không điều hành, số thành viên có quan hệ thân tộc, và nhiệm kỳ của thành viên không điều hành, cùng với 3 biến kiểm soát như quy mô doanh nghiệp, tốc độ phát triển và tỷ số nợ Kết quả cho thấy chỉ có 5 trong 6 nhân tố có ý nghĩa thống kê, trong đó quy mô hội đồng quản trị, thành viên có mối quan hệ thân tộc và nhiệm kỳ thành viên có tác động tích cực đến sai sót trọng yếu, trong khi 2 nhân tố còn lại tác động ngược chiều Chỉ biến tỷ số nợ trong các biến kiểm soát có ý nghĩa thống kê.

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phượng Loan và Nguyễn Minh Thao (2016) về hành vi quản trị lợi nhuận thực tế của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ ra rằng có nhiều động cơ khác nhau thúc đẩy việc điều chỉnh lợi nhuận Các nhà quản lý không chỉ linh hoạt trong việc lựa chọn chính sách và ước tính kế toán mà còn có thể điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp để quản trị lợi nhuận Nghiên cứu nhận diện ba hành vi quản trị lợi nhuận thực tế phổ biến: (1) Thúc đẩy doanh thu qua các chính sách chiết khấu và nới lỏng thanh toán; (2) Cắt giảm chi phí tùy ý; và (3) Tiến hành sản xuất thái quá Mục tiêu chính của nghiên cứu là giúp các doanh nghiệp tránh bị lỗ thông qua những hành vi này, dựa trên dữ liệu từ 610 công ty niêm yết tại Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Nhận xét về các công trình nghiên cứu trước đây

Nghiên cứu về quản trị công ty (QTCT) và quản trị lợi nhuận (QTLN) đang thu hút sự chú ý trong lĩnh vực kế toán và tài chính Mặc dù có một số công trình nghiên cứu quốc tế, phần lớn tập trung vào phạm vi quốc gia, như nghiên cứu của Trang Hoang và Indra Abeysekera (2014) về sở hữu nhà nước tại các công ty niêm yết ở TP.HCM và Hà Nội, nhưng lại thiếu liên kết với yếu tố QTCT Các nghiên cứu trong nước chủ yếu xem xét giai đoạn trước đây, với nghiên cứu của Đức Võ và Thủy Phan (2013) là một ngoại lệ khi phân tích mối quan hệ giữa QTCT và hiệu suất công ty mà không đề cập đến quản trị lợi nhuận Do đó, việc tìm hiểu ảnh hưởng của đặc điểm quản trị công ty đến quản trị lợi nhuận cần được chú trọng hơn, vì đây là yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty.

Khoảng trống nghiên cứu

Nghiên cứu này kế thừa và mở rộng các nghiên cứu trước để tìm hiểu tác động của quản trị công ty đến quản trị lợi nhuận tại các công ty niêm yết VN30 trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM trong giai đoạn 2012-2016 Mục tiêu là xác định các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị lợi nhuận và cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách và nhà đầu tư tiềm năng Qua đó, nghiên cứu nhằm gợi ý các chính sách quản trị công ty phù hợp, giúp nhà đầu tư có thêm nguồn thông tin đáng tin cậy bên cạnh các báo cáo tài chính truyền thống.

Chương này tập trung vào việc đánh giá tổng quan các nghiên cứu liên quan đến nội dung của luận văn, cả trong nước và quốc tế Qua đó, tác giả xác định được những khoảng trống cần nghiên cứu, từ đó làm cơ sở cho các bước tiếp theo trong quá trình thực hiện luận văn.

Tác giả đã tổng hợp và đánh giá 19 công trình nghiên cứu, bao gồm 10 nghiên cứu quốc tế và 9 nghiên cứu trong nước, dựa trên các nguồn tài liệu chính thống Những công trình này được chọn lọc kỹ lưỡng và có liên quan mật thiết đến nội dung của luận văn.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Các khái niệm

Quản trị lợi nhuận (QTLN) là một lĩnh vực nghiên cứu quan trọng trong tài chính, thường được xem xét trong nhiều ngữ cảnh khác nhau Theo Schipper (1989), QTLN được định nghĩa là việc điều chỉnh lợi nhuận nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra bởi nhà quản trị Đây là một hành động can thiệp có tính toán trong quá trình công bố báo cáo tài chính (BCTC) với mục đích đạt được những lợi ích cá nhân nhất định.

Quản trị lợi nhuận, theo Healy và Wahlen (1999), xảy ra khi các nhà quản lý sử dụng phán đoán trong báo cáo tài chính và giao dịch cấu trúc nhằm thay đổi hoặc đánh lừa các bên liên quan về hoạt động kinh tế của công ty Điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả của các hợp đồng phụ thuộc vào số liệu kế toán Quản trị lợi nhuận được coi là một cơ chế tiêu cực, khi các nhà quản lý lợi dụng sự tự quyết trong báo cáo để làm sai lệch thông tin tài chính, phục vụ cho mục tiêu cá nhân của họ.

Hai khái niệm về quản trị lợi nhuận từ hai tác giả khác nhau đều có những điểm tương đồng Khái niệm của shipper nhấn mạnh rằng mục đích của quản trị lợi nhuận là để đạt được lợi ích cá nhân, trong khi Healy và Wahlen lại tập trung vào việc đánh lừa các bên liên quan Dù hiểu theo cách nào, quản trị lợi nhuận vẫn nhằm phục vụ một mục đích nhất định.

Quản trị lợi nhuận được định nghĩa bởi Akers, Giacomino và Bellovary (2007) là những nỗ lực của nhà quản trị nhằm tác động đến báo cáo thu nhập thông qua việc áp dụng các phương pháp kế toán đặc biệt Điều này bao gồm việc công nhận các khoản mục không định kỳ, trì hoãn hoặc đẩy nhanh việc ghi nhận giao dịch chi phí hoặc doanh thu, cũng như sử dụng các phương pháp khác có ảnh hưởng đến thu nhập ngắn hạn.

Quản trị lợi nhuận là hành vi điều chỉnh kế toán do các nhà quản trị thực hiện, ảnh hưởng đến lợi nhuận và nguồn thu nhập của doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể Hành động này có thể làm cho báo cáo tài chính (BCTC) không phản ánh trung thực và hợp lý, gây ra tác động tiêu cực đến quyết định của các nhà đầu tư và những người sử dụng báo cáo tài chính.

2.1.2 Đo lường động cơ quản trị lợi nhuận

Quản trị lợi nhuận là quá trình điều chỉnh lợi nhuận nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra của nhà quản trị, ảnh hưởng lớn đến lợi ích của cổ đông và công ty Hành động này có thể làm suy giảm lòng tin của nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán, đồng thời gây khó khăn cho việc thực hiện mục tiêu bảo vệ nhà đầu tư của Chính phủ và Bộ Tài chính Mặc dù có nhiều lý do khác nhau thúc đẩy động cơ quản trị lợi nhuận, các mục đích này thường có điểm chung Tác giả Phạm Thị Bích Vân (2013) đã nghiên cứu về “Các cách đo lường sự trung thực của chỉ tiêu lợi nhuận” để tổng hợp những nội dung chính về động cơ quản trị lợi nhuận.

Thứ nhất : Hợp đồng thù lao

Lợi nhuận là chỉ số quan trọng phản ánh hiệu quả kinh doanh và sự phát triển bền vững của công ty Các doanh nghiệp niêm yết thường áp dụng chế độ trả lương hoặc thưởng cho ban điều hành dựa trên tỷ lệ phần trăm (%) của lợi nhuận kế toán, tạo động lực cho các nhà quản trị điều chỉnh lợi nhuận Do đó, ban điều hành có xu hướng tăng lợi nhuận kế toán trong kỳ để nâng cao mức lương và thưởng.

20 cách duy nhất là tăng lợi nhuận

Thứ hai : San bằng lợi nhuận giữa các kỳ kế toán để đảm bảo xu hướng lợi nhuận bền vững trong dài hạn

Các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán luôn nỗ lực hướng đến sự phát triển bền vững dài hạn, với mong muốn của các cổ đông là lợi nhuận ổn định và không có sự biến động lớn Để giữ giá cổ phiếu ổn định hoặc tăng giá trị thị trường, các công ty cần giảm thiểu sự biến động lợi nhuận giữa các kỳ kế toán Biến động lợi nhuận lớn đồng nghĩa với rủi ro cao, dẫn đến giá cổ phiếu có thể giảm so với các công ty có lợi nhuận ổn định Do đó, nhà quản trị thường điều chỉnh lợi nhuận theo hướng san bằng để đạt được sự ổn định và đảm bảo lợi nhuận bền vững trong dài hạn.

Thứ 3 : Tránh vi phạm hợp đồng đi vay Để mở rộng sản xuất kinh doanh hay mở rộng đầu tư, các công ty thường đi vay Để tránh vi phạm hợp đồng vay một số công ty có động cơ điều chỉnh tăng lợi nhuận nhằm tránh vi phạm hợp đồng đi vay Nếu vi phạm, các chủ nợ có thể tăng lãi suất đối với các khoản nợ hoặc yêu cầu công ty thanh toán các khoản nợ ngay lập tức Vì các chủ nợ cho rằng, nếu công ty làm ăn không có lãi thì khả năng thanh toán nợ cho họ khó khăn hơn Từ đó, rủi ro rất lớn đối với các chủ nợ trong việc thu hồi vốn cho vay Hệ quả là, các nhà quản trị sử dụng các thủ thuật điều chỉnh lợi nhuận nhằm tránh các rắc rối liên quan đến các hợp đồng đi vay

Thứ 4 : Phát hành cổ phiếu ra công chúng

Các công ty niêm yết thường phải đối mặt với rủi ro khi phát hành cổ phiếu và các công cụ tài chính khác, với chi phí phát hành chứng khoán cao, chiếm từ 8-10% vốn huy động Những chi phí này bao gồm bảo lãnh phát hành, tư vấn pháp luật, in ấn, kiểm toán và niêm yết Để giảm thiểu rủi ro, nhiều doanh nghiệp có thể thực hiện hành vi "quản trị lợi nhuận" bằng cách điều chỉnh tăng lợi nhuận.

Doanh nghiệp cần tối đa hóa kết quả hoạt động trong khuôn khổ chuẩn mực kế toán để đạt được mục tiêu huy động vốn đúng tiến độ, thu hút nhà đầu tư và tăng giá trị thị trường cổ phiếu Lợi nhuận là một tiêu chí quan trọng trong việc lựa chọn danh mục đầu tư, ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị cổ phiếu trên thị trường.

Thứ 5 : Đáp ứng sự kỳ vọng của giới phân tích thị trường

Doanh thu và lợi nhuận là hai chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Các nhà quản trị thường phải đối mặt với áp lực từ các nhà phân tích để điều chỉnh lợi nhuận, chẳng hạn như ghi nhận doanh thu sớm hoặc hoãn ghi nhận chi phí, nhằm tăng lợi nhuận trong kỳ báo cáo.

Thứ 6 : Thay đổi nhà quản trị

Thay đổi nhà quản trị là thời điểm quan trọng đối với các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Nhà quản trị đang gặp khó khăn thường tìm cách tăng lợi nhuận để tránh bị sa thải, trong khi nhà quản trị mới có xu hướng dịch chuyển lợi nhuận từ tương lai về hiện tại để được đánh giá cao Họ điều chỉnh tăng lợi nhuận trong kỳ hiện tại nhằm thể hiện khả năng làm việc với hội đồng quản trị.

Quản trị công ty đang thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu, đặc biệt sau khi xảy ra nhiều vụ gian lận kế toán và bê bối tài chính trên thị trường toàn cầu, điều này làm nổi bật vai trò quan trọng của quản trị công ty Nghiên cứu cho thấy một bộ phận quản trị hiệu quả có thể cải thiện tính kỷ luật, kiểm soát và quản lý, từ đó giảm chi phí giao dịch và nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty Hiện nay, có nhiều định nghĩa về quản trị công ty, và Claessens và Yurtoglu (2013) đã phân loại chúng thành hai nhóm: "theo nghĩa hẹp" và "theo nghĩa rộng", giúp hiểu rõ hơn về khái niệm quản trị công ty.

Trong khuôn khổ quản trị công ty, việc tập trung vào các cơ chế nội bộ là rất quan trọng Điều này bao gồm các thuộc tính của ban giám đốc và cấu trúc sở hữu, nhằm theo dõi hiệu quả hoạt động của các giám đốc điều hành và đảm bảo lợi ích cho các bên liên quan.

Các lý thuyết có liên quan

2.2.1 Lý thuyết các bên liên quan (Stakeholder theory)

Lý thuyết các bên liên quan, do Edward Freeman phát triển vào năm 1984, nhấn mạnh vai trò quan trọng của các bên liên quan như cổ đông, nhân viên, chủ nợ, nhà cung cấp, người tiêu dùng, và các cơ quan quản lý trong việc quản lý tổ chức và đạo đức kinh doanh Những đối tượng này không chỉ tạo ra năng suất mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Do đó, các doanh nghiệp cần chú trọng vào giá trị mà họ mang lại và duy trì mối quan hệ hợp tác lâu dài với các bên liên quan.

Quản trị công ty cần đảm bảo nguồn vốn từ các bên liên quan và được thiết kế để phù hợp với quyền lợi của họ, đồng thời quản lý và phân bổ vốn một cách hiệu quả, hạn chế việc sử dụng tài sản sai lệch (Shleifer và Vishny, 1997) Ngoài ra, quản trị công ty cũng cung cấp các cơ chế nhằm giảm thiểu rủi ro cho các bên liên quan, như gian lận nội bộ và chiếm đoạt tài sản (La Porta et al., 2000) Do đó, các doanh nghiệp nên chú trọng vào việc thiết lập các cơ chế quản trị công ty, bao gồm khung pháp lý, quy tắc và chức năng, nhằm cân bằng lợi ích của cổ đông với các bên liên quan, đồng thời duy trì sự thịnh vượng bền vững của công ty.

Lý thuyết các bên liên quan nhấn mạnh vai trò quan trọng của các nhà quản lý trong việc chịu trách nhiệm trước các bên liên quan, nhưng chưa đề cập đến cách duy trì sự quan tâm của họ Edward Freeman (1984) cho rằng sự tương tác giữa các bên trong và ngoài công ty có thể ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định, vì tất cả các bên liên quan đều có giá trị riêng Do đó, các nhà quản lý cần bảo vệ lợi ích của các bên liên quan và đảm bảo rằng cổ phần tương ứng với lợi ích của từng người nắm giữ.

2.2.2 Lý thuyết đại diện (Agency theory)

Lý thuyết đại diện, được phát triển bởi Alchian và Demsetz vào năm 1972 và sau đó bởi Jensen và Mackling vào năm 1976, mô tả mối quan hệ giữa cổ đông và các đại diện như giám đốc điều hành Cổ đông, là những người sở hữu công ty, thuê các nhà quản lý để thực hiện công việc, và kỳ vọng rằng các nhà quản lý sẽ hành động vì lợi ích của họ Tuy nhiên, các đại diện không nhất thiết phải đưa ra quyết định vì lợi ích của cổ đông, dẫn đến xung đột lợi ích Vấn đề đại diện xuất hiện do sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát trong doanh nghiệp hiện đại, nơi cổ phiếu thường được phân tán Xung đột lợi ích có thể xảy ra giữa các nhóm cổ đông khác nhau và các thành viên trong hội đồng quản trị.

Cấu trúc lãnh đạo trong Hội đồng quản trị (HĐQT) là một yếu tố quan trọng, thể hiện vai trò của chủ tịch HĐQT và giám đốc điều hành (CEO), đặc biệt khi hai vị trí này được đảm nhiệm bởi những người khác nhau Sự tách biệt giữa vai trò của giám đốc điều hành và chủ tịch HĐQT đã được nêu rõ trong lý thuyết đại diện, nhấn mạnh rằng HĐQT có trách nhiệm giám sát đội ngũ quản lý nhằm bảo vệ lợi ích cổ đông Nghiên cứu cho thấy rằng việc tách biệt hai vai trò này không chỉ làm tăng giá trị doanh nghiệp mà còn giảm thiểu hành vi điều chỉnh lợi nhuận, từ đó nâng cao tính minh bạch và hiệu quả hoạt động của công ty.

Cấu trúc Hội đồng Quản trị (HĐQT) bao gồm cả thành viên điều hành và không điều hành Theo lý thuyết đại diện, khi HĐQT có đa số thành viên không điều hành, công ty sẽ hoạt động hiệu quả hơn.

Lý thuyết đại diện chỉ ra rằng nhà quản lý có thể đưa ra quyết định nhằm tối đa hóa lợi ích cá nhân thay vì lợi ích doanh nghiệp, đặc biệt trong các thị trường vốn và lao động không hoàn hảo Hành vi tư lợi xuất hiện do sự bất cân xứng thông tin, dẫn đến việc nhà quản lý ưu tiên tiêu dùng cá nhân, gây thiệt hại cho cổ đông Để giảm thiểu hành vi này, cổ đông cần liên kết lợi ích của nhà quản lý với lợi ích chung của doanh nghiệp, tránh việc cổ đông phải gánh chịu chi phí đại diện.

Theo Daily et al (2003), trong quản trị doanh nghiệp, có hai yếu tố chính ảnh hưởng đến tỷ lệ lý thuyết đại diện Thứ nhất, lý thuyết này đơn giản hóa bối cảnh công ty bằng cách chỉ xem xét vai trò của cổ đông và giám đốc điều hành Thứ hai, cả nhà quản lý và cổ đông đều được dẫn dắt bởi lợi ích cá nhân, không hoàn toàn đồng nhất Mối quan hệ giữa cổ đông và nhà quản lý được điều chỉnh qua hợp đồng quy định các điều khoản và nghĩa vụ Tuy nhiên, hợp đồng này không thể kiểm soát hoàn toàn hành vi của nhà quản lý, những người nắm giữ nhiều thông tin hơn chủ sở hữu và có khả năng lợi dụng quyền hạn để phục vụ lợi ích cá nhân.

2.2.3 Lý thuyết quản lý (Stewardship theory)

Lý thuyết quản lý, được phát triển bởi Donaldson và Davis (1991), đưa ra quan điểm khác biệt so với lý thuyết đại diện Trong khi lý thuyết đại diện nhấn mạnh việc tách biệt vai trò giữa chủ tịch HĐQT và giám đốc điều hành để bảo vệ lợi ích cổ đông, lý thuyết quản lý lại cho rằng lợi ích của cổ đông sẽ được tối đa hóa khi giám đốc điều hành kiêm nhiệm vị trí chủ tịch HĐQT Sự am hiểu sâu sắc về các vấn đề doanh nghiệp của giám đốc điều hành sẽ gia tăng quyền lực và khả năng ra quyết định, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty.

27 giám đốc điều hành giúp đơn giản hóa và tăng tốc quá trình ra quyết định, giảm chi phí truyền thông tin và tối đa hóa lợi ích doanh nghiệp Họ cũng đưa ra quyết định kế toán hiệu quả nhằm nâng cao tính tin cậy và trách nhiệm giải trình của các báo cáo tài chính.

2.2.4 Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực (Resource dependency theory)

Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực, được phát triển bởi Pfeffer và Salancik vào năm 1978, cung cấp một nền tảng lý thuyết quan trọng về vai trò của Hội đồng Quản trị (HĐQT) trong việc quản lý nguồn lực Các nghiên cứu chỉ ra rằng, các thành viên HĐQT đóng góp vào việc thu hẹp ranh giới giữa tổ chức và môi trường xung quanh, đồng thời cung cấp quyền truy cập vào các tài nguyên cần thiết cho sự phát triển của công ty Việc cung cấp nguồn lực không chỉ nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức mà còn đảm bảo sự sống còn của doanh nghiệp Lý thuyết này nhấn mạnh tầm quan trọng của quyền lực, kiểm soát và sự thương lượng trong việc duy trì dòng chảy ổn định của nguồn lực, từ đó giảm thiểu sự không chắc chắn trong môi trường kinh doanh.

Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực nhấn mạnh vai trò quan trọng của Hội đồng quản trị (HĐQT) và đặc điểm nguồn lực doanh nghiệp trong hiệu quả hoạt động và sự tồn tại của công ty Lý thuyết này cung cấp cơ sở để phân tích các yếu tố liên quan đến quản trị công ty, đặc biệt là tính độc lập và chất lượng giám sát của HĐQT Các công ty có HĐQT độc lập cao và không có sự kiêm nhiệm giữa Chủ tịch HĐQT và CEO sẽ khó có khả năng thông đồng trong các hành vi quản trị lợi nhuận, từ đó nâng cao độ tin cậy của báo cáo tài chính.

Thuyết hành vi trong quản lý của Herbert A.Simon

Tư tưởng quản lý của Simon tập trung vào việc ra quyết định, coi đây là cốt lõi của quản lý Quyết sách quản lý bao gồm việc hoạch định kế hoạch, lựa chọn phương án hành động và thiết lập cơ cấu tổ chức.

Chức năng quản lý bao gồm việc phân định trách nhiệm và quyền hạn, so sánh tình hình thực tế với kế hoạch, lựa chọn phương pháp kiểm tra, và quán xuyến các khía cạnh của kế hoạch Ngoài ra, việc tổ chức và điều khiển cũng cần được thực hiện ở mọi cấp quản lý và trên tất cả các mặt của quá trình quản lý.

Quyết sách được hình thành qua bốn giai đoạn liên kết: thu thập và phân tích thông tin kinh tế - xã hội, thiết kế phương án hành động, lựa chọn phương án khả thi, và thẩm tra, đánh giá phương án đã chọn để hoàn thiện Simon phân loại hoạt động trong tổ chức thành hai loại tương ứng với hai loại quyết sách: hoạt động lặp lại cần quyết sách theo trình tự và hoạt động mới cần quyết sách không theo trình tự Việc nâng cao mức độ trình tự hóa quyết sách là cần thiết để cải thiện hệ thống điều khiển và tăng cường sự phối hợp trong tổ chức.

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 19/07/2021, 22:06

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w