Đề tài nghiên cứu góp phần tổng hợp các lý thuyết về tác động của đa dạng hóa thu nhập đến lợi nhuận của ngân hàng. Đồng thời từ đó ta rút ra xu hướng đa dạng hóa thu nhập và tăng tỉ trọng thu nhập ngoài lãi của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn từ 2011 đến 2018. Từ đó nghiên cứu nhằm bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm cho vấn đề tác động của đa dạng hóa thu nhập đến lợi nhuận của các NHTM Việt Nam.
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Sự cần thiết
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh và đa dạng hóa sản phẩm để theo kịp các đối thủ nước ngoài và công ty Fintech Những đối thủ này có lợi thế về công nghệ, cung cấp dịch vụ tài chính tiện lợi, chi phí thấp và tốc độ xử lý nhanh hơn, tạo ra thách thức lớn cho dịch vụ tài chính truyền thống Đồng thời, việc đa dạng hóa thu nhập cũng có thể gây rủi ro và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng Vì vậy, nghiên cứu này tập trung vào "Tác động của đa dạng hóa thu nhập đến lợi nhuận Ngân hàng thương mại Việt Nam".
Giới thiệu đề tài
1.2.1 Lý do lựa chọn đề tài:
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế Việt Nam, khiến tốc độ tăng trưởng giảm mạnh từ 8,48%.
Từ năm 2007 đến 2013, tình hình kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, với tỷ lệ tăng trưởng GDP giảm từ 6,23% năm 2008 xuống 5,32% năm 2009 do nhiều doanh nghiệp đình trệ sản xuất và khó khăn trong kinh doanh Chi phí lãi vay tăng cao từ 14% năm 2007 lên 24% năm 2010 đã khiến nhiều doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, dẫn đến nợ xấu gia tăng nhanh chóng Trong giai đoạn 2008-2011, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân đạt 26,56%, nhưng nợ xấu lại tăng 51% Đến năm 2013, nợ xấu tại các tổ chức tín dụng tăng mạnh 23,73% so với năm 2012, buộc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng tăng trích lập dự phòng nợ xấu, gây sụt giảm lợi nhuận đáng kể cho các ngân hàng.
2 lợi nhuận và giảm sự phụ thuộc vào thu nhập từ tín dụng
Theo DeYoung & Roland (2001), các ngân hàng thương mại (NHTM) trên thế giới đang có xu hướng đa dạng hóa hoạt động để đối phó với áp lực cạnh tranh và tìm kiếm lợi nhuận từ đầu tư tài chính Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng này, đặc biệt là sau năm 2006 khi số lượng NHTM tăng mạnh Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007, số lượng chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đã tăng 51,4% đến năm 2016, dẫn đến sự gia tăng cạnh tranh giữa các ngân hàng Để nâng cao lợi nhuận và khả năng cạnh tranh, các NHTM trong nước cần giải quyết vấn đề đa dạng hóa thu nhập và giảm tỷ lệ thu nhập từ tín dụng.
Mục tiêu nghiên cứu là phân tích tác động của đa dạng hóa nguồn thu đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong giai đoạn 2011 đến nay Nghiên cứu sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ giữa chiến lược đa dạng hóa và hiệu quả tài chính của các ngân hàng, nhằm hỗ trợ các nhà quản lý trong việc đưa ra quyết định tối ưu hóa lợi nhuận.
Từ đó bài nghiên cứu có mục tiêu cụ thể là:
Nghiên cứu này nhằm kiểm định tác động của yếu tố đa dạng hóa thu nhập đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại, thông qua chỉ số tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của các ngân hàng thương mại Việt Nam Để thực hiện mục tiêu này, một câu hỏi quan trọng cần được giải đáp.
Tác động của đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả hoạt động của NHTM Việt Nam như thế nào?
Cơ sở lý thuyết
1.3.1 Lý thuyết về đa dạng hóa, thu nhập và lợi nhuận ngân hàng Đa dạng hóa là chiến lược phổ biến trong quản trị đầu tư, nó giúp giảm thiểu rủi ro phi hệ thống Đa dạng hóa trong NH có thể phân thành 3 loại: đa dạng hóa các sản phẩm tài chính, dịch vụ, đa dạng hóa về địa lý, và đa dạng hóa kết hợp, theo Mercieca và cộng sự (2006)
Đo lường đa dạng hóa thu nhập thông qua chỉ số Herfindahl Hirschman Indices (HHI) theo Sissy và cộng sự (2016):
NETOP) 2 Với NETOP = NON + NET
NET: Thu nhập lãi thuần trên báo cáo tài chính ngân hàng
Thu nhập thuần ngoài lãi bao gồm các khoản lãi từ hoạt động dịch vụ, giao dịch ngoại hối, mua bán chứng khoán và các hoạt động kinh doanh khác.
NETOP: Tổng thu nhập của ngân hàng
Do đặc điểm của nguồn thu nhập có thể âm, Chiorazzo và cộng sự (2008) đã sử dụng chỉ số DIV để đo lường sự đa dạng hóa thu nhập.
Lợi nhuận NH theo thông tư 49/2014/TT-NHNN, lợi nhuận của ngân hàng thương mại tại Việt Nam được tính như sau:
Lợi nhuận ròng được tính bằng cách cộng tổng các khoản thu nhập như thu nhập lãi thuần, lãi lỗ từ hoạt động dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, mua bán chứng khoán kinh doanh và đầu tư, cùng với thu nhập từ góp vốn mua cổ phần Sau đó, trừ đi tổng chi phí hoạt động, chi phí dự phòng rủi ro tín dụng và chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp.
Các ngân hàng có quy mô khác nhau thường được đánh giá thông qua các chỉ số lợi nhuận tương đối như tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROAA) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROAE) Trong đó, ROAE phản ánh khả năng sinh lời trên mỗi đồng vốn bình quân của cổ đông thường.
ROAA đo lường mức sinh lời trên mỗi đồng tài sản bình quân của ngân hàng
1.3.2 Lược khảo các nghiên cứu trước
Vấn đề đa dạng hóa tác động đến lợi nhuận của ngân hàng vẫn còn nhiều tranh cãi, với câu hỏi liệu đa dạng hóa có giúp tăng lợi nhuận một cách ổn định và lâu dài hay không Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng ngân hàng phát triển đa dạng hóa nguồn thu nhập có thể đạt được lợi nhuận cao hơn Cụ thể, nghiên cứu của Sissy và cộng sự (2016) trên 320 ngân hàng ở Châu Phi giai đoạn 2002-2013 chỉ ra rằng mở rộng đa quốc gia là một hình thức đa dạng hóa thu nhập, giúp tăng lợi nhuận điều chỉnh rủi ro, mặc dù không có ý nghĩa thống kê đối với rủi ro phá sản Tương tự, Chiorazzo và cộng sự (2008) cũng phát hiện mối quan hệ tích cực giữa đa dạng hóa thu nhập và lợi nhuận điều chỉnh rủi ro ở các ngân hàng Ý giai đoạn 1993-2003, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ với tỷ lệ thu nhập ngoài lãi thấp có thể đạt hiệu quả tài chính cao khi thực hiện đa dạng hóa thu nhập.
Nghiên cứu năm 2011 đã phân tích 226 ngân hàng niêm yết từ 11 quốc gia nền kinh tế mới nổi trong giai đoạn 2000 – 2007, cho thấy rằng đa dạng hóa thu nhập giúp giảm rủi ro vỡ nợ và gia tăng lợi nhuận ngân hàng Tại Việt Nam, các nghiên cứu của Minh và cộng sự cũng đã chỉ ra những tác động tích cực tương tự của đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Nghiên cứu năm 2015 sử dụng phương pháp ước lượng SGMM để phân tích dữ liệu của 22 ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong giai đoạn 2007-2013, nhằm xem xét tác động của đa dạng hóa thu nhập và các yếu tố khác đến khả năng sinh lời của NHTM Kết quả cho thấy chỉ số đa dạng hóa thu nhập có mối tương quan thuận với khả năng sinh lời, trong khi các chỉ tiêu như tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản, tỷ lệ tiền gửi khách hàng, và lạm phát cũng có tương quan tích cực Ngược lại, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, và tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập lại có mối tương quan nghịch với khả năng sinh lời Nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng về tác động của quy mô tổng tài sản và tốc độ tăng trưởng kinh tế đến khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam.
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm không công nhận lợi ích về lợi nhuận từ việc đa dạng hóa nguồn thu nhập của các ngân hàng Vinh và cộng sự (2015) đã nghiên cứu 37 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2013 và chỉ ra rằng sự đa dạng hóa giúp tăng tỷ lệ lợi nhuận, nhưng cũng cần xem xét yếu tố rủi ro Việc đa dạng hóa các hoạt động tạo lợi nhuận có thể dẫn đến rủi ro thấp hơn hoặc cao hơn, trong khi các ngân hàng thường tập trung vào các hoạt động trung gian truyền thống Tương tự, Maudos (2016) đã nghiên cứu các ngân hàng châu Âu trong giai đoạn tương tự, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quản lý rủi ro trong quá trình đa dạng hóa.
Nghiên cứu từ 2002 đến 2012 cho thấy ngân hàng càng đa dạng hóa thì lợi nhuận càng thấp, đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng Đồng thời, sự đa dạng hóa cũng làm tăng rủi ro, với tác động mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mở rộng và giảm trong thời kỳ khủng hoảng Williams (2016) đã phân tích 26 ngân hàng tại Australia từ quý 2/2002 đến quý 4/2014, chỉ ra rằng các ngân hàng có tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cao sẽ dẫn đến sự bất ổn định trong thu nhập và tăng rủi ro Các nghiên cứu này từ nhiều tác giả trên thế giới và Việt Nam cung cấp hai quan điểm chính: một là đa dạng hóa thu nhập có thể tăng lợi nhuận của ngân hàng thương mại (NHTM), hai là nó không mang lại lợi ích đáng kể Nghiên cứu này nhằm bổ sung bằng chứng thực nghiệm cho NHTM Việt Nam, góp phần làm rõ những tranh luận trên.
Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
1.4.1 Mô tả mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu này phân tích dữ liệu từ các báo cáo tài chính hợp nhất hàng năm của 32 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2018 Dữ liệu được thu thập từ cổng thông tin tài chính và chứng khoán Vietstock, trang web chính thức của các ngân hàng, cùng với thông tin từ Thomson Reuters qua cơ sở dữ liệu của trường UEH Ngoài ra, các biến kiểm soát vĩ mô như GDP và lạm phát (INF) cũng được sử dụng trong nghiên cứu này.
Các báo cáo tài chính hợp nhất là công cụ quan trọng để đánh giá hoạt động của các ngân hàng hiện đại, đặc biệt khi hầu hết các ngân hàng hiện nay phát triển theo mô hình tập đoàn đa ngành nghề Báo cáo tài chính riêng không thể phản ánh đầy đủ tình hình tài chính và kinh doanh thực tế của các ngân hàng, trong khi báo cáo tài chính hợp nhất đáp ứng tốt hơn các yêu cầu này.
Tác giả sử dụng dữ liệu thu thập để thực hiện phân tích hồi quy thông qua phần mềm Stata, nhằm xác định liệu việc gia tăng đa dạng hóa thu nhập có ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại tại Việt Nam hay không Các bước thực hiện bao gồm việc chạy mô hình và đánh giá kết quả.
Thống kê mô tả các biến: xác định biến phụ thuộc, biến độc lập, biến kiểm soát và mô hình nghiên cứu
Phân tích ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình
Kiểm tra hiện tượng: đa cộng tuyến, tự tương quan, phương sai thay đổi
Phân tích hồi quy trong dữ liệu bảng có thể được thực hiện bằng các phương pháp ước lượng thông thường như OLS, ước lượng cố định (Fixed effects) và ước lượng ngẫu nhiên (Random effects) Sau khi áp dụng các phương pháp này, kiểm định Hausman sẽ được sử dụng để xác định mô hình tối ưu cho phân tích.
Khi mô hình có khiếm khuyết, ta dùng đến phương pháp ước lượng FGLS và GMM để khắc phục những khiếm khuyết
- Cụ thể hơn cho bước thống kê mô tả các biến:
Ta sử dụng mô hình nghiên cứu tương tự như của Sanya & Wolfe (2011), Sissy & cộng sự (2016) như sau:
Profitit là chỉ số thể hiện lợi nhuận của ngân hàng, được đo bằng hai chỉ số ROAA (tỉ suất lợi nhuận trên tài sản) và ROAE (tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu) vào cuối năm t của ngân hàng i ROAA phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản để tạo ra lợi nhuận, trong khi ROAE cho thấy khả năng sinh lời từ vốn của cổ đông.
Lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân (ROAA) của ngân hàng phản ánh khả năng sinh lời và hiệu quả tạo ra thu nhập từ tài sản, được tính bằng tổng lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản trung bình của hai năm liền kề tại thời điểm cuối năm tài chính (Chiorazzo & cộng sự, 2008; Vinh & cộng sự, 2015) Trong khi đó, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu bình quân (ROAE) được xác định bằng lợi nhuận sau thuế trên tổng vốn chủ sở hữu trung bình của hai năm liền kề tại thời điểm cuối năm tài chính (Chiorazzo & cộng sự, 2008; Vinh & cộng sự, 2015) Biến đa dạng hóa thu nhập (DIV) được tính theo công thức do Chiorazzo & cộng sự (2008) đề xuất.
Có 06 biến kiểm soát, cụ thể như:
LA là tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản (%)
TA là quy mô ngân hàng, được tính bằng logarit tự nhiên tổng tài sản
DA là tỷ lệ huy động vốn được tính bằng tổng tiền huy động khách hàng trên tổng tài sản
Eff là tổng chi phí hoạt động trên tổng thu nhập (%)
ASGR là tốc độ tăng trưởng tài sản, được tính bằng
LGR là tốc độ tăng trưởng cho vay, được tính bằng
𝐷ư 𝑛ợ 𝑐ℎ𝑜 𝑣𝑎𝑦 𝑛ă𝑚 (𝑡 − 1) Bên cạnh đó có 02 biến vĩ mô gồm:
GDP là tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm, được tính bằng𝐺𝐷𝑃 𝑛ă𝑚 𝑡−𝐺𝐷𝑃 𝑛ă𝑚 (𝑡−1)
INF là tốc độ lạm phát hàng năm, được tính bằng 𝐶𝑃𝐼 𝑛ă𝑚 𝑡−𝐶𝑃𝐼 𝑛ă𝑚 (𝑡−1)
Nghiên cứu này tổng hợp các lý thuyết về ảnh hưởng của đa dạng hóa thu nhập đến lợi nhuận ngân hàng, đồng thời phân tích xu hướng tăng tỷ trọng thu nhập ngoài lãi của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2011-2018 Mục tiêu của nghiên cứu là cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về tác động của đa dạng hóa thu nhập đối với lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Bài nghiên cứu này có hạn chế do không bao gồm dữ liệu từ các ngân hàng liên doanh và ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, dẫn đến việc không nhận diện được sự khác biệt trong cơ cấu thu nhập cũng như tác động của đa dạng hóa thu nhập đến lợi nhuận của các ngân hàng này.
Kết cấu luận văn
Chương 1 – Giới thiệu đề tài
Chương 2 – Cơ sở lý thuyết
Chương 3 – Phương pháp nghiên cứu
Chương 4 – Kết quả nghiên cứu – thảo luận
Chương 5 – Kết luận và kiến nghị
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐA DẠNG HÓA THU NHẬP VÀ LỢI NHUẬN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Lý thuyết về thu nhập và đa dạng hóa thu nhập ngân hàng thương mại
2.1 Lý thuyết về thu nhập và đa dạng hóa thu nhập ngân hàng thương mại
2.1.1 Khái niệm thu nhập và đa dạng hóa thu nhập ngân hàng thương mại 2.1.1.1 Khái niệm thu nhập ngân hàng thương mại
Từ hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, thu nhập của ngân hàng được chia thành hai phần chính: thu nhập lãi thuần và thu nhập ngoài lãi thuần Thu nhập lãi (NET) là thu nhập lãi thuần, được tính bằng thu nhập lãi trừ chi phí lãi Tương tự, thu nhập ngoài lãi thuần, hay còn gọi là thu nhập ngoài lãi, được xác định bằng thu nhập ngoài lãi trừ chi phí ngoài lãi.
Thu nhập lãi bao gồm tổng thu nhập từ cho vay khách hàng, tiền gửi, đầu tư chứng khoán nợ, cho thuê tài chính, phí bảo lãnh, mua bán nợ và các nguồn thu khác từ hoạt động tín dụng Trong khi đó, chi phí lãi là tổng chi phí từ tiền gửi, vay, phát hành giấy tờ có giá và các chi phí khác liên quan đến hoạt động tín dụng.
Thu nhập ngoài lãi thuần từ hoạt động đầu tư, hay còn gọi là thu nhập từ hoạt động đầu tư, bao gồm tổng hợp các khoản lãi hoặc lỗ từ việc mua bán chứng khoán kinh doanh, lãi hoặc lỗ từ mua bán chứng khoán đầu tư, cùng với thu nhập từ việc góp vốn mua cổ phần.
Thu nhập ngoài lãi thuần từ hoạt động dịch vụ, gọi tắt là thu nhập từ hoạt
Lãi hoặc lỗ thuần từ hoạt động cung cấp dịch vụ bao gồm các khoản như hoa hồng từ dịch vụ nhận ủy thác, mở thư tín dụng (LC), bảo lãnh tín dụng và lệ phí cấp tín dụng.
Thu nhập ngoài lãi thuần khác: bao gồm tổng lãi/(lỗ) thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại hối và lãi/(lỗ) thuần từ hoạt động khác
2.1.1.2 Khái niệm về đa dạng hóa thu nhập ngân hàng
Đa dạng hóa là chiến lược quản lý rủi ro hiệu quả thông qua việc kết hợp nhiều loại công cụ tài chính trong danh mục đầu tư Mục tiêu chính của đa dạng hóa là giảm thiểu tác động tiêu cực từ một kênh đầu tư rủi ro đối với lợi nhuận toàn bộ danh mục Nhờ đó, đa dạng hóa giúp giảm thiểu rủi ro liên quan đến danh mục đầu tư.
Lý thuyết đa dạng hóa danh mục đầu tư của Harry Markowitz, ra đời năm 1952, nhấn mạnh rằng việc lựa chọn các khoản đầu tư nên dựa trên sự tương quan giữa chúng với các tài sản khác để giảm rủi ro Đến năm 1991, lý thuyết đa dạng hóa danh mục đầu tư hậu hiện đại đã được phát triển để khắc phục một số hạn chế của mô hình Markowitz Chiến lược này khuyến khích đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau, giúp giảm thiểu rủi ro khi biến động của một kênh đầu tư có thể được bù đắp bởi lợi nhuận từ kênh khác Đối với ngân hàng, đa dạng hóa thu nhập ngân hàng đề cập đến việc tăng tỷ trọng thu nhập ngoài lãi trong tổng thu nhập, trái ngược với chiến lược tập trung khi tỷ lệ thu nhập từ tín dụng cao.
Theo phân loại của Mercieca và cộng sự (2007), ngân hàng có ba xu hướng đa dạng hóa chính: đa dạng hóa sản phẩm tài chính và dịch vụ, mở rộng địa lý, và kết hợp giữa đa dạng hóa địa lý với hoạt động kinh doanh Những xu hướng này giúp ngân hàng tăng cường nguồn thu nhập và giảm thiểu rủi ro.
Để gia tăng thu nhập ngoài lãi trong tổng thu nhập thuần của ngân hàng, việc đa dạng hóa sản phẩm tài chính và dịch vụ là rất quan trọng Nghiên cứu cho thấy rằng 11 hàng hóa chính có thể dẫn đến sự gia tăng đáng kể nguồn thu nhập ngoài lãi, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Đa dạng hóa thu nhập của ngân hàng được xác định khi tỷ trọng thu nhập ngoài lãi trong tổng thu nhập tăng lên Ngược lại, nếu ngân hàng có tỷ lệ thu nhập từ tín dụng cao, đó được coi là chiến lược tập trung Chiến lược đa dạng hóa thu nhập, đã xuất hiện từ cuối thế kỷ XX, liên quan đến việc gia tăng tổng thu nhập từ cả nguồn thu nhập lãi và ngoài lãi Theo Rose & Hudgins (2008), hoạt động này bao gồm việc chuyển đổi từ kinh doanh tín dụng truyền thống sang các mảng kinh doanh phi truyền thống như phí dịch vụ và hoa hồng Để thực hiện đa dạng hóa thu nhập, ngân hàng cần phát triển nhiều sản phẩm dịch vụ ngoài tín dụng.
Chúng tôi cung cấp đa dạng dịch vụ chuyển tiền trong và ngoài nước, bao gồm dịch vụ thẻ, thanh toán xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ, môi giới đầu tư chứng khoán, hoa hồng đại lý, và bảo hiểm Bancassurance Các sản phẩm này được thiết kế để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, với tính tiện ích cao, giao dịch nhanh chóng và chính xác, đồng thời cần có sự liên kết chặt chẽ và phát triển đồng bộ.
Chất lượng dịch vụ phi tín dụng phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại và trình độ nhân viên ngân hàng Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, việc ngân hàng đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ không chỉ thu hút nhiều khách hàng mà còn nâng cao uy tín và vị thế của ngân hàng Hơn nữa, các sản phẩm dịch vụ ngoài tín dụng giúp khách hàng tiết kiệm thời gian, chi phí và linh hoạt hơn trong các giao dịch thương mại chuyển tiền.
2.1.2 Vai trò thu nhập và đa dạng hóa thu nhập ngân hàng thương mại
Cuối thế kỷ XX, các ngân hàng toàn cầu đã bắt đầu xu hướng đa dạng hóa nguồn thu nhập Việc này trở nên cần thiết do rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng.
Để giảm thiểu rủi ro và duy trì lợi nhuận ổn định trong môi trường kinh doanh đầy thách thức, các ngân hàng cần tập trung vào 12 nguồn thu nhập khác nhau Việc gia tăng đa dạng hóa thu nhập không chỉ giúp ngân hàng phát triển bền vững mà còn hỗ trợ quá trình hội nhập quốc tế.
Đa dạng hóa thu nhập giúp ngân hàng thu hút khách hàng và tăng thu nhập ngoài lãi, từ đó cải thiện hoạt động kinh doanh Việc cung cấp sản phẩm dịch vụ hiện đại yêu cầu ngân hàng thiết lập mối quan hệ hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước, qua đó nâng cao uy tín và thương hiệu trên thị trường Đồng thời, đa dạng hóa thu nhập còn giúp phân tán rủi ro và hạn chế tổn thất lợi nhuận, đặc biệt khi hoạt động tín dụng nhạy cảm với lãi suất và biến động kinh tế Hoạt động phi tín dụng ít rủi ro hơn và mang lại nguồn thu ổn định Sự ổn định và bền vững của ngân hàng không chỉ có lợi cho chính ngân hàng mà còn tác động tích cực đến các lĩnh vực khác của nền kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Lý thuyết về lợi nhuận ngân hàng
2.2.1 Khái niệm về lợi nhuận ngân hàng thương mại
Lợi nhuận ngân hàng thương mại được tính bằng hiệu số giữa tổng thu nhập và các chi phí hợp lý Mức lợi nhuận tuyệt đối phản ánh khả năng sinh lời của ngân hàng.
- Lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp
- Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp còn được gọi là lợi nhuận thuần hay lợi nhuận ròng
Lợi nhuận tuyệt đối của ngân hàng cho biết số tiền lợi nhuận đạt được, nhưng khi so sánh giữa các ngân hàng, nó không phản ánh được sự khác biệt về quy mô Do mục tiêu nghiên cứu không tập trung vào giá trị lợi nhuận, chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối ít được sử dụng.
Để đo lường lợi nhuận trong ngân hàng, các chỉ số như ROAA và ROAE thường được sử dụng trong nghiên cứu học thuật và ứng dụng Các tác giả như Chiorazzo và Vinh đã áp dụng những chỉ số này để đánh giá tác động của đa dạng hóa thu nhập đến hiệu quả hoạt động ngân hàng ROAA phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản để tạo ra lợi nhuận, trong khi ROAE thể hiện hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu Cổ đông kỳ vọng nhận được tỉ số ROAE cao, điều này cho thấy hiệu quả của khoản đầu tư vào ngân hàng.
Lợi nhuận của ngân hàng thương mại tại Việt Nam được quy định trong Thông tư 49/2014/TT-NHNN, sửa đổi một số điều khoản của chế độ báo cáo tài chính đối với các tổ chức tín dụng, kèm theo Quyết định 16/2007/QĐ-NHNN ngày 18/4/2001 Thông tư này đã nêu rõ phương pháp tính lợi nhuận của các ngân hàng thương mại.
Lợi nhuận thuần (lợi nhuận ròng)
Thu nhập ròng của doanh nghiệp được tính bằng tổng hợp các khoản thu như lãi thuần, lãi, lỗ từ hoạt động dịch vụ, lãi, lỗ từ kinh doanh ngoại hối, lãi, lỗ từ mua bán chứng khoán kinh doanh và đầu tư, cùng với các khoản thu nhập từ góp vốn mua cổ phần Tuy nhiên, cần trừ đi chi phí dự phòng rủi ro tín dụng và chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp để xác định lợi nhuận thực tế.
2.2.2 Vai trò của lợi nhuận tại ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại có bản chất tìm kiếm lợi nhuận, vì vậy mọi hoạt động của ngân hàng đều hướng tới mục tiêu này Lợi nhuận không chỉ giúp ngân hàng duy trì sự tồn tại mà còn là nền tảng cho sự phát triển kinh doanh Ngoài ra, lợi nhuận còn ảnh hưởng đến nhiều hoạt động và năng lực tài chính của ngân hàng.
Hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại được đánh giá qua lợi nhuận và khả năng duy trì lợi nhuận Khi hoạt động hiệu quả, ngân hàng không chỉ giảm thiểu rủi ro kinh doanh mà còn có khả năng bù đắp tổn thất do rủi ro tín dụng, đảm bảo khả năng thanh toán, ổn định hoạt động và nâng cao uy tín trong môi trường kinh doanh cả trong nước và quốc tế.
Lợi nhuận đóng vai trò then chốt trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng, giúp gia tăng vốn chủ sở hữu và tài sản, đồng thời đảm bảo tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu Hơn nữa, lợi nhuận còn là nguồn phúc lợi quan trọng, thúc đẩy hiệu quả làm việc của ban quản trị, giám đốc, cán bộ quản lý và toàn thể nhân viên.
Ngân hàng thương mại không chỉ là một doanh nghiệp trong nền kinh tế mà còn đóng góp vào ngân sách nhà nước thông qua thuế, hỗ trợ cho các mục tiêu phát triển của chính phủ Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại giữ vai trò trung gian quan trọng trong việc luân chuyển vốn, cung cấp nguồn tài chính cho sự phát triển kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh toán thương mại và đầu tư cả trong và ngoài nước.
Lợi nhuận là nguồn lực tài chính thiết yếu cho hoạt động và mở rộng kinh doanh của ngân hàng thương mại, giúp ngân hàng đầu tư vào cơ sở vật chất và nhân lực để cải thiện dịch vụ và sản phẩm Khách hàng được hưởng lợi từ những sản phẩm, dịch vụ tiện ích, nhanh chóng, chính xác, thuận tiện và đáng tin cậy Ngoài ra, lợi nhuận còn đóng vai trò là khoản dự phòng bù đắp cho tổn thất của người gửi tiền khi có rủi ro xảy ra Một ngân hàng có lợi nhuận không chỉ phản ánh hiệu quả hoạt động mà còn gia tăng sự tin tưởng của khách hàng gửi tiền.
Lợi nhuận không chỉ giúp nâng cao uy tín của ngân hàng mà còn cải thiện khả năng tài chính trong hoạt động tín dụng Một ngân hàng có hiệu quả và lợi nhuận cao sẽ trở thành đối tác đáng tin cậy, đủ năng lực để cung cấp vốn cho các chủ thể đi vay.
2.2.3 Một số chỉ tiêu đo lường lợi nhuận ngân hàng
Các chỉ số đánh giá lợi nhuận thường được sử dụng trong lý thuyết và học
Chỉ số ROAA và ROAE là hai thuật nghiên cứu quan trọng được các nhà nghiên cứu sử dụng để so sánh hiệu quả hoạt động và lợi nhuận giữa các chủ thể Những chỉ số này không chỉ dễ dàng trong việc so sánh tương đối mà còn giúp đo lường hiệu quả hoạt động của các tổ chức.
Nghiên cứu của Chiorazzo và cộng sự (2008), Seok (2012), Dr Aremu và cộng sự (2013), Lee và cộng sự (2014), cùng Vinh và cộng sự (2015) đều sử dụng tỷ số ROAA và ROAE để đo lường lợi nhuận ngân hàng Hai chỉ số này dễ dàng tính toán và có thể thu thập từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán, đồng thời phản ánh khả năng sinh lời của các ngân hàng.
ROAE = Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân x 100%
Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản đo lường mức sinh lời trên mỗi đồng tài sản bình quân của ngân hàng
ROAA = Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản bình quân x 100%
Lợi nhuận cao, thể hiện qua các chỉ tiêu sinh lời như ROAA trên 1% và ROAE từ 12% đến 15%, là yếu tố quan trọng giúp ngân hàng tái đầu tư, mở rộng quy mô và nâng cao năng lực tài chính, theo tiêu chuẩn của Moody’s.
Cơ sở lý thuyết tác động của đa dạng hóa thu nhập đến lợi nhuận ngân hàng
Lý thuyết đa dạng hóa danh mục đầu tư của Markowitz và Jame chỉ ra rằng rủi ro cá thể có thể giảm khi thực hiện đa dạng hóa Đa dạng hóa có thể tăng lợi nhuận, nhưng hiệu quả giảm rủi ro phụ thuộc vào mối tương quan giữa các khoản đầu tư trong danh mục Ứng dụng lý thuyết này cho thấy rằng đa dạng hóa nguồn thu nhập mang lại lợi ích gia tăng lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng, đặc biệt khi các nguồn thu nhập là độc lập và không có mối tương quan thuận trong các tình huống rủi ro.
Xét về mặt học thuật, câu hỏi đang được khá quan tâm nhưng vẫn chưa có
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng đa dạng hóa thu nhập có thể giúp tăng lợi nhuận ngân hàng một cách ổn định Các bằng chứng cho thấy rằng khi các ngân hàng áp dụng chiến lược này, họ thường đạt được hiệu quả tích cực trong hoạt động kinh doanh của mình.
Theo Saunders & Walter (1994), các ngân hàng có thể tận dụng thông tin từ quá trình cho vay để tài trợ cho các dịch vụ tài chính khác, như bảo lãnh phát hành chứng khoán Bằng cách cung cấp dịch vụ bảo lãnh hay bảo hiểm, ngân hàng có thể thu thập thêm thông tin, giảm thiểu bất cân xứng thông tin với khách hàng, từ đó nâng cao hiệu quả cho vay Các ngân hàng với hoạt động đa dạng có thể gia tăng hiệu quả kinh tế nhờ quy mô Smith và cộng sự (2003) đã chứng minh tính ổn định của nguồn thu nhập ngoài lãi, góp phần ổn định lợi nhuận ngân hàng Nghiên cứu của Chiorazzo và cộng sự (2008) cũng đồng tình rằng đa dạng hóa thu nhập mang lại lợi ích cho lợi nhuận ngân hàng, đặc biệt với các ngân hàng quy mô nhỏ, do phần thu nhập ngoài lãi chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập, việc gia tăng này sẽ làm tăng hiệu quả tài chính.
Đa dạng hóa thu nhập không chỉ tăng cơ hội tạo ra thu nhập cao hơn mà còn giúp ngân hàng giảm sự phụ thuộc vào nguồn thu từ hoạt động cho vay truyền thống và huy động vốn Nhờ đó, nguồn thu nhập của ngân hàng sẽ ổn định hơn, ngay cả khi hoạt động cấp tín dụng gặp khó khăn.
Việc mở rộng sang lĩnh vực dịch vụ và đầu tư phi truyền thống giúp ngân hàng tăng cường khả năng tiếp cận và phục vụ khách hàng đa dạng hơn Nghiên cứu của Baele và cộng sự (2007) cho thấy rằng khi ngân hàng mở rộng hoạt động trong các lĩnh vực như dịch vụ kinh doanh, phí, đầu tư và hoa hồng, họ có thể tiết kiệm chi phí nhân lực và công nghệ Hơn nữa, ngân hàng còn có cơ hội bán chéo các sản phẩm hiện có cho khách hàng hiện tại nhờ vào mối quan hệ tốt với họ.
Để gia tăng thị phần, các ngân hàng cần tiếp thị hiệu quả 17 sản phẩm tiện ích liên kết hiện có Sự đa dạng hóa này không chỉ tạo ra áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng mà còn thúc đẩy sự sáng tạo và nâng cao hiệu quả trong nghiên cứu, phát triển và cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính trên thị trường rộng lớn hơn (Acharya và cộng sự, 2006; Lepetit và cộng sự, 2008).
Nghiên cứu của DeYoung và Roland (1999) chỉ ra rằng chiến lược đa dạng hóa thu nhập trong ngân hàng có thể không hiệu quả vì ba lý do chính Đầu tiên, doanh thu từ cho vay truyền thống ổn định hơn so với doanh thu từ các dịch vụ dựa trên phí, do chi phí và thời gian chuyển đổi ngân hàng hạn chế sự thay đổi từ cả ngân hàng lẫn khách hàng Thứ hai, việc mở rộng dịch vụ thu phí đòi hỏi đầu tư lớn, làm tăng đòn bẩy hoạt động và giảm hiệu quả sử dụng vốn Cuối cùng, quy định về an toàn vốn có thể không cần thiết cho nhiều hoạt động thu phí, dẫn đến việc ngân hàng sử dụng đòn bẩy tài chính cao và tăng biến động lợi nhuận Nghiên cứu của Mercieca và cộng sự (2007) cũng hỗ trợ quan điểm này, cho rằng đa dạng hóa có thể làm giảm lợi nhuận điều chỉnh rủi ro do ngân hàng mở rộng sang các lĩnh vực thiếu kinh nghiệm và cạnh tranh, từ đó gia tăng sự bất cân xứng thông tin trong quản lý các khoản vay.
Đa dạng hóa có thể giảm thiểu rủi ro cá thể, nhưng lại khiến ngân hàng dễ bị ảnh hưởng bởi các cú sốc hệ thống Điều này xảy ra do ngân hàng tham gia vào nhiều thị trường và lĩnh vực khác nhau, dẫn đến mức độ chịu tác động từ rủi ro hệ thống cao hơn (De Vries, 2005).
Tổng quan các nghiên cứu trước và phát triển giả thuyết nghiên cứu
2.4.1 Các kết quả nghiên cứu có liên quan
Nghiên cứu về ảnh hưởng của đa dạng hóa nguồn thu đến lợi nhuận của ngân hàng đã được thực hiện rộng rãi, với nhiều phạm vi, công cụ và mục đích khác nhau, dẫn đến các kết quả đa dạng.
Môi trường kinh doanh cạnh tranh buộc các ngân hàng chuyển thu nhập từ cho vay truyền thống sang các dịch vụ mới, như sản phẩm môi giới, đầu tư và bảo lãnh (Meslier và cộng sự 2014) Mặc dù các nước phát triển như Mỹ và Châu Âu đã áp dụng những thay đổi này, vẫn chưa có sự thống nhất về tác động của chúng đối với rủi ro và hiệu suất ngân hàng Nhiều nghiên cứu (Stiroh 2004a, b, 2006; Stiroh & Rumble 2006; Lepetit và cộng sự 2008a) cho thấy rằng hoạt động dịch vụ không chỉ tăng lợi nhuận mà còn mang lại rủi ro do tính không ổn định Một số nghiên cứu khác (Sanya & Wolfe 2011; Hidayat và cộng sự 2012; Nguyễn và cộng sự 2012; Pennathur và cộng sự 2012; Meslier và cộng sự 2014; Zhou 2014; Batten & Vo 2016) tập trung vào các quốc gia mới nổi và cho kết quả khác nhau Đa dạng hóa có thể mang lại lợi ích cho ngân hàng thông qua nền kinh tế (Diamond 1991; Rajan 1992; Stein 2002), và thông tin từ khách hàng trong cho vay có thể hỗ trợ cung cấp các dịch vụ khác như bảo lãnh phát hành chứng khoán.
19 động khác tạo ra thông tin có thể được sử dụng để cho vay, nhờ đó, hiệu suất của các thành phần tham gia vào các hoạt động khác nhau sẽ được cải thiện.
Các hoạt động đa dạng có thể ảnh hưởng đến rủi ro ngân hàng một cách khác nhau Đa dạng hóa có thể đưa ngân hàng vào những rủi ro mới như rủi ro thị trường, thanh khoản và hoạt động, bên cạnh rủi ro tín dụng Theo lý thuyết Danh mục đầu tư, ngân hàng có thể hưởng lợi từ việc đa dạng hóa rủi ro nếu các luồng thu nhập ngoài lãi không tương quan với thu nhập lãi Tuy nhiên, nếu các luồng thu nhập ngoài lãi có mức độ rủi ro cao và tương quan mạnh với thu nhập lãi, ngân hàng có thể phải đối mặt với rủi ro gia tăng.
Nghiên cứu thực nghiệm về tác động của đa dạng hóa đến hiệu suất ngân hàng và rủi ro cho thấy kết quả không đồng nhất Một số nghiên cứu chỉ ra rằng chi phí đa dạng hóa vượt quá lợi ích, trong khi những nghiên cứu khác lại khẳng định ngược lại.
Nghiên cứu của Stiroh (2004a) và Stiroh cùng Rumble (2006) chỉ ra rằng mức thu nhập ngoài lãi cao hơn ở các ngân hàng Hoa Kỳ gắn liền với lợi nhuận điều chỉnh rủi ro thấp hơn và rủi ro cao hơn DeYoung và Roland (2001) cũng phát hiện rằng tỷ lệ thu nhập từ các nguồn ngoài lãi cao hơn trong tổng doanh thu của ngân hàng dẫn đến sự biến động lợi nhuận tăng cao và làm giảm rào cản rủi ro.
Nghiên cứu năm 2012 cho thấy các ngân hàng có thu nhập ngoài lãi cao hơn thường đối mặt với mức độ rủi ro hệ thống cao hơn Tương tự, Mercieca và cộng sự (2007) chỉ ra rằng các ngân hàng nhỏ ở châu Âu có lợi nhuận thấp hơn và rủi ro cao hơn khi tăng thu nhập ngoài lãi Lepetit và cộng sự (2008a) cũng xác nhận rằng thu nhập ngoài lãi cao hơn làm gia tăng rủi ro trong một nghiên cứu về các ngân hàng châu Âu giai đoạn 1996-2002 Hơn nữa, trong một nghiên cứu khác, Lepetit và cộng sự (2008b) cho biết rằng thu nhập cao hơn từ hoa hồng và lệ phí cho phép ngân hàng áp dụng mức chênh lệch thấp hơn cho các khoản vay.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra lợi ích của việc đa dạng hóa trong ngành ngân hàng Baele và cộng sự (2007) cho thấy rằng sự đa dạng thu nhập có tác động tích cực đến giá trị lâu dài của các ngân hàng châu Âu, đồng thời giảm nguy cơ riêng Chiorazzo và cộng sự (2008) xác nhận rằng lợi nhuận điều chỉnh rủi ro của các ngân hàng Ý tăng lên nhờ vào đa dạng hóa thu nhập Nghiên cứu của Rossi và cộng sự (2009) về các ngân hàng Áo cũng cho thấy đa dạng hóa liên quan đến hiệu quả lợi nhuận cao hơn và rủi ro thấp hơn Cuối cùng, Elsas và cộng sự (2010) đã phát hiện rằng đa dạng hóa không chỉ không làm giảm giá trị cổ đông mà còn cải thiện khả năng sinh lời của ngân hàng tại nhiều quốc gia như Úc, Canada, và các nước châu Âu.
Nghiên cứu cho thấy rằng ở các nước đang phát triển và mới nổi, sự tham gia vào các hoạt động phi tín dụng có thể cải thiện hiệu suất ngân hàng và lợi nhuận điều chỉnh rủi ro (Sanya & Wolfe 2011; Pennathur và cộng sự 2012; Meslier và cộng sự 2014) Lee và cộng sự (2014) cũng chỉ ra rằng tại 29 quốc gia châu Á - Thái Bình Dương, có mối liên hệ tích cực giữa đa dạng hóa thu nhập và lợi nhuận ngân hàng Tuy nhiên, Maudos và Solis (2009) lại nhấn mạnh rằng ở các ngân hàng Mexico, thu nhập ngoài lãi có mối quan hệ tiêu cực với lãi ròng.
Nghiên cứu của Lee và cộng sự (2014) chỉ ra rằng đa dạng hóa thu nhập có tác động tích cực đến hiệu quả tài chính của 43 ngân hàng ở Bangladesh trong giai đoạn 2010-2014 Đồng thời, Batten và Vo (2016) nhận thấy rằng các ngân hàng Việt Nam đối mặt với rủi ro cao hơn khi chuyển sang hoạt động thu nhập ngoài lãi Hidayat và cộng sự (2012) cũng đã nghiên cứu mối quan hệ giữa đa dạng hóa sản phẩm và hiệu quả tài chính của ngân hàng.
21 phẩm và rủi ro ngân hàng đối với các ngân hàng Indonesia và cho thấy hiệu quả của việc đa dạng hóa phụ thuộc vào quy mô ngân hàng
Nghiên cứu của Berger, Hasan và Zhou về 88 ngân hàng Trung Quốc từ 1996-2006 cho thấy sự đa dạng hóa dẫn đến lợi nhuận giảm và chi phí tăng cao Ngược lại, nghiên cứu của Zhou (2014) với 62 ngân hàng thương mại Trung Quốc trong giai đoạn 1997-2012 không phát hiện mối liên hệ nào giữa đa dạng hóa thu nhập và rủi ro ngân hàng.
Nghiên cứu của Minh và cộng sự (2015) áp dụng phương pháp ước lượng SGMM cho 22 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2007-2013, nhằm phân tích tác động của đa dạng hóa thu nhập và các yếu tố khác đến khả năng sinh lời của ngân hàng Kết quả cho thấy chỉ số đa dạng hóa thu nhập có mối quan hệ thuận với khả năng sinh lời, trong khi các chỉ tiêu như tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản, tỷ lệ tiền gửi khách hàng và lạm phát cũng có tương quan tích cực Ngược lại, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập có mối quan hệ nghịch với khả năng sinh lời Nghiên cứu không phát hiện tác động của quy mô tổng tài sản và tốc độ tăng trưởng kinh tế đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Nghiên cứu của Vinh và cộng sự (2015) sử dụng phương pháp ước lượng hồi quy dữ liệu bảng không cân bằng với mẫu 37 NHTM Việt Nam giai đoạn 2006 -
Nghiên cứu năm 2013 sử dụng các phương pháp hồi quy FEM, GMM và REM để đo lường lợi nhuận điều chỉnh rủi ro của các ngân hàng Kết quả cho thấy rằng sự đa dạng hóa trong hoạt động ngân hàng dẫn đến lợi nhuận cao hơn, tuy nhiên, lợi nhuận điều chỉnh rủi ro lại giảm, đồng nghĩa với việc rủi ro gia tăng Đáng lưu ý, nghiên cứu chưa xem xét tác động của các biến kinh tế vĩ mô trong mô hình phân tích.
Nghiên cứu của Lê Long Hậu và Phạm Xuân Quỳnh (2016) đã sử dụng dữ liệu từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của 26 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2006-2014, nhằm khám phá mối quan hệ giữa các yếu tố tài chính quan trọng.
Đa dạng hóa thu nhập có tác động tích cực đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam, theo kết quả ước lượng hồi quy dữ liệu bảng với các mô hình tác động cố định và ngẫu nhiên Cụ thể, ngân hàng càng đa dạng hóa thu nhập thì khả năng sinh lời càng cao Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng thu nhập thuần ngoài lãi, dư nợ cho vay, quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô ngân hàng, tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát đều có tác động tích cực đến hiệu quả kinh doanh, trong khi chi phí hoạt động và tiền gửi khách hàng lại ảnh hưởng tiêu cực.
2.4.2 Giả thuyết nghiên cứu đề xuất
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô hình nghiên cứu
Sử dụng mô hình nghiên cứu tương tự như của Sanya & Wolfe (2011), Sissy
& cộng sự (2016), tác giả xem xét tác động của đa dạng hóa đến lợi nhuận của NHTM Việt Nam thông qua mô hình tổng quát như sau:
Profitit = a0 + a1 * Profitit-1 + a2* DIVit + a3 * LAit + a4 * TAit + a5 * DAit + a6 * Efft + a7 * ASGRit + a8 * LGRit + a 9 * GDPt + a10* INFt + £it
Profitit là chỉ số lợi nhuận của ngân hàng i trong năm t, được đo lường qua ROAA và ROAE, phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận trên mỗi đồng tài sản và vốn chủ sở hữu Đây là các chỉ số quan trọng để đánh giá biến lợi nhuận ngân hàng, đã được nhiều tác giả sử dụng trong các nghiên cứu trước Profitit-1 thể hiện lợi nhuận của ngân hàng i trong năm trước đó (t-1) Nghiên cứu của Sanya và cộng sự (2011) về các ngân hàng ở các quốc gia mới nổi đã áp dụng mô hình này để phân tích hiệu quả lợi nhuận.
Nghiên cứu năm 2011 nhằm phân tích tác động của đa dạng hóa thu nhập đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại Việt Nam, tương tự như các nước có nền kinh tế mới nổi Đề tài chỉ tập trung vào mối quan hệ giữa đa dạng hóa thu nhập và lợi nhuận, không xem xét các yếu tố rủi ro như trong các nghiên cứu của Chiorazzo và cộng sự (2008), Lee và cộng sự (2014), Sanya và cộng sự (2011), và Vinh và cộng sự (2015) Tác giả áp dụng cách tính biến đa dạng hóa (DIV) theo nghiên cứu của Chiorazzo (2008) và bổ sung biến kiểm soát vĩ mô, từ đó xây dựng mô hình nghiên cứu cụ thể.
Mô hình 1: biến ROAA là biến phụ thuộc để đo lường lợi nhuận của ngân hàng
ROAAit = α0 + α1 * ROAAit-1 + α2* DIVit + α3 * LAit + α4 * TAit + α5 * DAit
+ α6 * Efft + α7 * ASGRit + α8 * LGRit + α9 * GDPt + α10* INFt + £it
Mô hình 2: biến ROAE là biến phụ thuộc để đo lường lợi nhuận của ngân hàng
ROAEit = β0 + β1 * ROAEit-1 + β2* DIVit + β3 * LAit + β4 * TAit + β5 * DAit
+ β6 * Efft + β7 * ASGRit + β8 * LGRit + β9 * GDPt + β10* INFt + £it
Lợi nhuận của ngân hàng thường được đánh giá thông qua hai chỉ số quan trọng là ROAAit và ROAEit Các chỉ số này đã được áp dụng trong nhiều nghiên cứu trước đây để đo lường hiệu quả lợi nhuận của ngân hàng, như trong các nghiên cứu của Chiorazzo và cộng sự (2008), Lee và cộng sự (2014), và Vinh và cộng sự.
Năm 2015, Cành và cộng sự đã chỉ ra rằng các chỉ số ROAA và ROAE là công cụ quan trọng để đo lường khả năng sinh lợi của ngân hàng trên tài sản và vốn chủ sở hữu.
- Cách đo lường đa dạng hóa thu nhập ngân hàng thương mại:
Chỉ số Herfindahl-Hirschman là công cụ quan trọng để đánh giá mức độ tập trung các nguồn thu nhập của ngân hàng, bao gồm hai thành phần chính: thu nhập lãi và thu nhập ngoài lãi, như được trình bày trong nghiên cứu của Gurbuz và cộng sự.
(2013), Vinh và cộng sự (2015) về cách tính chỉ số đa dạng hóa thu nhập như sau:
Chỉ số HHI có giá trị từ 0,5 trở lên, với giá trị nhỏ nhất là 0,5, cho thấy mức độ đa dạng hóa thu nhập cao nhất Khi HHI lớn hơn 0,5, điều này cho thấy mức độ đa dạng hóa thu nhập kém và nguồn thu tập trung.
Để dễ dàng giải thích ý nghĩa của chỉ số đa dạng hóa thu nhập cao, tác giả nhấn mạnh rằng do đặc điểm của các nguồn thu nhập có thể âm, đa dạng hóa càng hoàn hảo sẽ mang lại lợi ích rõ ràng hơn.
Theo nghiên cứu của Chiorazzo và cộng sự (2008), có 30 cách để tính chỉ số đa dạng hóa thu nhập (DIV), nhằm đo lường mức độ đa dạng hóa thu nhập trong các bài nghiên cứu.
NET là thu nhập lãi thuần trên báo cáo tài chính ngân hàng
NON là nguồn thu nhập ngoài lãi, bao gồm tổng lãi hoặc lỗ từ các hoạt động dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, mua bán chứng khoán kinh doanh và đầu tư, cùng với lãi hoặc lỗ từ các hoạt động khác và thu nhập từ việc góp vốn mua cổ phần.
NETOP là tổng thu nhập gồm thu nhập lãi và thu nhập ngoài lãi
- Kết luận việc giải thích ý nghĩa biến đa dạng hóa thu nhập (DIV) như sau:
Chỉ số DIV phản ánh mức độ đa dạng hóa thu nhập của ngân hàng, với giá trị tối đa đạt 0.5, cho thấy sự đa dạng hóa hoàn hảo Khi chỉ số này giảm xuống dưới 0.5, thậm chí có thể âm, mức độ đa dạng hóa thu nhập của ngân hàng sẽ giảm theo.
Giả thuyết kiểm định cho biến DIVit: α2 và β2 > 0 hay kì vọng tác động cùng chiều của đa dạng hóa thu nhập đến lợi nhuận ngân hàng
Chỉ số dư nợ của ngân hàng trong năm phản ánh hoạt động tín dụng và ảnh hưởng đến thu nhập ngoài lãi từ cho vay Việc điều chỉnh tỉ lệ dư nợ tín dụng trên tổng tài sản giúp ngân hàng kiểm soát và đa dạng hóa nguồn thu nhập, từ đó tối ưu hóa lợi nhuận (DeYoung và cộng sự 2001, Gurbuz và cộng sự 2013, Stiroh và cộng sự 2004b, Vinh và cộng sự 2015).
Giả thuyết kiểm định cho biến LAit cho rằng cả hai hệ số α3 và β3 đều lớn hơn 0, điều này cho thấy kỳ vọng rằng tác động của tỉ lệ dư nợ tín dụng trên tổng tài sản đến lợi nhuận ngân hàng là tích cực.
TAit là chỉ số thể hiện quy mô của ngân hàng Khi ngân hàng có tài sản lớn, điều này cho thấy hoạt động của họ rộng rãi và có tiềm lực cơ sở vật chất mạnh, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng hoạt động.
Việc kinh doanh và đầu tư vào dịch vụ mới là một xu hướng quan trọng, như đã được Chiorazzo và cộng sự (2008) chỉ ra Nhiều nghiên cứu trước đây, bao gồm Gurbuz và cộng sự (2013), Lee và cộng sự (2014), và Vinh và cộng sự (2015), cũng đã nhấn mạnh vai trò của việc biến tài sản trong quá trình này.
Giả thuyết kiểm định cho biến TAit: α4 và β4> 0 hay kì vọng tác động cùng chiều của quy mô tổng tài sản đến lợi nhuận ngân hàng
DAit là chỉ số thể hiện tỷ lệ tiền gửi của khách hàng so với tổng tài sản, được tính bằng phần trăm Tỉ lệ cao cho thấy ngân hàng huy động nhiều vốn để hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư và cho vay (Lepetit và cộng sự 2008, Vinh và cộng sự 2015).
Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu được thu thập từ các bản báo cáo tài chính hợp nhất hàng năm của 32 ngân hàng thương mại Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2011-2018 Dữ liệu được lấy trên trang web cổng thông tin trực tuyến về tài chính và chứng khoán http://finance.vietstock.vn cũng như trang web chính thức của chính các ngân hàng, và dữ liệu từ Thomson reuter qua trung tâm cơ sở dữ liệu của trường UEH Với dữ liệu các biến vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) và tỉ lệ lạm phát (INF) thì được thu thập từ Worldbank Dữ liệu bảng thu thập là dữ liệu bảng không cân bằng
Trong nghiên cứu này, 32 ngân hàng thương mại Việt Nam được chọn đại diện cho 100% thị phần trong hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam, bao gồm 31 ngân hàng thương mại cổ phần và 1 ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến ngày 31/12/2017, toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam bao gồm 32 ngân hàng.
Phương pháp ước lượng với dữ liệu bảng là công cụ chính trong nghiên cứu mô hình Dữ liệu bảng ngày càng phổ biến nhờ vào những ưu điểm vượt trội mà nó mang lại.
Bài nghiên cứu này tập trung vào 33 yếu tố không gian và thời gian, nhấn mạnh ưu điểm của dữ liệu bảng trong việc cung cấp thông tin phong phú, gia tăng số lượng quan sát bậc tự do, giảm thiểu hiện tượng đa cộng tuyến và phân tích tính không đồng nhất giữa các cá biệt Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, các phương pháp lượng như Pooled OLS, FEM, REM, FGLS và GMM đã được áp dụng.
Mô hình Pooled OLS là phương pháp ước lượng bình phương bé nhất, nhưng không tính đến sự khác biệt giữa các cá thể trong không gian, mặc dù dữ liệu có sự khác biệt Việc xem xét các cá thể không gian như một thực thể thống nhất dẫn đến kết quả ước lượng kém chính xác.
Mô hình ước lượng tác động cố định (FEM) giả định rằng mỗi cá thể có những đặc điểm riêng biệt ảnh hưởng đến biến độc lập FEM giúp kiểm soát và tách biệt ảnh hưởng không đổi theo thời gian để ước lượng chính xác tác động của biến độc lập đến biến phụ thuộc Trong trường hợp xuất hiện hiện tượng phương sai của sai số thay đổi và tự tương quan của phần dư, phương pháp ước lượng FGLS (Feasible Generalized Least Squares) sẽ được áp dụng để khắc phục những khiếm khuyết trong mô hình FEM hoặc REM.
Khi mô hình nghiên cứu gặp vấn đề nội sinh, việc sử dụng các mô hình kinh tế lượng như FEM, REM và Pooled OLS có thể dẫn đến kết quả không chính xác Do đó, phương pháp ước lượng GMM (Generalized Method of Moments) được khuyến nghị vì khả năng khắc phục tự tương quan, phương sai sai số thay đổi và hiện tượng nội sinh Nhiều nghiên cứu trước đây, như của Acharya và Baele, đã áp dụng thành công phương pháp này.
Năm 2007, Stiroh và cộng sự (2006), Vinh và cộng sự (2015) đã chỉ ra rằng mô hình tồn tại hiện tượng nội sinh, do đó tác giả áp dụng phương pháp ước lượng GMM Hiện tượng nội sinh trong mô hình này xuất phát từ lý thuyết nghiên cứu trước, trong đó quyết định đa dạng hóa thu nhập phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh của từng thời kỳ Hơn nữa, phần dư có tác động đến biến độc lập, trong khi lợi nhuận năm nay bị ảnh hưởng bởi đa dạng hóa thu nhập năm trước, và biến phụ thuộc (ROAA, ROAE) cũng tác động ngược đến biến quy.
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp ước lượng GMM theo Arellano và cộng sự (1991) nhằm khắc phục các vấn đề nội sinh, khiếm khuyết định lượng và tăng cường tính tin cậy cho kết quả ước lượng Qua đó, nghiên cứu tập trung vào 34 mô tài sản (TA) và tỷ lệ gia tăng tổng tài sản (ASGR) để đưa ra những kết luận chính xác về kết quả định lượng.
Chương 3 xác định mô hình nghiên cứu, mô tả và cách tính các biến nghiên cứu một cách cụ thể Ngoài ra, chương này còn giới thiệu mẫu nghiên cứu là dữ liệu được thu thập từ bản báo cáo tài chính hợp nhất hàng năm của 32 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2018 Tác giả trình bày chi tiết về phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp ước lượng GMM (Generalized method of moments) vì những ưu điểm sau: khắc phục tự tương quan, phương sai của sai số thay đổi và hiện tượng nội sinh