1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đổi mới sáng tạo và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thành phố Hồ Chí Minh

83 10 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đổi Mới Sáng Tạo Và Hiệu Quả Hoạt Động Của Doanh Nghiệp Ngành Công Nghiệp Chế Biến, Chế Tạo Tại Thành Phố Hồ Chí Minh
Tác giả Lê Thị Thúy Dung
Người hướng dẫn TS. Trương Đăng Thụy
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kinh Tế Phát Triển
Thể loại luận văn thạc sĩ kinh tế
Năm xuất bản 2020
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 83
Dung lượng 1,24 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1 PHẦN MỞ ĐẦU (13)
    • 1.1 Đặt vấn đề (13)
    • 1.2 Mục tiêu nghiên cứu (15)
      • 1.2.1 Mục tiêu tổng quát (15)
      • 1.2.2 Mục tiêu cụ thể (15)
    • 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (16)
    • 1.4 Phương pháp nghiên cứu (16)
    • 1.5 Ý nghĩa thực tiễn đề tài (16)
    • 1.6 Cấu trúc luận văn (16)
  • CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT (18)
    • 2.1 Khái niệm về đổi mới sáng tạo (18)
    • 2.2 Ngành kinh tế trọng điểm (20)
    • 2.3 Phân loại về hoạt động đổi mới sáng tạo (20)
    • 2.4 Đo lường hoạt động đổi mới sáng tạo (22)
    • 2.5 Nguyên lý về đổi mới sáng tạo tác động lên hiệu quả doanh nghiệp (25)
    • 2.6 Lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan (27)
      • 2.6.1 Lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm về đổi mới sáng tạo và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp (27)
        • 2.6.2.1 Quy mô doanh nghiệp (30)
        • 2.6.2.2 Loại hình doanh nghiệp (31)
        • 2.6.2.3 Tuổi doanh nghiệp (32)
        • 2.6.2.4 Vị trí tọa lạc tại khu công nghiệp – khu chế xuất (32)
        • 2.6.2.5 Tình trạng ngập lụt (33)
        • 2.6.2.6 Trình độ người lao động (34)
        • 2.6.2.7 Tình trạng vay vốn (35)
  • CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (36)
    • 3.1 Khung phân tích (36)
    • 3.2 Mô hình phân tích (37)
    • 3.3 Các biến phụ thuộc và kiểm soát (40)
    • 3.4 Dữ liệu nghiên cứu (48)
  • CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (0)
    • 4.1 Tổng quan tình hình doanh nghiệp (50)
      • 4.1.1 Tổng quan về tình hình hoạt động của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến chế tạo tại TP.HCM (50)
      • 4.1.2 Tổng quan về tình hình đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp từ dữ liệu điều tra (51)
    • 4.2 Tác động của đổi mới sáng tạo lên hiệu quả hoạt động doanh nghiệp (55)
      • 4.2.1 Đối với toàn ngành công nghiệp chế biến chế tạo (55)
      • 4.2.2 Đối với 4 ngành công nghiệp trọng điểm của thành phố (57)
    • 4.3 Đánh giá tác động đặc điểm doanh nghiệp lên việc triển khai hoạt động DMST 47 (59)
      • 4.3.1 Đối với toàn ngành công nghiệp chế biến chế tạo (59)
      • 4.3.2 Đối với 4 nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo trọng điểm TP.HCM . 48 CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH (60)
  • PHỤ LỤC (6)

Nội dung

Mục tiêu chung của nghiên cứu là đánh giá tác động của hoạt động DMST lên hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và 4 nhóm ngành công nghiệp trọng điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2016.

PHẦN MỞ ĐẦU

Đặt vấn đề

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2018 tăng 7,08% so với năm trước, đây cũng là tốc độ tăng cao nhất trong vòng thập kỷ qua, bình quân giai đoạn 2016 –

Năm 2018, GDP của Việt Nam tăng 6,7% (TCTK, 2018), cho thấy những nỗ lực đạt mục tiêu phát triển của Đảng giai đoạn 2016 – 2020 (Đảng cộng sản Việt Nam, 2016) Sự tăng trưởng này không chỉ phụ thuộc vào vốn và lao động, mà còn chịu ảnh hưởng của TFP, yếu tố quan trọng phản ánh sự phát triển khoa học công nghệ, môi trường đầu tư và trình độ nhân lực TFP bình quân giai đoạn 2016 – 2018 tăng 9,7% so với giai đoạn 2011 - 2015 (TCTK, 2019) Trong bối cảnh công nghệ 4.0, việc phát triển khoa học công nghệ đòi hỏi sự nỗ lực liên tục từ chính quyền để xây dựng cơ chế thúc đẩy sự phát triển trong nước, theo kịp với sự tiến bộ toàn cầu.

Chính phủ và các tỉnh thành đã triển khai nhiều chương trình nhằm thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, coi đây là quốc sách hàng đầu cho sự phát triển kinh tế - xã hội Khu vực doanh nghiệp được chú trọng vì đóng góp hơn 50% tổng giá trị GDP của Việt Nam.

DMST là một cải tiến trong sản xuất, mang lại giá trị gia tăng cho doanh nghiệp Nghiên cứu của Maradana và cộng sự (2017) cho rằng đổi mới công nghệ là yếu tố then chốt cho tăng trưởng kinh tế quốc gia Theo Kannebley và cộng sự (2008), cùng với Crepon và cộng sự (1998), cải tiến công nghệ có tác động tích cực đến kết quả doanh nghiệp Ngoài ra, các hình thức đổi mới khác như tổ chức, sản phẩm và quy trình cũng nâng cao giá trị sản xuất (Artz và cộng sự, 2010; Goedhuys và Veugeler, 2012; Griffith và cộng sự, 2006; Kim, 2018) Kumar và cộng sự (2000) nhấn mạnh rằng doanh nghiệp sẽ đối mặt với rủi ro lớn nếu không đổi mới, bởi sự cạnh tranh từ các đối thủ có thể khiến họ bị bỏ lại phía sau Tại Việt Nam, nghiên cứu về tác động của DMST lên hiệu quả doanh nghiệp còn hạn chế, chủ yếu dựa vào các chỉ tiêu đầu vào như R&D và chi phí đổi mới sản phẩm, mà chưa phản ánh đầy đủ các hình thức đổi mới hiện có.

Phong trào đổi mới sáng tạo (DMST) đang được triển khai trên toàn quốc, với mục tiêu tăng cường số lượng doanh nghiệp tham gia Chính phủ đặt ra tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện đổi mới hàng năm từ 30-35% (Chính phủ, 2016) Do đó, việc đánh giá tác động của hoạt động DMST đối với doanh nghiệp là rất cần thiết, giúp chính quyền nhanh chóng nhận diện hiệu quả thực tế và xây dựng phương án hỗ trợ phù hợp cho khu vực doanh nghiệp.

Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam, với giá trị tăng thêm năm 2018 chiếm 16% GDP cả nước Tốc độ tăng trưởng của ngành đạt 12,98% so với năm trước, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn 2011.

Năm 2018, ngành công nghiệp Việt Nam đã tăng trưởng 10,9%, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ và phù hợp với định hướng công nghiệp hóa của đất nước Ngành này cũng đã tạo ra việc làm cho hơn 7,1 triệu người, chiếm 50% lực lượng lao động trong các doanh nghiệp (TCTK, 2019) Do đó, để hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp, cần triển khai rộng rãi chương trình này trong cộng đồng doanh nghiệp.

Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế hàng đầu của Việt Nam, đóng góp 22% GDP và gần 30% tổng thu ngân sách quốc gia vào năm 2018 Với hơn 203 ngàn doanh nghiệp hoạt động, thành phố chiếm 36% tổng số doanh nghiệp cả nước, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của khu vực này (Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh, 2019) Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố đã đánh giá tích cực về sự tăng trưởng này.

Thành phố Hồ Chí Minh đặt mục tiêu trở thành trung tâm kinh tế của Đông Nam Á, vì vậy đã triển khai các kế hoạch thúc đẩy đổi mới sáng tạo (DMST) và hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Ngành chế biến, chế tạo, với đóng góp 18,5% vào GRDP, được ưu tiên phát triển, đặc biệt là bốn nhóm ngành chính: cơ khí, chế biến lương thực và thực phẩm, hóa chất, nhựa, cao su, và điện tử Những ngành này không chỉ tạo ra giá trị gia tăng cao, mà còn chiếm 9,8% GRDP và 50,7% giá trị gia tăng ngành công nghiệp của thành phố Đề tài “đổi mới sáng tạo và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh” sẽ giúp các nhà quản lý nhận diện tác động của DMST, từ đó xây dựng các chính sách phù hợp cho khu vực này.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chính của nghiên cứu là đánh giá tác động của hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) đối với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và bốn nhóm ngành công nghiệp trọng điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2016.

Hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) có tác động đáng kể đến kết quả sản xuất của doanh nghiệp trong toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh Đặc biệt, bốn nhóm ngành trọng điểm gồm chế biến lương thực, thực phẩm và đồ uống; hóa dược, cao su và plastic; sản xuất hàng điện tử; và ngành cơ khí đều hưởng lợi từ việc áp dụng các giải pháp đổi mới sáng tạo, giúp nâng cao hiệu suất và chất lượng sản phẩm.

 Phân tích các yếu tố là đặc điểm của doanh nghiệp ảnh hưởng đến quyết định triển khai DMST tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu đối tượng là các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo, cùng với 4 ngành công nghiệp trọng điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2016.

Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng dữ liệu gồm 2.317 doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Luận văn áp dụng phương pháp PSM để đánh giá tác động của hoạt động ĐMST lên tỷ suất lợi nhuận, giá trị tăng thêm, giá trị sản xuất và năng suất nhân tố tổng hợp của doanh nghiệp Phương pháp này cho phép lựa chọn các doanh nghiệp có đặc điểm gần giống nhau, từ đó xác định mức độ ảnh hưởng của ĐMST Ngoài ra, thông qua mô hình hồi quy logit, luận văn cũng phân tích các yếu tố tác động đến quyết định ĐMST của doanh nghiệp.

Ý nghĩa thực tiễn đề tài

Đầu tiên, luận văn sẽ hệ thống lại các lý thuyết có liên quan giữa DMST và hiệu quả doanh nghiệp

Bài viết này phân tích tác động của Đổi mới Sáng tạo (DMST) lên các chỉ số hoạt động của doanh nghiệp, giúp nhà quản lý đánh giá tình hình DMST trong cộng đồng doanh nghiệp hiện nay Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định triển khai DMST trong doanh nghiệp Dựa trên các mục tiêu này, bài viết đề xuất những chính sách hỗ trợ phù hợp để thúc đẩy DMST.

Ba là, đề xuất các giải pháp đánh giá hiệu quả của những chương trình hỗ trợ đổi mới sáng tạo đang triển khai tại địa phương Việc này nhằm xác định mức độ thành công và tác động của các chương trình, từ đó có những điều chỉnh phù hợp để nâng cao hiệu quả và đáp ứng nhu cầu thực tế.

Cấu trúc luận văn

Đề tài được cấu trúc thành 5 chương, bắt đầu với Chương 1 - Phần mở đầu, nơi trình bày tổng quan về vấn đề nghiên cứu, mục tiêu, đối tượng và phương pháp nghiên cứu của luận văn.

Chương 2 – Tổng quan lý thuyết, ở chương này nghiên cứu lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước để tổng hợp khái niệm, cách đo lường đầu ra và đầu vào của DMST, nguyên lý tác động DMST lên hiệu quả doanh nghiệp Đồng thời, chỉ ra được một số yếu tố đại diện cho đặc điểm doanh nghiệp quyết định đến việc doanh nghiệp triển khai DMST

Chương 3 – Trình bày về khung phân tích đánh giá tác động của DMST lên hiệu quả doanh nghiệp, phương pháp PSM và dữ liệu sử dụng cho đề tài này

Chương 4 – Trình bày về kết quả nghiên cứu luận văn

Chương 5 – Kết luận, hạn chế và hàm ý chính sách.

TỔNG QUAN LÝ THUYẾT

Khái niệm về đổi mới sáng tạo

Tại Việt Nam, Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 định nghĩa "đổi mới sáng tạo" là quá trình tạo ra và ứng dụng các thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ và quản lý nhằm nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, cũng như cải thiện năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm Việc chuyển ngữ từ "innovation" sang "đổi mới sáng tạo" hay "cải tiến" trong tiếng Việt đều mang ý nghĩa tương đương, thể hiện sự thay đổi tích cực.

Schumpeter là một trong những nhà kinh tế học đầu tiên định nghĩa rõ ràng về hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST), coi đây là một quá trình cách mạng hóa công nghiệp diễn ra liên tục từ bên trong doanh nghiệp Quá trình này không chỉ thay đổi cơ cấu kinh tế mà còn tạo ra giá trị mới Ông nhấn mạnh rằng để tăng cường tính cạnh tranh và năng động, doanh nghiệp cần phải không ngừng đổi mới (Trích từ Śledzik, 2013).

Đổi mới sáng tạo trong kinh tế là quá trình biến ý tưởng và phát minh thành hàng hóa hoặc dịch vụ mà người tiêu dùng sẵn sàng chi trả Để được coi là đổi mới, ý tưởng cần có chi phí kinh tế có thể tái sản xuất và đáp ứng nhu cầu cụ thể của cá nhân Quá trình này liên quan đến việc ứng dụng thông tin và sáng kiến nhằm tạo ra giá trị cao hơn hoặc khác biệt từ nguồn lực hiện có, bao gồm tất cả các bước từ việc tạo ra ý tưởng mới cho đến chuyển đổi chúng thành sản phẩm hữu ích.

Theo cẩm nang Olso (2018) của OECD, đổi mới chính là cải thiện tiêu chuẩn sống ảnh hưởng đến cá nhân, thể chế, ngành kinh tế và quốc gia Đổi mới sáng tạo (DMST) không chỉ là sự thay đổi về sản phẩm hay quy trình mà còn tạo ra giá trị mới cho người tiêu dùng Khái niệm này tương tự với định nghĩa của hội đồng kinh tế Australia, trong đó hoạt động cải tiến phải mang lại giá trị gia tăng cho doanh nghiệp và khách hàng của họ (Feeny và Roger, 2003).

DMST, theo định nghĩa của Therrien và cộng sự (2011), là một quá trình phức tạp liên quan đến các hoạt động thay đổi trong doanh nghiệp, bao gồm sản phẩm, quy trình sản xuất, quản lý và chức năng hoạt động Các ý tưởng về DMST được triển khai dựa vào năng lực đổi mới của doanh nghiệp Evangelista R và Baregheh (2009) cho rằng hoạt động này bao gồm nhiều giai đoạn, trong đó các đơn vị chuyển đổi ý tưởng thành sản phẩm, quy trình và dịch vụ cải tiến Việc hiện thực hóa ý tưởng cải tiến tạo ra sự khác biệt giữa các đơn vị thực hiện DMST và những đơn vị không thực hiện, từ đó tăng cường tính cạnh tranh và dẫn đến thành công, lợi nhuận cho doanh nghiệp.

Theo Afuah (2003), đổi mới sáng tạo (DMST) bao gồm phát minh và thương mại hóa, tức là áp dụng kiến thức để tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu khách hàng Fagerberg (2004) phân biệt sáng chế và DMST, trong đó sáng chế là những ý tưởng hoặc quy trình mới chưa từng có, trong khi DMST là quá trình thương mại hóa những ý tưởng này Sự khác biệt giữa hai khái niệm này thường thể hiện qua thời gian cần thiết để chuyển đổi ý tưởng thành hiện thực Để chuyển đổi phát minh thành DMST, cần kết hợp kiến thức, kỹ năng và nguồn lực của doanh nghiệp Thực tế cho thấy, hoạt động đổi mới thường đi kèm với những thay đổi trong đời sống, và những đổi mới sau lần phát minh đầu tiên thường mang lại lợi ích kinh tế lớn hơn.

Đổi mới sáng tạo (DMST) là quá trình mà doanh nghiệp thực hiện các thay đổi nhằm đạt được kết quả tích cực so với trước khi triển khai DMST không chỉ dừng lại ở ý tưởng hay sáng chế mà còn cần phải được hiện thực hóa, đảm bảo phù hợp với thị trường và đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng Hoạt động DMST bao gồm nhiều hình thức khác nhau, có thể diễn ra trong hoặc ngoài lĩnh vực công nghệ.

Ngành kinh tế trọng điểm

Theo lý thuyết tăng trưởng không cân đối của Hirchman (1958), các quốc gia đang phát triển cần đầu tư vào những ngành trọng điểm để tạo ra sự lan tỏa số nhân trong nền kinh tế Để xác định ngành kinh tế trọng điểm tại Việt Nam, có bốn tiêu chí quan trọng: đầu tiên là độ lan tỏa kinh tế, thể hiện mối liên kết ngược từ các ngành còn lại; thứ hai là độ nhạy, phản ánh vai trò của ngành trong việc cung cấp nguyên liệu cho các ngành khác; thứ ba là độ phụ thuộc về nhập khẩu, xác định mức độ phụ thuộc vào nguồn hàng nhập khẩu; và cuối cùng là độ lan tỏa về môi trường, nhằm hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường trong quá trình phát triển kinh tế.

Phân loại về hoạt động đổi mới sáng tạo

Theo Schumpeter, đổi mới sáng tạo (DMST) bao gồm năm dạng chính Đầu tiên là giới thiệu hàng hóa mới mà người tiêu dùng chưa quen thuộc hoặc cải tiến chất lượng sản phẩm hiện có Thứ hai, doanh nghiệp thực hiện đổi mới thông qua quy trình sản xuất mới mà họ chưa từng áp dụng Dạng thứ ba là doanh nghiệp gia nhập hoặc chuyển sang thị trường tiêu thụ mới Thứ tư, việc thu nhận và phát triển nguồn cung cấp mới về nguyên liệu hoặc đầu vào, bất kể nguồn đó đã tồn tại hay được doanh nghiệp phát hiện Cuối cùng, doanh nghiệp thực hiện tổ chức mới trong bất kỳ ngành nghề nào nhằm tạo ra vị thế độc quyền hoặc phá vỡ vị thế độc quyền hiện có trên thị trường (Trích từ Alin, 2008).

Theo Schumper, đổi mới sáng tạo được phân loại thành hai dạng chính: đổi mới liên tục (incremental innovation) và đổi mới sáng tạo mang tính căn bản (radical innovation) Đổi mới liên tục tập trung vào việc cải thiện sản phẩm hiện tại, bổ sung ít nhất một tính năng mới để nâng cao khả năng cạnh tranh Trong khi đó, đổi mới mang tính căn bản liên quan đến việc tạo ra sản phẩm, dịch vụ mới hoặc thay đổi cấu trúc sản phẩm một cách đột phá, bao gồm đổi mới sản phẩm, quy trình sản xuất, hoặc kết hợp cả hai hình thức.

Cẩm nang Oslo (2018) đã được tái bản lần thứ 4 với mục tiêu thiết lập tiêu chuẩn cho khảo sát và nghiên cứu đổi mới sáng tạo Phiên bản trước đây của DMST đề cập đến 4 dạng đổi mới, bao gồm sản phẩm, quy trình, tổ chức và tiếp thị Tuy nhiên, trong lần xuất bản này, nội dung được rút gọn chỉ còn hai dạng chính là sản phẩm và quy trình kinh doanh, nhằm thuận lợi cho việc xây dựng tiêu chuẩn đo lường Đổi mới sáng tạo sản phẩm được định nghĩa là việc tạo ra một phiên bản hoàn toàn mới hoặc cải tiến của hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ so với phiên bản trước và được giới thiệu ra thị trường.

Đổi mới quy trình kinh doanh liên quan đến việc thay đổi phương pháp sản xuất và phân phối, từ thiết kế đến thị trường Đổi mới sáng tạo trong tổ chức áp dụng những cách thức làm việc mới nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí quản lý và sản xuất Tương tự, đổi mới sáng tạo trong tiếp thị bao gồm việc áp dụng các phương pháp tiếp thị mới, cải tiến thiết kế, đóng gói sản phẩm, và chính sách giá cả, nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu người tiêu dùng và tăng doanh số bán hàng.

Theo Abernathy và Clark (1985), đổi mới sáng tạo bao gồm bốn dạng chính Đầu tiên, đổi mới kiến trúc (architectural innovation) liên quan đến việc thiết kế lại quy trình quản lý và sản xuất, tạo ra một kiến trúc mới cho doanh nghiệp Thứ hai, đổi mới thích hợp trong từng giai đoạn thị trường (niche business) là việc khai thác công nghệ hiện có để tạo ra thị trường mới Tiếp theo, đổi mới thường xuyên (regular innovation) bao gồm những thay đổi liên tục, mang lại lợi ích về chi phí và hiệu suất sản phẩm Cuối cùng, đổi mới cách mạng (revolutionary innovation) tạo ra những công nghệ và sản phẩm đột phá, có khả năng làm thay đổi toàn bộ ngành công nghiệp hoặc hình thành ngành mới trên thị trường.

Đo lường hoạt động đổi mới sáng tạo

2.4.1 Đo lường đầu vào của đổi mới sáng tạo

Hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) có nhiều hình thức đa dạng và phức tạp, với tám loại hoạt động chính được Cẩm nang Olso (2018) xác định, bao gồm nghiên cứu và phát triển (R&D), kỹ thuật và thiết kế sáng tạo, tiếp thị, sở hữu trí tuệ, đào tạo lao động, phần mềm và cơ sở dữ liệu, mua và thuê tài sản hữu hình, và đổi mới quản lý Mặc dù những hoạt động này có thể không luôn hướng tới mục tiêu DMST rõ ràng, nhưng chúng vẫn là căn cứ hữu ích để xây dựng khung đo lường đầu vào cho DMST.

R&D là các hoạt động sáng tạo và hệ thống nhằm nâng cao kiến thức cho doanh nghiệp, bao gồm nghiên cứu cơ bản, ứng dụng và thực nghiệm, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra kiến thức nội bộ để đổi mới sản phẩm Đánh giá R&D thường dựa vào hai yếu tố chính: các loại R&D đã thực hiện và chi tiêu cho hoạt động này, trong đó chi tiêu là chỉ tiêu phổ biến nhất để đo lường sự đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Tuy nhiên, kết quả từ R&D không phải lúc nào cũng được ứng dụng thực tế, dẫn đến sự khác biệt với hoạt động đổi mới sáng tạo cần thiết phải triển khai Ngoài ra, R&D thường tập trung ở các doanh nghiệp lớn, khiến cho chỉ tiêu này trở thành yếu tố đầu vào phù hợp hơn với họ Kỹ thuật và thiết kế sáng tạo liên quan chặt chẽ đến R&D, với kỹ thuật bao gồm lập kế hoạch, kiểm tra và lắp đặt thiết bị, trong khi thiết kế sáng tạo phát triển chức năng mới hoặc cải tiến hình thức sản phẩm Hầu hết các hoạt động này đều thể hiện sự đổi mới sáng tạo, ngoại trừ những thiết kế nhỏ không mang lại giá trị khác biệt rõ ràng.

Sở hữu trí tuệ liên quan đến việc bảo vệ và khai thác kiến thức từ hoạt động R&D và sáng tạo, bao gồm việc đăng ký pháp lý cho ý tưởng và phát minh Các loại sở hữu trí tuệ bao gồm bằng sáng chế, thương hiệu, bản quyền và kiểu dáng công nghiệp Bằng sáng chế giúp các nhà phát minh thu hồi chi phí đầu tư và khuyến khích phát triển sản phẩm mới Tuy nhiên, không phải tất cả sáng kiến đều được cấp bằng sáng chế, do yêu cầu tiết lộ thông tin đầy đủ Nhiều doanh nghiệp chọn không đăng ký bằng sáng chế để bảo vệ bí mật công nghệ, điều này dẫn đến dữ liệu không phản ánh đầy đủ hoạt động đổi mới sáng tạo của họ.

Các chỉ số đo lường đầu vào như R&D, sở hữu trí tuệ và bằng sáng chế có nhược điểm, vì vậy các chỉ số về chi phí đào tạo, tiếp thị và đầu tư phần mềm, cơ sở dữ liệu có thể khắc phục hạn chế và thể hiện nỗ lực của doanh nghiệp trong quá trình đổi mới sáng tạo (DMST) Chi phí đào tạo là khoản kinh phí doanh nghiệp chi trả để nhân viên cập nhật kiến thức và kỹ năng cần thiết cho quy trình vận hành Đào tạo là yếu tố quan trọng để tiến hành DMST Tiếp thị bao gồm các hoạt động nghiên cứu thị trường, định giá và quảng bá sản phẩm, giúp doanh nghiệp xác định thị trường và hỗ trợ quá trình đổi mới sản phẩm Bên cạnh đó, chi phí đổi mới về quản lý, thay đổi tổ chức và việc đầu tư vào tài sản hữu hình cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra giá trị khác biệt cho sản phẩm và quy trình kinh doanh.

2.4.2 Đầu ra của đổi mới sáng tạo Đầu ra của DMST phụ thuộc vào giai đoạn lập kế hoạch và xác định mục tiêu để doanh nghiệp tiến hành đổi mới Các mục tiêu của doanh nghiệp khi tiến hành DMST thường liên quan đến kinh tế là việc tăng doanh số, tạo ra lợi nhuận, tiết kiệm chi phí hay cải thiện năng suất; hay mục tiêu khác như mức độ ảnh hưởng đến nền kinh tế, xã hội, môi trường, hay việc doanh nghiệp thay đổi thị trường, đối tượng khách hàng (OECD, 2018)

Nghiên cứu của Roger (1998) đã đề xuất thước đo đầu ra DMST với nhiều chỉ tiêu như hiệu quả hoạt động, sản xuất, tài chính, lợi nhuận, tăng trưởng doanh thu thuần, hiệu suất cổ phần, thị trường vốn và năng suất Tuy nhiên, các chỉ số kinh tế này có khuyết điểm vì giá trị của chúng có thể không phản ánh chính xác hoạt động DMST Bosworth và Kells (1998) chỉ ra rằng biến lợi nhuận có thể bị thiên lệch do quy mô, dẫn đến việc các doanh nghiệp kém hiệu quả vẫn có thể báo cáo lợi nhuận dương Do đó, một giải pháp khả thi là thể hiện lợi nhuận dưới dạng tỷ lệ, so sánh với các giá trị quy mô như tổng tài sản, tài sản ròng hoặc doanh thu của doanh nghiệp.

Đầu ra của đổi mới sáng tạo (DMST) có thể được đo lường thông qua số lượng sản phẩm mới hoặc cải tiến mà doanh nghiệp giới thiệu, tuy nhiên, việc phân loại này mang tính chủ quan và không phản ánh đầy đủ giá trị của đổi mới Do đó, một cách hiệu quả hơn để đo lường là tỷ lệ phần trăm doanh thu từ sản phẩm mới và cải tiến Bên cạnh đó, đầu ra DMST cũng có thể được đánh giá thông qua thống kê về sở hữu trí tuệ, như số lượng bằng sáng chế, nhãn hiệu thương mại và thiết kế, vì việc đăng ký quyền sở hữu trí tuệ thể hiện rằng doanh nghiệp đã tạo ra kiến thức mới có giá trị (Roger, 1998; OECD, 2018).

Nguyên lý về đổi mới sáng tạo tác động lên hiệu quả doanh nghiệp

Trong mô hình truyền thống về hành vi doanh nghiệp, đổi mới sáng tạo (DMST) có thể tạm thời nâng cao khả năng cạnh tranh và kết quả kinh doanh Việc giới thiệu sản phẩm đổi mới tạo ra sức mạnh độc quyền tạm thời, giúp doanh nghiệp tăng thị phần cho đến khi các yếu tố như vốn kiến thức và nghiên cứu phát triển (R&D) bị khuếch tán và bắt chước Theo Schumpeter, việc giới thiệu hàng hóa và quy trình mới sẽ dẫn đến sự phá hủy cấu trúc kinh tế hiện tại và thay thế bằng những cái mới hiệu quả hơn Doanh nghiệp cần sở hữu năng lực công nghệ và tích lũy kiến thức để có thể thích ứng với thay đổi thị trường, từ đó đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững.

Geroski và Machin (1992) đưa ra hai quan điểm về ảnh hưởng của DMST lên doanh nghiệp Quan điểm đầu tiên cho rằng doanh nghiệp có DMST sẽ đạt tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với những đơn vị không áp dụng Tuy nhiên, để duy trì ưu thế độc quyền, doanh nghiệp cần liên tục đổi mới Quan điểm thứ hai nhấn mạnh rằng quá trình thực hiện DMST có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Đổi mới sáng tạo (DMST) là quá trình tổ chức nghiên cứu và tích hợp vào hoạt động doanh nghiệp, giúp chuyển giao các đột phá khoa học thành hàng hóa và dịch vụ mới Quá trình R&D không chỉ xây dựng và cải thiện năng lực nội bộ mà còn làm cho doanh nghiệp linh hoạt hơn, dễ dàng thích nghi với biến động thị trường Sự chuyển đổi này tạo ra sự khác biệt rõ rệt giữa doanh nghiệp có và không có DMST, góp phần vào khả năng đạt lợi nhuận cao và tăng trưởng nhanh Theo mô hình tăng trưởng nội sinh, sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc vào mức độ công nghệ và đổi mới, với DMST trong khoa học và công nghệ là chìa khóa để vượt qua giới hạn tăng trưởng.

Mô hình tiến hóa của doanh nghiệp cho thấy rằng hành vi của các doanh nghiệp được hình thành từ việc tích lũy kiến thức qua học hỏi và thói quen Để duy trì lợi thế cạnh tranh, doanh nghiệp cần tránh phụ thuộc vào những thói quen và kiến thức cũ Đổi mới là yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp phát triển và thúc đẩy hoạt động kinh tế liên tục Hơn nữa, đổi mới sáng tạo (DMST) cũng đảm bảo sự tồn tại bền vững của doanh nghiệp trong thị trường cạnh tranh.

Griliches (1979) đã chỉ ra rằng sự đóng góp của hoạt động nghiên cứu và đầu tư vào tăng trưởng TFP không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực R&D mà còn vào mức độ vốn kiến thức mà doanh nghiệp sở hữu Đầu vào DMST có ảnh hưởng trực tiếp đến tiến bộ công nghệ của doanh nghiệp, từ đó tác động đến TFP (Ngô Hoàng Thảo Trang, 2017; Griliches, 1979).

Hình 2 1: Cơ chế tác động của R&D đến TFP doanh nghiệp

Nguồn: tổng hợp từ các nghiên cứu trước Đầu vào đổi mới

Tiến bộ công nghệ TFP doanh nghiệp

Lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan

2.6.1 Lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm về đổi mới sáng tạo và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp

Mô hình CDM, được phát triển từ nghiên cứu của Crepon – Duget – Mairesse (1998), là một công cụ quan trọng để đánh giá tác động của các hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) lên tăng trưởng năng suất Mô hình này cung cấp cái nhìn toàn diện về quá trình đổi mới, bao gồm quyết định đầu tư của doanh nghiệp, chi phí liên quan, đầu ra của DMST và hiệu quả kinh tế CDM thường được chia thành bốn giai đoạn: giai đoạn đầu tiên xác định quy mô đầu tư cho đổi mới, giai đoạn thứ hai đánh giá cường độ đổi mới, giai đoạn ba tập trung vào đầu ra của đổi mới sáng tạo, và cuối cùng là nghiên cứu mối quan hệ giữa đầu ra DMST và hiệu quả đơn vị.

Nhiều nghiên cứu thực nghiệm sử dụng phương pháp CDM đã chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa R&D, kiến thức mới và đổi mới sáng tạo (DMST) với kết quả kinh tế Theo Goedhuys và Veugeler (2012), đổi mới là yếu tố quan trọng cho tăng trưởng doanh số bán hàng tại Brazil, đặc biệt khi kết hợp DMST ở cả sản phẩm và quy trình Griffith và cộng sự (2006) chỉ ra rằng việc tạo ra sản phẩm mới có ảnh hưởng lớn đến năng suất doanh nghiệp ở Pháp, Đức và Anh, mặc dù tại Đức, mối liên hệ này có chiều hướng ngược lại Nghiên cứu của Duguet (2006) cho thấy chỉ đổi mới căn bản có tác động tích cực đến tăng trưởng TFP ở Pháp, trong khi các yếu tố quyết định DMST khác nhau giữa đổi mới căn bản và đổi mới gia tăng Nghiên cứu của Chudnovsky và cộng sự (2006) tại Argentina khẳng định rằng các doanh nghiệp thực hiện đổi mới có năng suất cao hơn Quy mô doanh nghiệp cũng là yếu tố ảnh hưởng đến khả năng triển khai hoạt động đổi mới Do đó, cần xây dựng chính sách thúc đẩy R&D và chuyển giao công nghệ, đồng thời loại bỏ rào cản cho doanh nghiệp vừa và nhỏ để nâng cao năng lực cạnh tranh.

Nghiên cứu đã áp dụng kỹ thuật ghép đôi (PSM) để ước lượng hiệu quả trung bình của quyết định đổi mới sáng tạo (DMST) Phương pháp PSM không yêu cầu các thông số kỹ thuật đặc biệt, mà dựa vào tập hợp đặc điểm của các đơn vị không bị ảnh hưởng bởi đổi mới Tác động của DMST lên kết quả doanh nghiệp được ước lượng thông qua việc so sánh trọng số trung bình giữa nhóm đổi mới và không đổi mới, với trọng số được xác định dựa trên việc bắt cặp các điểm số xu hướng đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Phương pháp này phù hợp với mô hình nhân quả, yêu cầu ít thông tin dữ liệu hơn so với mô hình cấu trúc, và thích hợp với dữ liệu có sẵn trong luận văn.

Kannebley và cộng sự (2010) đã áp dụng kỹ thuật PSM để đánh giá tác động của đổi mới quy trình và sản phẩm lên kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong ngành sản xuất tại Brazil, cho thấy đổi mới có ảnh hưởng tích cực đến hiệu suất, bao gồm tăng trưởng lao động, doanh thu thuần và năng suất trong hai năm sau đổi mới Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đổi mới quy trình mang lại hiệu quả cao hơn so với đổi mới sản phẩm, và khuyến nghị các doanh nghiệp nên kết hợp các hình thức đổi mới để nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững Tương tự, Cozza và cộng sự (2012) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa đổi mới sáng tạo (DMST) và lợi nhuận, tăng trưởng của doanh nghiệp trong ngành công nghiệp sử dụng công nghệ trung bình và cao tại Italia, sử dụng mô hình logit để kết luận rằng quy mô doanh nghiệp, cường độ xuất khẩu, trình độ lao động và tỷ lệ tài sản cố định đều có tác động tích cực đến khả năng đổi mới của doanh nghiệp Kết quả cho thấy, các doanh nghiệp có công nghệ trung bình và cao đạt được hiệu quả cao hơn so với những doanh nghiệp không thực hiện đổi mới.

Nghiên cứu năm 2008 tại Chile đã sử dụng các kỹ thuật tham số và bán tham số như hồi quy phân vị, PSM với ước lượng cận gần nhất (NNM) và phân tích Quantile Treatment Effects (QTE) để đánh giá mối liên hệ giữa đổi mới quy trình (DMST) và tốc độ tăng doanh số bán hàng Tác giả cũng chỉ ra một số hạn chế trong việc đo lường đổi mới quy trình và khả năng nội sinh tiềm ẩn, đồng thời đề xuất cho các nghiên cứu tiếp theo cần tập trung vào hành vi kiên trì đổi mới và sự kết hợp giữa các hình thức đổi mới để nâng cao hiệu quả hoạt động.

Tại Việt Nam, tác động của đổi mới sáng tạo (DMST) trong doanh nghiệp đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu Nhiều tác giả đã tập trung vào lý thuyết DMST và các nghiên cứu thực nghiệm để chỉ ra ảnh hưởng của nó đến kết quả hoạt động doanh nghiệp Nghiên cứu của Phùng Xuân Nhạ và Lê Quân (2013) đã phân tích thực trạng DMST tại các doanh nghiệp Việt Nam, bao gồm nhận thức và khả năng đổi mới Nguyễn Mạnh Quân và Nguyễn Hồng Việt (2005) đã trình bày lý thuyết đổi mới và ứng dụng nó trong đánh giá công nghệ ở Việt Nam Một số nghiên cứu định lượng, như của Ngô Hoàng Thảo Trang (2017) và Phạm và Hồ (2017), đã chỉ ra rằng DMST có tác động tích cực đến năng suất doanh nghiệp, tuy nhiên, mức độ tác động phụ thuộc vào từng dạng đổi mới Đặc biệt, nghiên cứu của Ngô Hoàng Thảo Trang cho thấy không có mối liên hệ giữa DMST chung và năng suất, mà chỉ có đổi mới quy trình mới ảnh hưởng đến năng suất Ngoài ra, DMST tại các thành phố lớn như TP.HCM và Hà Nội có thể làm giảm năng suất so với các tỉnh khác do chi phí cao hơn Cuối cùng, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng quy mô doanh nghiệp nhỏ và vừa không có sự khác biệt về tác động của đổi mới lên năng suất, và DMST trong các lĩnh vực cao không tác động đến năng suất.

Luận văn này sử dụng dữ liệu từ Điều tra trình độ công nghệ và Tổng điều tra kinh tế năm 2017 của Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh để đánh giá ảnh hưởng của đổi mới sáng tạo (DMST) lên hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Nghiên cứu áp dụng phương pháp Propensity Score Matching (PSM) nhằm phân tích mối liên hệ giữa DMST và hiệu quả doanh nghiệp tại Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm kiến thức về chủ đề này.

2.6.2 Lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm về mối liên hệ giữa đặc điểm doanh nghiệp ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới sáng tạo

Theo Schumpeter (1942), chỉ những doanh nghiệp quy mô lớn mới có khả năng đầu tư cho R&D, dẫn đến nhiều thay đổi công nghệ hơn so với doanh nghiệp nhỏ Các doanh nghiệp lớn thường chi tiêu nhiều hơn cho R&D để kích thích đổi mới và tối ưu hóa lợi nhuận Ngược lại, doanh nghiệp nhỏ thường không thực hiện nhiều hoạt động đổi mới (Trích trong Hany, 2015).

Nghiên cứu của Bhattacharya và Bloch (2004) cho thấy rằng hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Australia có xu hướng giảm theo quy mô doanh nghiệp, dựa trên mô hình hồi quy probit và tobit Tương tự, nghiên cứu của Mancusi và cộng sự (2011) sử dụng mô hình hồi quy Logit để chỉ ra rằng quy mô doanh nghiệp có mối quan hệ tích cực với khả năng đổi mới sản phẩm Thêm vào đó, Kleinkecht (1989) chỉ ra rằng các doanh nghiệp nhỏ phải đối mặt với nhiều rào cản hơn so với doanh nghiệp lớn, bao gồm hạn chế về vốn, khả năng dự đoán cung cầu thị trường, chi phí đầu tư đổi mới, và khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin về công nghệ và nhân lực chất lượng.

Nghiên cứu của Sherfer và Frenkel (2005) cho thấy rằng không có mối liên hệ đồng biến giữa quy mô doanh nghiệp và tỷ lệ đầu tư vào R&D Thông qua phân tích Anova và kiểm định T-test trên dữ liệu phỏng vấn 209 doanh nghiệp ở Bắc Israel, họ phát hiện rằng các doanh nghiệp nhỏ có xu hướng đầu tư vào R&D nhiều hơn so với các doanh nghiệp lớn Nghiên cứu này cũng phân tích ảnh hưởng của các đặc điểm doanh nghiệp như ngành nghề, loại hình sở hữu và vị trí đến hoạt động R&D.

Nghiên cứu của Falk (2008) cho thấy rằng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại 12 quốc gia Châu Âu có mức độ đổi mới cao hơn so với doanh nghiệp trong nước Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các doanh nghiệp này thường thuộc nhóm quy mô lớn nhất trong dữ liệu, điều này góp phần tạo ra sự khác biệt giữa các loại hình doanh nghiệp Tương tự, nghiên cứu thực nghiệm của Baldwin và cộng sự cũng đánh giá tác động của sở hữu nước ngoài đến đổi mới sáng tạo tại Canada.

Các nghiên cứu chỉ ra rằng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đổi mới quy trình với tỷ lệ cao hơn 50% so với doanh nghiệp trong nước Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể trong hoạt động đổi mới sản phẩm giữa hai khu vực này.

Kroll và Kou (2018) đã nghiên cứu mối liên hệ giữa doanh nghiệp nhà nước và hiệu suất đổi mới sáng tạo (DMST) trong ngành sản xuất tại Trung Quốc trong giai đoạn 2004 Nghiên cứu này chỉ ra rằng doanh nghiệp sở hữu vốn nhà nước có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng đổi mới của ngành sản xuất, từ đó góp phần vào sự phát triển kinh tế của quốc gia.

Nghiên cứu năm 2014 đã chỉ ra rằng việc kiểm soát của nhà nước đối với các doanh nghiệp sử dụng bằng sáng chế có tác động tiêu cực đến khả năng đổi mới Điều này đặc biệt rõ ràng ở các vùng kế hoạch hóa tại khu vực Đông Bắc và Trung của Trung Quốc, nơi mà quyền sở hữu nhà nước vẫn còn chiếm ưu thế.

Tuổi doanh nghiệp được xác định từ thời điểm thành lập và phản ánh thời gian tồn tại và hoạt động của đơn vị Các doanh nghiệp lâu năm thường sở hữu một kho tàng kiến thức phong phú hơn so với những doanh nghiệp trẻ Tuy nhiên, doanh nghiệp trẻ lại có lợi thế về sự nhanh nhạy trong đổi mới, ít bị ảnh hưởng bởi các tổ chức trì trệ và chi phí chìm (OECD, 2018).

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Khung phân tích

Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của đổi mới sáng tạo (DMST) lên hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong ngành chế biến, chế tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh Bài viết xây dựng khung phân tích dựa trên đặc điểm của doanh nghiệp để khảo sát mối quan hệ giữa DMST và các chỉ tiêu như năng suất nhân tố tổng hợp, giá trị gia tăng, giá trị sản xuất và tỷ suất lợi nhuận, sử dụng kỹ thuật so sánh điểm xu hướng PSM.

Hình 3 1: Mô hình phân tích tác động DMST lên kết quả hoạt động doanh nghiệp bằng kỹ thuật PSM

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ lược khảo lý thuyết

Giá trị sản xuất gia tăng

Mô hình phân tích

Mô hình phân tích đánh giá tác động của hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) lên hiệu quả doanh nghiệp được xây dựng dựa trên cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước đó.

Mô hình nghiên cứu được biểu diễn bởi phương trình Yi = Y0i = βo + γ + ∑kβkXi + ui, trong đó Yi là hiệu quả của doanh nghiệp i, bao gồm các chỉ số như năng suất nhân tố tổng hợp, tỷ suất lợi nhuận, giá trị gia tăng và giá trị sản xuất Biến Di mô tả việc doanh nghiệp i có thực hiện hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) hay không, với giá trị 1 cho việc có triển khai và 0 cho việc không triển khai Tập hợp Xi đại diện cho các đặc điểm của doanh nghiệp.

Phương pháp kết nối điểm xu hướng PSM

Nghiên cứu này sử dụng phương pháp kết nối điểm xu hướng PSM để đánh giá tác động của hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) lên hiệu quả doanh nghiệp, dựa trên các nghiên cứu trước đây (Santi và cộng sự, 2016; Kannebly và cộng sự, 2010; Cozza và cộng sự, 2012; Kim, 2018) Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích ảnh hưởng của sự đổi mới sáng tạo đối với các chỉ số như TFP, giá trị gia tăng, giá trị sản xuất và tỷ suất lợi nhuận.

PSM bao gồm hai giai đoạn chính: đầu tiên, xây dựng mô hình logit để tính xác suất doanh nghiệp triển khai đổi mới sáng tạo (DMST), đảm bảo tính cân bằng của điểm số xu hướng Các giá trị từ ước tính logit sẽ được sử dụng để ghép các nhà đổi mới với những doanh nghiệp không đổi mới Tiếp theo, cần tính toán hiệu quả can thiệp trung bình của hoạt động DMST đối với tăng trưởng doanh nghiệp Tất cả các biến liên quan đến xác suất DMST phải được quan sát và đưa vào biến X Để đạt được kết quả chính xác, cần đảm bảo đầy đủ đặc điểm của các đơn vị doanh nghiệp trong mô hình mà không bị ảnh hưởng bởi việc triển khai DMST.

Bước 1: Xác định điểm xu hướng (Propensity score)

Dựa trên dữ liệu điều tra doanh nghiệp, nghiên cứu đã thực hiện hồi quy logit để xác định điểm xu hướng và tính xác suất triển khai các hoạt động đổi mới sáng tạo.

X là đặc điểm của doanh nghiệp, không bị ảnh hưởng bởi hoạt động đổi mới sáng tạo Xác suất P(X) thể hiện khả năng triển khai hoạt động đổi mới sáng tạo, chủ yếu phụ thuộc vào những đặc điểm riêng của doanh nghiệp.

Những giả định cần thiết để xác định hiệu quả của hoạt động triển khai DMST (Khandker và cộng sự, 2010), bao gồm:

- Giả định tính độc lập có điều kiện = (Yoi, Y1i) ┴ Di│X (5)

- Giả định vùng hỗ trợ chung = 0 < Pr (Di =1│X < 1) (6)

Phương trình (5) giả định rằng X không bị ảnh hưởng bởi việc triển khai, trong khi một số yếu tố ảnh hưởng đến triển khai có thể được kiểm soát bởi các biến đặc điểm mà không tác động đến hiệu quả của đơn vị Nếu các đặc tính không quan sát quyết định tình trạng đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp, tính độc lập sẽ không còn chính xác và phương pháp PSM sẽ không phù hợp.

Phương trình (6) đề cập đến giả định về hỗ trợ chung, yêu cầu phân phối xác suất của nhóm điều trị và nhóm đối chứng phải có cùng vùng hỗ trợ Trong phương pháp PSM, các quan sát can thiệp cần được chọn lọc gần gũi với nhau Hiệu quả của PSM phụ thuộc vào việc nhóm đổi mới sáng tạo có đủ số lượng quan sát lớn và tương đương với nhóm còn lại để xác định vùng hỗ trợ chung Những quan sát có điểm xu hướng khác biệt lớn hoặc không nằm trong vùng hỗ trợ chung sẽ bị loại bỏ Tuy nhiên, việc loại bỏ những quan sát này có thể tạo ra sự khác biệt giữa hai nhóm, ảnh hưởng đến mức độ can thiệp và dẫn đến sai số trong quá trình phân tích dữ liệu.

Điểm xu hướng cần đáp ứng hai giả định và có nhiều biến số đo lường các đặc điểm để có thể tính toán hiệu quả doanh nghiệp chịu ảnh hưởng từ DMST.

Bước 2 trong phân tích hiệu quả doanh nghiệp là tìm sự khác biệt giữa các nhóm tham gia và không tham gia, nhưng có cùng điểm xu hướng Phương trình (7) thể hiện ATT, cho thấy ảnh hưởng của hiệu quả kinh tế thông qua kỹ thuật ước lượng này.

Công thức E { E { (Y1i│Di =1, P(X) } - E {Yoi│Di =0, P(X) │Di =1) }} (7) thể hiện tác động trung bình của việc triển khai hoạt động đổi mới sáng tạo (ATT) Trong đó, Y1i và Y0i đại diện cho tình huống phản thực hiệu quả doanh nghiệp ở nhóm tham gia và không tham gia, còn P(X) │Di =1 là điểm xu hướng của các doanh nghiệp áp dụng đổi mới sáng tạo với các đặc điểm Xi.

So sánh các kỹ thuật đối chiếu:

So sánh cận gần nhất (Nearest Neighbour Matching) là công cụ ước lượng đơn giản nhất, giúp so sánh các khớp lân cận gần nhất Trong phương pháp này, các doanh nghiệp thuộc nhóm đối chứng sẽ được ghép cặp với một doanh nghiệp trong nhóm triển khai đổi mới sáng tạo, dựa trên điểm xu hướng gần nhất.

Kỹ thuật so sánh trong phạm vi hay bán kính (Caliper and Radius Matching) giúp khắc phục nhược điểm của phương pháp so sánh cận gần nhất, đặc biệt khi các điểm xu hướng cách xa nhau Phương pháp này thực hiện bằng cách đặt ra điều kiện hỗ trợ, cho phép doanh nghiệp từ nhóm so sánh được bắt cặp với doanh nghiệp trong nhóm có can thiệp nằm trong một phạm vi nhất định và có điểm xu hướng gần nhất Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp có triển khai đổi mới sáng tạo bị loại trừ cao, điều này có thể dẫn đến sai số trong việc chọn mẫu.

Phương pháp so sánh phân tầng (Stratification and Interval Matching) chia sẻ điểm xu hướng thành các khoảng tầng, nhằm tính toán tác động trong từng khoảng Cách tiếp cận này thực hiện bằng cách so sánh sự khác biệt trung bình về kết quả giữa nhóm được can thiệp và nhóm đối chứng.

So sánh Kernel (Kernel and Local Linear Matching) cho phép các doanh nghiệp trong nhóm triển khai đổi mới sáng tạo được đối chiếu với trọng số trung bình của nhóm kiểm soát Trọng số này được xác định dựa trên tỷ lệ khoảng cách điểm xu hướng giữa nhóm triển khai và nhóm kiểm soát.

Các biến phụ thuộc và kiểm soát

Giá trị tăng thêm (VA) là kết quả cuối cùng của quá trình sản xuất, thể hiện giá trị mới được tạo ra trong việc sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ của doanh nghiệp.

Thu nhập của người lao động

Khấu hao tài sản cố định

Thu nhập của người lao động là tổng số tiền mà doanh nghiệp chi trả cho họ, bao gồm tất cả các khoản bảo hiểm và phúc lợi mà người lao động được hưởng.

Khấu hao tài sản cố định là sự giảm giá trị của tài sản cố định được sử dụng trong hoạt động sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định Việc trích khấu hao này được thực hiện theo Thông tư hướng dẫn về chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định của Bộ Tài Chính.

Thuế sản xuất là loại thuế áp dụng cho các hoạt động sản xuất, bao gồm thuế môn bài, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế xuất khẩu Tuy nhiên, thuế sản xuất không bao gồm thuế lợi nhuận hoặc thuế thu nhập doanh nghiệp liên quan đến hoạt động sản xuất.

Thặng dư sản xuất thể hiện giá trị của sự dư thừa hoặc thiếu hụt thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh trước khi thực hiện các khoản chi trả hoặc nhận thu nhập sở hữu, đồng thời còn được hiểu là giá trị lãi hoặc lỗ.

Phương pháp tính toán giá trị tăng thêm của doanh nghiệp bao gồm hai cách chính: phương pháp phân phối và phương pháp sản xuất (TCTK, 2018) Dựa vào dữ liệu có sẵn, nghiên cứu đã chọn phương pháp sản xuất với công thức cụ thể như sau:

Giá trị sản xuất (GO)

Chi phí trung gian (IC) Trong đó,

Giá trị sản xuất (GO) đại diện cho tổng giá trị của các sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo ra bởi các đơn vị, theo TCTK (2018) Để tính toán GO trong ngành công nghiệp cụ thể, cần áp dụng công thức phù hợp.

Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ

Trợ cấp sản phẩm (nếu có) +

Chênh lệch cuối kỳ, đầu kỳ thành phẩm tồn kho, hàng gửi bán và các chi phí dở dang còn lại khác

Chi phí trung gian (IC) là tổng hợp các chi phí liên quan đến sản phẩm và dịch vụ trong quá trình sản xuất, được tính vào giá thành sản phẩm Nghiên cứu này sử dụng tỷ lệ chi phí trung gian trên giá trị sản xuất (GO) của ngành chế biến, chế tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh, dựa trên dữ liệu do Tổng Cục Thống kê cung cấp từ cuộc khảo sát lập bảng cân đối liên ngành và tính toán hệ số chi phí trung gian năm 2012.

Giá trị tăng thêm và giá trị sản xuất được đo lường bằng cách logarit (ln)

Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) là chỉ số quan trọng để đo lường tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp, tuy nhiên hiện nay chưa có công thức chung cho tất cả các quốc gia và phụ thuộc vào hệ thống số liệu cụ thể Dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm và dữ liệu có sẵn, luận văn áp dụng phương pháp phổ biến để tính toán TFP thông qua phần dư của hàm sản xuất Cobb – Douglas.

Giá trị sản xuất (GO) của doanh nghiệp được xác định bởi công thức Y i = 𝐴 𝑖 𝐾 𝑖 𝛽 𝑘 𝐿 𝛽 𝑖 𝐿 𝐸 𝑖 𝛽 𝐸, trong đó K đại diện cho giá trị tài sản cố định còn lại bình quân của doanh nghiệp trong năm 2016 và L là lao động trung bình hàng năm.

Năm 2016, chi phí năng lượng E của doanh nghiệp bao gồm điện, than, xăng dầu, gas và khí đã được sử dụng Các hệ số βk, βL, βE thể hiện độ co giãn của sản lượng Y liên quan đến vốn, lao động và chi phí năng lượng Ai là phần không quan sát được trong mô hình này, với giả định rằng thị trường hoạt động theo cạnh tranh hoàn hảo.

Logarit phương trình (1), hàm sẽ có dạng:

Ln (TFP) = 𝛽 0 + 𝜀 𝑖 = 𝑌 𝑖 - 𝛽 𝑘 𝑘 𝑖 − 𝛽 𝑙 𝑙 𝑖 − 𝛽 𝑒 𝑒 𝑖, trong đó 𝛽 0 đo lường hiệu quả trung bình của doanh nghiệp, và 𝜀 𝑖 đại diện cho độ lệch trung bình của các đặc tính doanh nghiệp, bao gồm cả các yếu tố quan sát được và không quan sát được Công thức này phản ánh năng suất nhân tố tổng hợp (TFP).

Nghiên cứu của Van Beveren (2012) đã chỉ ra những vấn đề thường gặp trong việc ước lượng TFP (Tổng Năng suất Yếu tố) của doanh nghiệp và đề xuất các kỹ thuật ước lượng nhằm khắc phục những hạn chế này Luận văn áp dụng kỹ thuật ước lượng OLS để tính toán TFP cho các doanh nghiệp trong ngành chế biến, chế tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh Mặc dù phương pháp OLS truyền thống giả định các biến đầu vào là ngoại sinh, nhưng thực tế cho thấy doanh nghiệp thường căn cứ vào năng suất để lựa chọn các yếu tố đầu vào, dẫn đến khả năng ước lượng TFP bị thiên lệch do tính nội sinh Tuy nhiên, với dữ liệu chéo có sẵn, phương pháp OLS vẫn được coi là phù hợp Để đo lường TFP, giá trị đầu ra được xác định theo Cobbold (2003) là tỷ lệ giữa sản lượng đầu ra và đầu vào, trong đó đầu vào thường được đo bằng giá trị tăng thêm (VA) hoặc tổng sản lượng (GO) VA phản ánh sự đóng góp của ngành vào tổng sản phẩm, trong khi GO cho phép đánh giá sự thay đổi công nghệ và hiệu quả đầu vào trung gian Giá trị sản xuất của doanh nghiệp được tính toán theo phương pháp của Tổng Cục Thống kê, với biến GO được đo bằng logarit Đầu vào bao gồm vốn, lao động và năng lượng, trong đó vốn là tổng giá trị tài sản cố định còn lại trung bình, lao động là số lao động trung bình trong năm 2016, và năng lượng bao gồm chi phí điện và nhiên liệu của doanh nghiệp.

Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (TSLN) là chỉ số quan trọng trong hệ thống thống kê cấp tỉnh tại Việt Nam, thể hiện tỷ lệ giữa tổng lợi nhuận trước thuế từ các hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính và các hoạt động khác trong năm với tổng doanh thu thuần của doanh nghiệp Chỉ tiêu này cho thấy mỗi đồng doanh thu mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.

Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu

Việc lựa chọn các đặc điểm doanh nghiệp là yếu tố quan trọng trong phương pháp PSM Nếu không đưa những biến quyết định tình trạng doanh nghiệp vào mô hình, sẽ dẫn đến sai số và chất lượng kết quả thấp Hầu hết các biến kiểm soát phụ thuộc vào nguồn dữ liệu có sẵn.

Dữ liệu nghiên cứu

Dữ liệu luận văn thu thập từ các nguồn với mục đích như sau:

Dữ liệu điều tra trình độ công nghệ và chuyển giao công nghệ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh được thực hiện bởi Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2017, tập trung vào các chỉ tiêu liên quan đến hoạt động khoa học công nghệ của doanh nghiệp trong năm tài chính 2016 Cục Thống kê đã áp dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện, điều tra toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước, đầu tư nước ngoài và ngoài nhà nước có từ 100 lao động trở lên Đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước có dưới 100 lao động, tỷ lệ chọn mẫu được quy định như sau: 20% cho doanh nghiệp từ 50-99 lao động, 10% cho doanh nghiệp từ 10-49 lao động.

Mẫu khảo sát 3% được chọn từ 10 lao động nhằm đảm bảo tính đại diện cho toàn bộ doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh Nghiên cứu sẽ tập trung vào các chỉ tiêu liên quan đến việc triển khai đổi mới sáng tạo (DMST), ứng dụng công nghệ mới, và mức độ điều khiển thiết bị sản xuất chính trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.

Dữ liệu từ Kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2017, thu thập thông tin doanh nghiệp năm 2016, cung cấp các thông tin quan trọng về vị trí doanh nghiệp trong khu chế xuất, loại hình hoạt động, số lao động, trình độ lao động, doanh thu sản xuất, chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, thành phẩm, hàng gửi bán, lợi nhuận sản xuất và tình trạng vay vốn Những thông tin này được sử dụng để tính toán các chỉ tiêu VA, GO, và tỷ suất lợi nhuận TFP Dữ liệu cũng được kết nối với danh sách điều tra trình độ công nghệ và chuyển giao công nghệ thông qua mã số thuế doanh nghiệp.

Nghiên cứu sử dụng Google Map để đo khoảng cách từ vị trí doanh nghiệp đến điểm ngập gần nhất, lựa chọn quãng đường ngắn nhất và thời gian di chuyển tối ưu mà công cụ này đề xuất.

Nghiên cứu về số năm hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện dựa trên dữ liệu điều tra doanh nghiệp từ Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2018 và 2013, do bảng khảo sát năm 2017 không có thông tin về năm thành lập Đối với những doanh nghiệp không nằm trong hai danh sách này, nghiên cứu đã sử dụng mã số thuế và tra cứu thông tin trên trang web của Tổng Cục Thuế Việt Nam tại http://tracuunnt.gdt.gov.vn/.

Dữ liệu ban đầu gồm 2.951 doanh nghiệp thuộc tất cả các ngành công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh Sau khi tiến hành trích xuất, luận văn tập trung vào các doanh nghiệp trong ngành chế biến, chế tạo, đồng thời loại trừ những doanh nghiệp có doanh thu và chi phí năng lượng bằng 0, tỷ suất lợi nhuận lớn hơn 50% hoặc nhỏ hơn -50%, cũng như các doanh nghiệp có giá trị tăng thêm ngoại biên, chi nhánh ở tỉnh khác và những doanh nghiệp có nhiều địa điểm sản xuất trong thành phố Kết quả sau khi sàn lọc là 2.317 đơn vị.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Ngày đăng: 19/07/2021, 09:47

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN