Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm cung cấp những cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc nâng cao hiệu quả xây dựng mô hình khuyến lâm với các loài cây lâm sản ngoài gỗ, góp phần nâng cao đời sống của người dân ở tỉnh Quảng Ninh. Mời các bạn cùng tham khảo!
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Khái niệm và một số định nghĩa về khuyến lâm
Khuyến lâm là hình thức đào tạo và rèn luyện kỹ năng cho nông dân, giúp họ nắm vững các chính sách nông nghiệp, kiến thức kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý và thông tin thị trường Điều này trang bị cho họ khả năng tự giải quyết các vấn đề trong gia đình và cộng đồng, từ đó thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí và đóng góp vào sự phát triển nông thôn.
Khuyến lâm là quá trình chuyển giao kiến thức và đào tạo kỹ năng cho nông dân, nhằm trang bị cho họ những điều kiện vật chất cần thiết để quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng trong cộng đồng.
Khuyến lâm là phương pháp giáo dục ngoài học đường dành cho nông dân, tập trung vào việc vận động, quảng bá và khuyến cáo theo nguyên tắc tự nguyện, không áp đặt Quá trình này giúp nông dân tiếp thu kiến thức và kỹ năng một cách dần dần và tự giác, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Lịch sử và hoạt động khuyến nông khuyến lâm ở trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1 Lịch sử và hoạt động khuyến nông khuyến lâm trên thế giới
Vào ngày 01/09/1919, Luật Lâm nghiệp chính thức có hiệu lực, dẫn đến việc thành lập Ủy ban Lâm nghiệp (Khuyến lâm) chịu trách nhiệm quản lý rừng tại Anh, Scotland, Wales và Ireland Tổ chức này được chia thành mười phòng, với tổng cộng 29 nhân viên ở cấp trung ương và cấp huyện, cùng với 110 kiêm lâm viên.
Sau 10 năm đã có 152 khu rừng được quản lý với diện tích khoảng 600.000 mẫu Anh và hơn 138,000 mẫu Anh đã được trồng
Năm 1939, Ủy ban Lâm nghiệp tách thành Cục Kiểm lâm, và Cục
Hệ thống khuyến lâm đã được thành lập cách đây 90 năm và đã góp phần nâng tỷ lệ che phủ rừng của toàn nước Anh lên 5% Hiện tại, diện tích rừng đạt khoảng 2.982.000 ha, chiếm 13% tổng diện tích đất của nước này.
Hoạt động khuyến nông lâm tại Nhật Bản đã bắt đầu từ những năm 1900, với sự tham gia của các trường học và trang trại chính phủ trong việc thử nghiệm và áp dụng công nghệ mới Qua thời gian, khuyến nông lâm đã được chính thức hóa bằng pháp luật và đội ngũ cán bộ được xây dựng để hỗ trợ nông dân Trong bối cảnh cải cách xã hội, nông dân đã phải tuân thủ các hướng dẫn kỹ thuật từ cán bộ khuyến nông lâm, được gọi là "Khuyến nông bắt buộc" Đến năm 1948, dịch vụ khuyến nông chính thức được khôi phục tại Nhật Bản.
“Dịch vụ Khuyến nông Hợp tác xã” và phát triển đến nay
Dịch vụ khuyến nông tại Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện kỹ thuật sản xuất nông lâm nghiệp, nâng cao tiêu chuẩn sống của cộng đồng dân cư ở vùng nông thôn và giáo dục thế hệ trẻ tại các khu vực này.
Bộ Lâm nghiệp, Nông nghiệp và Thủy sản (MAFF) là cơ quan hỗ trợ Chính phủ Nhật Bản trong việc thực hiện dịch vụ khuyến nông lâm trên toàn quốc Đội ngũ cán bộ khuyến nông lâm hiện có khoảng 10.000 người, hoạt động như các chuyên gia cố vấn, được phân bổ chủ yếu tại 47 cơ quan khuyến nông cấp tỉnh và 630 cơ quan khuyến nông lâm cấp huyện Mỗi tỉnh đều có một trung tâm đào tạo nông dân để nâng cao kỹ năng và kiến thức cho người nông dân.
+ Chính phủ tạo hành lang pháp lý về khuyến nông lâm, phát triển nông thôn, với phương châm “thể chế mạnh và minh bạch”;
Chương trình hỗ trợ 40% kinh phí cho các hoạt động dịch vụ khuyến nông từ các tổ chức khuyến nông địa phương, trong khi phần còn lại sẽ do người dân, doanh nghiệp đóng góp và có thể bao gồm cả sự huy động từ các tổ chức khuyến nông lâm.
Hoạt động khuyến nông, khuyến lâm nước Mỹ được hình thành từ năm
Vào năm 1843, tác giả Alfred Charles True trong cuốn "Lịch sử khuyến nông nước Mỹ" đã ghi nhận rằng bang New York đã cấp kinh phí cho Hội đồng bang để thuê các nhà khoa học nông nghiệp có kỹ năng thực hành tốt Những giảng viên khuyến nông này được cử xuống các thôn xã nhằm đào tạo nông dân về kiến thức khoa học và thực hành trong lĩnh vực nông lâm nghiệp.
Từ cuối những năm 1980, Chính phủ Mỹ đã chú trọng đến đào tạo khuyến nông lâm tại các trường đại học Năm 1891, bang New York đã đầu tư 10.000 USD cho công tác này, đánh dấu bước tiến quan trọng trong lĩnh vực đào tạo khuyến nông lâm Đến năm 1907, sự phát triển của chương trình đào tạo này tiếp tục được mở rộng.
Mỹ đã có 42 trường/39 bang có đào tạo khuyến nông lâm Năm 1910 có 35 trường có bộ môn khuyến nông, khuyến lâm
Năm 1914, Hoa Kỳ đã thông qua luật khuyến nông lâm và thiết lập Hệ thống khuyến nông khuyến lâm quốc gia, trong đó có 8861 Hội nông dân với khoảng 3.050.150 hội viên tham gia.
Hội khuyến nông Ấn Độ được thành lập vào năm 1820 với mục tiêu cải tiến ngành nông nghiệp, trong khi Cục Lâm nghiệp Hoàng gia ra đời vào năm 1864 Luật lâm nghiệp được thông qua năm 1865, thiết lập ranh giới chủ rừng và được hoàn thiện vào năm 1878 Hệ thống khuyến nông lâm của Ấn Độ được thành lập vào năm 1960, và vào những năm 1970, Ấn Độ công bố chiến lược phát triển lâm nghiệp dài hạn nhằm giảm xói mòn đất, lũ lụt, đáp ứng nhu cầu sản phẩm gỗ trong nước và cung cấp nhiên liệu cho cư dân nông thôn Ủy ban Quốc gia về Lâm nghiệp được thành lập năm 1976 và các sở lâm nghiệp được tổ chức lại, cùng với sự ra đời của Ủy ban lâm nghiệp xã hội nhằm thúc đẩy hoạt động lâm nghiệp truyền thống và phát triển rừng cộng đồng thông qua quản lý và khuyến lâm.
Trong năm 1980, lâm nghiệp xã hội được khuyến khích bởi các cơ quan lâm nghiệp cộng đồng Chính sách lâm nghiệp quốc gia được phê duyệt năm
Năm 1988, một trong những chính sách quan trọng là Chương trình quản lý rừng, giao trách nhiệm cụ thể cho Bộ Lâm nghiệp trong việc quản lý các lô rừng Đặc biệt, việc bảo vệ rừng được coi là trách nhiệm của người dân Đến năm 1992, mười bảy tiểu bang của Ấn Độ đã tham gia vào công tác quản lý rừng, và đến năm 2006, Luật chủ rừng được ban hành để củng cố các quy định liên quan.
Hệ thống khuyến nông khuyến lâm Trung Quốc được thành lập năm
Từ năm 1970, công tác đào tạo khuyến nông tại Trung Quốc nhận được sự chú trọng đặc biệt Trong giai đoạn 1951 – 1978, Trung Quốc đã tổ chức hợp tác xã (HTX) và công xã nhân dân, do đó hoạt động khuyến nông chủ yếu được triển khai tại các HTX Nội dung của công tác khuyến nông trong giai đoạn này tập trung vào việc phổ biến các chủ trương nông nghiệp của Đảng và Chính phủ, đồng thời chuyển giao công nghệ kỹ thuật nông nghiệp, xây dựng các mô hình điểm để thực hiện thăm quan, học tập và áp dụng.
Từ năm 1995, Trung Quốc đã triển khai các chính sách hỗ trợ nông nghiệp nhằm sản xuất sản phẩm chất lượng cao, bao gồm chương trình khuyến nông lâm chuyển giao giống cây rừng và lúa lai Trong hai mươi năm qua, Nhà nước đã đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống tổ chức và cơ sở nghiên cứu cho khuyến nông khuyến lâm, cải thiện điều kiện làm việc và mức sống của khuyến nông lâm viên Theo tác giả Phạm Kim Oanh (2004), tính đến cuối năm 1997, cả nước có hơn 48.500 tổ chức khuyến nông khuyến lâm với hơn 317 nghìn khuyến nông - khuyến lâm viên, phối hợp cùng khoảng 400 nghìn tổ chức nông dân, chiếm 20% số làng ở Trung Quốc, và có hơn một triệu nông dân là kỹ thuật viên cùng 6,6 triệu mô hình trình diễn của nông dân.
Công tác khuyến nông lâm tại Campuchia do Cục Khuyến nông (DAE) thuộc Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản (MAFF) đảm nhiệm, với mục tiêu phát triển hệ thống khuyến nông từ Trung ương đến cấp huyện, đáp ứng nhu cầu của quốc gia Một trong những chiến lược quan trọng là xây dựng hệ thống khuyến nông đến các xã và thôn bản DAE thực hiện các hoạt động khuyến nông thông qua sự phối hợp với các bộ phận kỹ thuật, tổ chức nghiên cứu, cơ quan cấp tỉnh, cũng như khu vực tư nhân, nhằm mang lại lợi ích tối ưu cho nông dân Các hoạt động khuyến nông lâm tại Campuchia tập trung vào phương pháp phát triển hệ thống canh tác quy mô trang trại, bao gồm lập kế hoạch và đánh giá có sự tham gia, phát triển công nghệ, đào tạo và mở rộng, cũng như phát triển và phổ biến tài liệu cho tổ chức nông dân.
Indonesia là một quốc gia có nền nông nghiệp phát triển, với Trung tâm khuyến lâm thuộc Bộ Lâm nghiệp quản lý các hoạt động khuyến lâm và phát triển lâm nghiệp bền vững Theo Nur Hidayat (2009), hiện tại Indonesia có hơn 30.000 cán bộ khuyến nông, trong đó có hơn 5.200 khuyến lâm viên.
Về khuyến lâm
Từ năm 1993 đến 1995, bộ phận khuyến lâm được thành lập tại Vụ Lâm sinh thuộc Bộ Lâm nghiệp Từ năm 1996 đến 2000, phòng Khuyến lâm đã được thành lập trực thuộc Cục Khuyến nông - Khuyến lâm.
Từ năm 2001 đến 2004, phòng Khuyến lâm được thành lập trực thuộc Cục Phát triển lâm nghiệp, và từ năm 2005 đến 2010, phòng Khuyến lâm thuộc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia ra đời Tại địa phương, trong số 63 tỉnh thành, chỉ một vài tỉnh thành lập phòng Khuyến lâm thuộc Trung tâm Khuyến nông tỉnh, với mỗi Trung tâm chỉ có từ 1-2 cán bộ được đào tạo về lâm nghiệp trong tổng số 20-25 cán bộ khuyến nông.
Theo báo cáo, chỉ có 4/73 cán bộ ở cấp Trung ương, 96/1431 ở cấp tỉnh, 295/2813 ở cấp huyện và 1.942/15.362 ở cấp xã được đào tạo về lâm nghiệp Điều này cho thấy số lượng cán bộ khuyến lâm chỉ chiếm khoảng 10% tổng số cán bộ khuyến nông chuyên trách.
Hệ thống khuyến lâm hiện nay không chỉ thiếu về số lượng mà còn yếu về chất lượng, do đội ngũ cán bộ khuyến lâm chủ yếu được đào tạo chuyên sâu trong lĩnh vực riêng, nhưng lại thiếu kiến thức liên ngành và các kiến thức cơ bản về khuyến lâm.
Kinh phí hoạt động cho hoạt động khuyến lâm nằm trong kinh phí cấp theo các chương trình khuyến nông được phê duyệt
Giai đoạn 1993-2005, sau khi thành lập vào năm 1993, công ty đã nhận được sự hỗ trợ đầu tư từ Chính phủ với số tiền 1,268 tỷ đồng Đến năm 2005, con số này đã tăng lên 97,8 tỷ đồng, với mức tăng bình quân hàng năm đạt hơn 8,04 tỷ đồng, tương đương trên 12%.
Năm 2005, kinh phí hỗ trợ cho hoạt động khuyến nông đạt 542,931 tỷ đồng, trong đó kinh phí dành cho khuyến lâm là 66,6 tỷ đồng, chiếm khoảng 12,6% Hoạt động này đã được triển khai trên tổng diện tích 19.940 ha.
Trong số 20.804 hộ tham gia, nhiều chương trình nổi bật đã được triển khai, bao gồm chương trình trồng tre lấy măng, chương trình trồng cây nguyên liệu giấy và chương trình trồng cây đặc sản.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong giai đoạn 2006-2011, chương trình khuyến lâm đã được triển khai tại 55 tỉnh với sự tham gia của 51.575 hộ dân Tổng kinh phí cho chương trình đạt 76 tỷ đồng, chiếm 9% trong tổng số 843,880 tỷ đồng dành cho hoạt động khuyến nông Các chương trình cụ thể bao gồm trồng rừng thâm canh cây nguyên liệu, cây gỗ lớn, cây lâm sản ngoài gỗ và đào tạo nghiệp vụ khuyến lâm cho cán bộ kiểm lâm.
Trong nhiều năm qua, quản lý kinh phí khuyến lâm tại trung ương vẫn còn phân tán với nhiều đơn vị thực hiện như Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Cục Chế biến nông lâm sản và nghề muối, Cục Lâm nghiệp, Cục Trồng trọt và Cục Chăn nuôi Kinh phí khuyến lâm bao gồm nhiều hạng mục và có sự khác biệt rõ rệt giữa các vùng miền Các vùng miền núi và vùng đặc biệt khó khăn được ưu tiên hỗ trợ 60% chi phí giống và 40% chi phí vật tư, trong khi vùng đồng bằng chỉ nhận hỗ trợ 40% và 20% cho việc xây dựng mô hình.
Các địa phương đều chú trọng đến chính sách khuyến nông và khuyến lâm viên cơ sở, nhưng việc áp dụng các chế độ chính sách chưa đồng nhất và chủ yếu phụ thuộc vào nguồn kinh phí của từng địa phương.
Nhận xét, đánh giá chung
Điểm qua tình hình phát triển khuyến nông lâm ở trên thế giới và ở Việt Nam có thể rút ra nhận xét như sau :
Công tác khuyến lâm đang được nhiều quốc gia chú trọng phát triển, với việc thành lập các bộ phận chuyên trách và đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu kỹ thuật trong sản xuất Kết quả đạt được đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của hệ thống lâm nghiệp, đảm bảo đời sống cho người dân và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu Tại Việt Nam, khuyến nông lâm đã được coi trọng từ thời phong kiến, và mặc dù trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, công tác này vẫn được ưu tiên để đảm bảo an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp Các trung tâm khuyến nông từ Trung ương đến địa phương đã được thành lập với đội ngũ cán bộ đông đảo, nhằm cải thiện sinh kế cho cộng đồng, xóa đói giảm nghèo và phát triển rừng bền vững, đặc biệt trong bối cảnh 3/4 diện tích đất nước là đồi núi và đời sống người dân phụ thuộc nhiều vào rừng.
Hằng năm, chính phủ đầu tư hàng tỷ đồng cho công tác khuyến lâm từ trung ương đến địa phương Tuy nhiên, không phải tất cả các mô hình khuyến lâm đều đạt hiệu quả tốt Việc xác định những bất cập trong quá trình chuyển giao các mô hình này là rất cần thiết Trả lời những câu hỏi này sẽ giúp định hướng phát triển khuyến lâm trong giai đoạn tiếp theo, từ đó nâng cao hiệu quả của các chương trình khuyến lâm.
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
Nâng cao hiệu quả xây dựng mô hình khuyến lâm với các loài cây lâm sản ngoài gỗ tại tỉnh Quảng Ninh không chỉ dựa trên cơ sở khoa học mà còn cần thực tiễn áp dụng Việc này sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống của người dân địa phương.
2.1.2 Mục tiêu cụ thể Đánh giá được hiệu quả của một số mô hình trồng cây LSNG do địa phương thực hiện : mô hình trồng Ba kích (Morinda officinalis How), Mây nếp (Calamus tetradactylus Hance), tre Bát độ(Dendrocalamus latiflorus) tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006 – 2011 Đề xuất được một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả xây dựng mô hình khuyến lâm nói chung và mô hình trồng cây LSNG nói riêng từ đó có thể áp dụng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, làm cơ sở để nhân rộng.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG tại tỉnh Quảng Ninh bao gồm các loại cây như Ba kích (Morinda officinalis How), Mây nếp (Calamus tetradactylus Hance) và tre Bát độ (Dendrocalamus latiflorus) Những cây này không chỉ mang lại giá trị kinh tế cao mà còn góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững Việc áp dụng các mô hình này giúp nâng cao thu nhập cho người dân địa phương và cải thiện sinh kế.
Nội dung nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu, bài viết sẽ đánh giá thực trạng tổ chức triển khai mô hình khuyến lâm trồng cây lâm sản ngoài gỗ như Ba kích, Mây nếp và Tre bát độ tại tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2006 - 2011.
Mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG, bao gồm cây Ba kích, Mây nếp và tre Bát độ, đã được triển khai tại tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn 2006-2011, mang lại những kết quả tích cực Đánh giá kết quả cho thấy mô hình này không chỉ cải thiện thu nhập cho người dân địa phương mà còn góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững Việc áp dụng các kỹ thuật trồng trọt tiên tiến đã giúp tăng năng suất cây trồng, đồng thời nâng cao nhận thức của cộng đồng về lợi ích của việc trồng rừng và bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên.
+ Đánh giá tác động của một số mô hình khuyến lâm đã xây dựng tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006-2011 (Ba kích, Mây nếp, tre Bát độ)
Trong giai đoạn hiện nay, việc triển khai xây dựng các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG tại tỉnh Quảng Ninh gặp nhiều thuận lợi như sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương và nhu cầu thị trường tăng cao Tuy nhiên, cũng tồn tại những khó khăn như thiếu nguồn lực và kinh nghiệm trong quản lý mô hình Qua quá trình thực hiện, bài học kinh nghiệm rút ra là cần tăng cường đào tạo cho người dân và xây dựng mạng lưới hỗ trợ bền vững để đảm bảo sự phát triển hiệu quả và bền vững của các mô hình này.
Để nâng cao hiệu quả trong công tác xây dựng mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG, cần đề xuất một số giải pháp cụ thể Trước tiên, việc tăng cường đào tạo và nâng cao nhận thức cho người dân về lợi ích của cây LSNG là vô cùng quan trọng Thứ hai, cần thiết lập các chương trình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong lâm nghiệp, giúp người dân áp dụng các phương pháp trồng trọt hiện đại Cuối cùng, việc hợp tác giữa các cơ quan chức năng và cộng đồng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển mô hình khuyến lâm bền vững.
Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Quan điểm và cách tiếp cận
Hoạt động khuyến lâm là rất quan trọng đối với Việt Nam, nơi có 3/4 diện tích là đồi núi và nhiều người dân sống phụ thuộc vào rừng Tuy nhiên, hiệu quả của các mô hình khuyến lâm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, với một số mô hình được người dân hưởng ứng nhiệt tình, trong khi những mô hình khác lại không phù hợp Nguyên nhân không thành công có thể là do chất lượng mô hình kém, tổ chức thực hiện không hiệu quả hoặc công tác tuyên truyền chưa tốt Do đó, việc đánh giá hiệu quả các mô hình khuyến lâm, đặc biệt là mô hình trồng cây LSNG, cần phải dựa trên một cách tiếp cận toàn diện, tổng hợp các yếu tố liên quan Đề tài thực hiện điều tra từ trên xuống và đánh giá từ dưới lên, trong khi kế thừa các công trình nghiên cứu trước đó và bổ sung các nội dung còn thiếu.
Hình 2.1: Sơ đồ các nội dung đánh giá:
2.4.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể
2.4.2.1 Phương pháp kế thừa số liệu, tài liệu
- Để thực hiện được các nội dung nghiên cứu trên, đề tài kế thừa các nguồn thông tin, số liệu sau:
Tỉnh Quảng Ninh có những điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội đặc trưng, được thể hiện qua các số liệu và tài liệu liên quan Trong giai đoạn 2006-2011, nhiều thông tin, báo cáo và tài liệu về tình hình thực hiện các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG như Ba kích, Mây nếp và Tre bát độ đã được thu thập từ Trung tâm Khuyến nông tỉnh Quảng Ninh cũng như Trung tâm Khuyến nông Quốc gia.
+ Các văn bản pháp quy có liên quan tới chính sách và tổ chức thực hiện hoạt động khuyến nông, khuyến lâm ở Việt Nam 2006 - 2011
2.4.2.2 Đánh giá thực trạng tổ chức triển khai xây dựng các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG ở tỉnh Quảng Ninh , giai đoạn 2006 – 2011 Để đánh giá thực trạng các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG (Ba kích, Mây nếp, tre Bát độ) được triển khai tại Quảng Ninh giai đoạn 2006-
2011, đề tài kế thừa số liệu và làm việc với các đơn vị để thu thập những thông tin
Phương pháp chính được sử dụng để thu thập thông tin trong đề tài là bộ công cụ PRA, thông qua việc phỏng vấn các đối tượng liên quan và thu thập tài liệu sơ cấp Đặc biệt, chúng tôi đã làm việc với lãnh đạo của Trung tâm Khuyến nông Quốc gia để làm rõ những vấn đề quan trọng.
- Chủ trương của Đảng, nhà nước và của ngành lâm nghiệp về vấn đề khuyến lâm trong giai đoạn 2006 - 2011 và trong giai đoạn tiếp theo
Trong giai đoạn 2006 - 2011, ngành lâm nghiệp đã thực hiện nhiều dự án khuyến lâm và xây dựng các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG tại nhiều tỉnh Các dự án này có quy mô diện tích lớn với nguồn vốn đầu tư đa dạng Các loài cây trồng và biện pháp kỹ thuật áp dụng trong các mô hình được lựa chọn phù hợp với điều kiện địa phương Đơn vị thực hiện các dự án này đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển lâm nghiệp bền vững.
Cần tiến hành điều tra để xác định những thuận lợi và khó khăn của ngành trong việc triển khai các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG Đánh giá số lượng mô hình khuyến lâm đã được xây dựng và xác định bao nhiêu trong số đó được coi là thành công Hơn nữa, cần xem xét mức độ chấp nhận và khả năng nhân rộng các mô hình này của người dân địa phương.
2.4.2.3 Đánh giá kết quả của một số mô hình khuyến lâm đã xây dựng tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006-2011
Để đánh giá hiệu quả các mô hình khuyến lâm được xây dựng tại Quảng Ninh trong giai đoạn 2006-2011, nghiên cứu này đã tiến hành lựa chọn các mô hình phù hợp.
- Mô hình trồng cây Ba kích, mô hình trồng cây Mây nếp, mô hình trồng tre Bát độ
- Mô hình đánh giá phải nằm trên các địa bàn các huyện khác nhau
Trong cùng một xã thuộc huyện, với điều kiện tự nhiên và lập địa tương đồng, việc trồng và chăm sóc được thực hiện đồng thời nhằm so sánh hiệu quả giữa mô hình Hệ thống Khuyến nông Liên kết (MHKL) và mô hình đại trà.
Để đánh giá hiệu quả của từng mô hình đề tài, cần tổ chức triển khai một cách có hệ thống bằng cách so sánh kế hoạch triển khai với kết quả nghiệm thu, bao gồm diện tích thực hiện, tỷ lệ sống, cũng như công tác thông tin tuyên truyền và đào tạo, tập huấn.
Để đánh giá tình hình sinh trưởng, bài nghiên cứu tiến hành đo các chỉ tiêu như đường kính 1,3m, chiều cao vút ngọn của cây, số cây/bụi đối với Tre bát độ và Mây nếp, số kg củ đối với Tre Bát độ và Ba kích, cùng với mật độ và tỷ lệ sống.
Đối với mô hình trồng thuần loài, diện tích bố trí OTC là 500 m², nơi thu thập các số liệu sinh trưởng với số cây tối thiểu là 0 cây Đối với mô hình trồng xen, đề tài sẽ tiến hành đo 30 cây ngẫu nhiên cho mỗi loài.
+ Đối với mô hình Mây nếp đề tài đo theo băng, đếm số cây/bụi; mô hình tre Bát Độ đếm số cây/bụi
2.4.2.4.Đánh giá tác động của một số mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG (Ba kích, Mây nếp, Tre bát độ) tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006-2011
* Tác động về nâng cao độ che phủ của rừng
* Tác động về thu hút sự tham gia của hộ gia đình
* Tác động về nâng cao nhận thức của người dân
* Tạo công ăn việc làm cho người dân
* Dự báo tác động về kinh tế
2.4.2.5 Phân tích những thuận lợi, khó khăn và bài học kinh nghiệm trong việc triển khai xây dựng các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG tại tỉnh Quảng Ninh Đề tài tiến hành sử dụng mô hình phân tích S.W.O.T (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức) để tiến hành phân tích những thuận lợi, khó khăn và bài học kinh nghiệm trong việc triển khai xây dựng các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG tại tỉnh Quảng Ninh
Chương 3 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ- XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
VÀ THỰC TRẠNG NGÀNH LÂM NGHIỆP CỦA TỈNH.
Điều kiện tự nhiên
Quảng Ninh là một tỉnh biên giới và miền núi thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, nằm trong dải hành lang biển lớn của Bắc Bộ Tỉnh kéo dài từ Đông Triều đến Bình Liêu - Móng Cái, tiếp giáp với vùng Thập Vạn Đại Sơn của Trung Quốc Quảng Ninh có đường biên giới đất liền dài 132,8 km và hải phận giáp với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa Trung tâm tỉnh cách thủ đô Hà Nội 153 km theo quốc lộ 18.
- Từ 20 0 40’ đến 21 0 40’ Vĩ độ Bắc
- Từ 106 0 26’ đến 108 0 31’ Kinh độ Đông
Chiều ngang từ Đông sang Tây là 195 km, và chiều dọc từ Bắc xuống Nam là 102 km
* Ranh giới : Quảng Ninh có trên 300 km giáp với các tỉnh và 132,8 km giáp với Trung Quốc
- Phía Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn và Trung Quốc
- Phía Đông giáp biển Đông
- Phía Tây và Tây Bắc giáp tỉnh Bắc Giang
- Phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Hải Dương
- Phía Nam giáp TP Hải Phòng
Quảng Ninh sở hữu vị trí địa lý thuận lợi, tạo điều kiện cho giao lưu kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật với Thủ đô Hà Nội, các tỉnh Bắc Bộ, toàn quốc và quốc tế Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 607.813 km².
3.1.2 Địa hình địa thế Địa hình địa thế ở Quảng Ninh có thể chia thành 3 vùng chính:
3.1.2.1 Vùng núi thấp và trung bình Nam Mẫu - Bình Liêu Điển hình của vùng này là hai dãy Nam Mẫu (Yên Tử) và Bình Liêu được ngăn cách nhau bởi thung lũng các sông Ba Chẽ, Phố Cũ và Tiên Yên Hai dãy núi này gọi là cánh cung Đông Triều của vùng Đông Bắc Việt Nam
3.1.2.2 Vùng đồi và đồng bằng duyên hải
Khu vực này bao gồm các đồng bằng phù sa và thung lũng nằm giữa đồi núi ở phía Đông các huyện Quảng Hà, thị xã Móng Cái, Tiên Yên, Hoành Bồ, Yên Hưng, Đông Triều và thị xã Uông Bí So với các vùng đồng bằng khác, đây là những dải đất hẹp nhất, với chiều rộng lớn nhất chỉ khoảng 10 km.
Dải thung lũng nằm giữa các đồi núi chạy song song với phía Tây của vùng đồng bằng, có độ cao từ 50 đến 200 m và độ dốc thoải Nơi đây có nhiều đỉnh dông bằng, chủ yếu hình thành từ phù sa cổ.
Quần đảo này bao gồm 2000 hòn đảo lớn nhỏ, kéo dài thành hình cánh cung song song với cánh cung Đông Triều Nổi bật trong số đó là các đảo lớn như Kế Bào, Cái Bàn, Cái Chiên, Ba Mùn và Cô Tô.
Khí hậu Quảng Ninh có đặc điểm chung của miền núi Bắc Việt Nam, kết hợp với yếu tố riêng của tỉnh ven biển Khu vực quần đảo Cô Tô và Vân Đồn mang đặc trưng khí hậu đại dương Dựa vào các yếu tố khí hậu đặc trưng, tỉnh được chia thành ba tiểu vùng khí hậu chính.
Vùng trũng Ba Chẽ có địa hình lòng chảo, ít bị ảnh hưởng bởi gió bão và mang đặc trưng khí hậu miền núi Vào mùa đông, nhiệt độ tại đây có thể xuống dưới mức trung bình, tạo nên một không gian khí hậu đặc biệt.
20c, xuất hiện nhiều sương muối, lượng mưa trung bình hàng năm là 2317 mm
Vùng đồng bằng ven biển Đông Bắc, nằm ở phía nam cánh cung Đông Triều - Móng Cái, có thời tiết mát mẻ hơn vào mùa hè so với các khu vực khác, với lượng mưa trung bình hàng năm đạt 2488 mm Khu vực này thường xuyên chịu ảnh hưởng của gió, bão và thuỷ triều.
Vùng hải đảo có khí hậu đại dương, nhưng gần lục địa, với lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1733 mm Khu vực này thường chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của gió và bão Vào mùa Đông, sương mù xuất hiện, gây ảnh hưởng đến sản xuất vụ đông.
Khí hậu Quảng Ninh rất thuận lợi cho việc sản xuất đa dạng cây trồng nông - lâm nghiệp; tuy nhiên, lượng mưa lớn tập trung theo mùa gây ra hiện tượng xói mòn và rửa trôi ở các vùng núi cao dốc và lưu vực sông suối Do đó, cần thiết phải tạo ra các vùng phòng hộ đầu nguồn để bảo vệ đất, giữ nước và phát triển bền vững ngành nông lâm nghiệp.
Quảng Ninh có nhiều sông suối, nhưng phần lớn đều nhỏ và có lòng sông hẹp, dốc Các con sông thường chạy thẳng từ vùng núi ra biển với cự ly ngắn, dẫn đến việc hầu hết không có vùng trung lưu và cửa sông khá rộng.
Tỉnh này có tổng cộng 8 con sông chảy qua, bao gồm: sông Bạch Đằng, sông Đá Bạc, sông Diễn Vọng, sông Hà Cối, sông Ba Chẽ, sông Phố Cũ, sông Tiên Yên và sông Đầm Hà.
Các sông trong khu vực này thường có diện tích lưu vực nhỏ, độ dốc lớn và khả năng điều tiết nước kém Chúng đều bắt nguồn từ vùng núi cánh cung Đông Triều, nơi có độ chênh cao đáng kể và nhiều ghềnh thác.
Mạng lưới suối trong khu vực khá dày đặc với mật độ 1,6 km trên mỗi km2, tuy diện tích lưu vực nhỏ nhưng có đặc điểm thuỷ văn phức tạp và sự phân bố dòng chảy không đều trong năm Mùa lũ diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10, trong khi mùa cạn kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4, với lượng nước chủ yếu phụ thuộc vào nguồn nước ngầm Do đó, việc xây dựng các hồ đập chứa nước lớn nhỏ và phát triển hệ thống rừng phòng hộ bền vững là rất quan trọng để đảm bảo nguồn nước cho sản xuất nông - lâm nghiệp.
Theo các tài liệu điều tra nghiên cứu về đất, Quảng Ninh hiện có 5 nhóm đất chính:
Nhóm đất Feralít mùn vàng nhạt trên núi trung bình (FH)
Nhóm đất Feralít mùn vàng đỏ trên núi thấp (F)
Nhóm đất Feralít đỏ vàng điển hình vùng đồi (F)
Nhóm đất phù sa thung lũng và đồng bằng ven biển
Nhìn chung: Địa chất thổ nhưỡng ở Quảng Ninh có những đặc điểm khá đặc trưng:
Điều kiện kinh tế - xã hội
3.2.1 Đặc điểm dân tộc - dân số và lao động
Quảng Ninh có 8 dân tộc chung sống, trong đó: dân tộc Kinh chiếm 97%, Tày 0,52%, Dao 0,3%, các dân tộc khác như: Hoa, Sán Dìu, Nùng, Mường chiếm 2,18%
Có 10 huyện, thị xã và 4 thành phố với 184 xã, phường, thị trấn Tổng dân số là 1.081.363 người
- Dân số nông thôn và nông nghiệp chiếm 37%, trên địa bàn lâm nghiệp có 130/184 xã, phường, dân số 400.000 người với 104.683 hộ
Mật độ dân số bình quân của tỉnh đạt 183 người/km²; tuy nhiên, sự phân bố dân số không đồng đều, chủ yếu tập trung tại các thành phố, thị xã, thị trấn và khu vực ven các tuyến đường giao thông.
Tỷ lệ tăng dân số trung bình toàn tỉnh đạt 1,02%, với các huyện có nhiều dân tộc ít người như Ba Chẽ và Bình Liêu có mức tăng cao nhất lần lượt là 1,66% và 1,64% Trong khi đó, các thành phố và thị xã như Uông Bí, Cẩm Phả và Hạ Long có tỷ lệ tăng dân số thấp hơn, chỉ đạt 0,89%, 0,77% và 0,96%.
Tỉnh có tổng số lao động đạt 398.762 người, chiếm 36,9% dân số, trong đó lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp là 209.366 người, tương ứng với 52,5% Tại khu vực đất lâm nghiệp, lao động nông lâm nghiệp chiếm ưu thế.
Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, nghề trồng trọt đóng vai trò chủ yếu với lực lượng lao động đông đảo Ngoài việc sản xuất nông nghiệp, người lao động còn có thể tham gia vào phát triển lâm nghiệp xã hội, bao gồm các hoạt động như trồng rừng, nông lâm kết hợp và khoanh nuôi tái sinh rừng.
3.2.2 Thực trạng kinh tế chung của tỉnh
Trong những năm qua, Quảng Ninh đã tận dụng tốt tiềm năng phát triển, với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2005-2010 đạt 12,7%/năm và năm 2011 đạt 12,1% Quy mô kinh tế năm 2011 gấp 205 lần so với năm 2005, trong khi GDP bình quân đầu người đạt 2.264 USD, gấp 3,1 lần Tổng thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2005-2010 tăng trung bình 35,16%/năm, với năm 2011 đạt mức cao nhất từ trước đến nay, đứng thứ 5 toàn quốc Tổng GDP toàn tỉnh vượt 29.000 tỷ đồng, cho thấy cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực với tỷ trọng nông nghiệp giảm và tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ tăng trong năm 2011.
- Ngành du lịch, dịch vụ: 4,06 % GDP
Từ cơ cấu giá trị sản xuất cho thấy: Quảng Ninh có cơ cấu kinh tế phản ánh là tỉnh công nghiệp và dịch vụ
Kinh tế của tỉnh đang trên đà phát triển với tốc độ tăng trưởng tương đương với cả nước Tuy nhiên, người dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là khu vực lâm nghiệp, vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn trong cuộc sống.
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2011)
3.2.3 Thực trạng xã hội và cơ sở hạ tầng
Quảng Ninh sở hữu hệ thống giao thông đa dạng, bao gồm đường bộ, đường thủy và đường sắt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển Tuy nhiên, hạ tầng giao thông chủ yếu tập trung vào thành phố Hạ Long và các huyện thị lân cận.
18 từ Đông Triều đến Móng Cái Các huyện, xã ở vùng núi hải đảo mật độ đường giao thông còn thấp chỉ đạt 0,2 km/km2
Hệ thống công trình thủy lợi hiện tại chỉ đáp ứng khoảng 80% nhu cầu của tỉnh, với một số công trình lớn như đập Yên Lập, Tràng Vinh và Đầm Hà Động Nhiều công trình khác vẫn còn tạm thời và đang bị xuống cấp, dẫn đến năng lực tưới tiêu chưa đủ cho diện tích canh tác nông nghiệp.
- Thực trạng trường phổ thông đã xây dựng cho các xã trong toàn tỉnh là 181/189 phường xã
Tính đến nay, chương trình xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học tại tỉnh đã đạt được kết quả tích cực với 189/189 xã phường hoàn thành chương trình này Đồng thời, 110/189 xã phường cũng đã hoàn tất chương trình xoá mù chữ và phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở.
Cơ sở vật chất và trang thiết bị của nhà trường đang được cải thiện, góp phần nâng cao trình độ dân trí Tuy nhiên, một số xã vùng cao vẫn còn gặp khó khăn với trình độ dân trí thấp.
Tính đến nay, toàn tỉnh đã hoàn thiện hệ thống cơ sở y tế với 100% xã có trạm y tế và tất cả các huyện, thị xã, thành phố đều có bệnh viện công lập.
Hoạt động khám chữa bệnh cũng được nâng cao, cho đến nay đã có 12 bác sỹ/1 vạn dân; 32 giường bệnh/1 vạn dân
Tình hình cơ sở hạ tầng và văn hóa xã hội tại tỉnh Quảng Ninh đã phát triển mạnh mẽ, nhưng chủ yếu tập trung ở các thành phố, thị xã và vùng trũng Trong khi đó, các khu vực miền núi và hải đảo vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là về trình độ dân trí còn thấp.
* Đánh giá chung về điều kiện kinh tế xã hội của tỉnh
Quảng Ninh, nằm trong vùng kinh tế động lực phía Bắc Việt Nam, sở hữu hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt và đường thủy thuận lợi, tạo điều kiện cho việc giao lưu kinh tế với đồng bằng Bắc Bộ Đặc biệt, tỉnh có cửa khẩu với Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực qua vùng biển, mang lại lợi thế quan trọng cho việc giao lưu hàng hóa, văn hóa và xã hội với cả nước và quốc tế.
Với tỷ lệ đất lâm nghiệp chiếm 70%, cộng đồng dân cư gắn bó chặt chẽ với rừng và có nguồn lao động dồi dào, giàu kinh nghiệm trong các hoạt động như trồng rừng và bảo vệ rừng Những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của Nhà nước và tỉnh, cùng với sự chuyển đổi nhận thức của người dân, công tác trồng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và phát triển kinh tế vườn đã đạt được nhiều hiệu quả kinh tế đáng khích lệ.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thực trạng tổ chức triển khai xây dựng mô hình khuyến lâm trồng cây
* Mô hình và địa điểm nghiên cứu
Theo số liệu từ Trung tâm Khuyến nông, Khuyến ngư Quảng Ninh, từ năm 2006 đến 2011, đã triển khai 10 mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG trên diện tích 194 ha, bao gồm các loài như cây Ba kích, Mây nếp và tre Bát độ.
Bảng 4.1 Thông tin về đối tượng điều tra đánh giá
STT Tên mô hình Năm trồng Địa điểm triển khai
1 Trồng rừng thâm canh cây tre Bát độ 2006 Xã Vạn Yên, huyện
2 Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp 2007 Xã Quảng Sơn , huyện
3 Trồng rừng thâm canh cây tre Bát độ 2007 Xã Thanh Lâm, huyện
4 Trồng thâm canh cây Ba kích 2007 Xã Thanh Sơn, huyện
5 Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp 2008 Xã Đồng Văn, huyện
6 Trồng rừng thâm canh cây tre Bát độ 2008 Xã Ninh Dương, huyện
7 Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp 2009 Xã Nam Sơn, huyện
8 Trồng rừng thâm canh cây tre Bát độ 2009 Xã Vĩnh Thực, thị xã
9 Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp 2010 Xã Đồng Lâm, huyện
10 Trồng rừng thâm canh cây tre Bát độ 2010 Xã Tân Việt, huyện Đông Triều 22 30 1
Từ năm 2006 đến 2010, các mô hình trồng cây đã được triển khai với sự đa dạng, bắt đầu với 01 mô hình trồng thâm canh tre Bát độ vào năm 2006 Năm 2007, có thêm 03 mô hình, bao gồm 01 mô hình trồng Ba kích Từ năm 2008 đến 2010, mỗi năm chỉ duy trì 02 mô hình, tập trung vào trồng Mây nếp và tre Bát độ.
Kết quả của các mô hình
4.2.1 Tổ chức triển khai xây dựng và quản lý mô hình khuyến lâm
Mô hình khuyến lâm được xây dựng thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên liên quan, bao gồm Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư tỉnh, Trạm khuyến nông huyện, cán bộ khuyến nông cơ sở, chính quyền địa phương và các chủ hộ, tất cả đều tham gia theo hợp đồng trách nhiệm.
- Lập kế hoạch: Các mô hình khuyến lâm được xây dựng kế hoạch có
Mô hình khuyến lâm là một phần quan trọng trong phương thức tiếp cận khuyến nông thông qua các mô hình trình diễn, đóng vai trò thiết yếu trong hoạt động khuyến lâm.
4.2.1.1 Quy mô và điều kiện để thực hiện các mô hình trình diễn và tham gia triển khai các mô hình khuyến lâm
Mô hình khuyến lâm được tổ chức thành các điểm trình diễn, với quy mô không quá 5 điểm, mỗi điểm có diện tích từ 20-25ha Để tham gia vào mô hình này, người sản xuất cần đáp ứng các điều kiện nhất định, và các đơn vị triển khai cũng phải có tiêu chí cụ thể để đảm bảo hiệu quả.
- Đối với người sản xuất, muốn tham gia vào mô hình trình diễn cần phải đáp ứng được các yêu cầu:
+ Có địa điểm để thực hiện mô hình trình diễn phù hợp với nội dung, quy trình kỹ thuật của mô hình;
Cam kết đầu tư vốn cho mô hình phù hợp với yêu cầu kỹ thuật, với kinh phí ngân sách Nhà nước hỗ trợ theo tiến độ và tương ứng với tỷ lệ đầu tư thực tế của chủ mô hình.
+ Chưa nhận hỗ trợ từ bất kỳ nguồn kinh phí nào của ngân sách Nhà nước cho cùng một nội dung của mô hình
- Đối với các đơn vị tham gia thực hiện việc triển khai mô hình cũng có những yêu cầu như:
+ Có chức năng, nhiệm vụ phù hợp với lĩnh vực thuộc chương trình, dự án khuyến nông;
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã quy định tiêu chuẩn cho các đơn vị tham gia vào các chương trình và dự án khuyến nông, nhằm đảm bảo đủ năng lực thực hiện hiệu quả các hoạt động này.
4.2.1.2 Mức hỗ trợ và đối tượng nhận hỗ trợ từ nguồn kinh phí trung ương trong thực hiện mô hình khuyến lâm
Công tác xây dựng mô hình khuyến lâm nhằm chuyển giao tiến bộ khoa học và kỹ thuật từ các mô hình trình diễn rộng rãi, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp tại địa phương Điều này giúp nâng cao hiệu quả, năng suất và chất lượng sản xuất cho các đối tượng hưởng lợi như nông dân, công nhân Công ty Lâm nghiệp, chủ trang trại, doanh nghiệp, hợp tác xã và tổ hợp tác sản xuất, chế biến, tiêu thụ lâm sản Mức hỗ trợ cho người sản xuất thay đổi tùy theo vùng miền.
- Đối với đồng bằng hỗ trợ 40% chi phí giống và 20% chi phí phân bón;
- Đối với miền núi hỗ trợ 60% chi phí giống và 40% chi phí phân bón;
- Đối với hộ nghèo ở miền núi, vùng sâu, biên giới được hỗ trợ 80% chi phí giống và 60% chi phí phân bón
Tỉnh Quảng Ninh, với đặc thù là một tỉnh miền núi, biên giới và hải đảo, được áp dụng mức hỗ trợ 60% chi phí giống và 40% chi phí phân bón Trong giai đoạn 2009-2010, theo Quyết định số 162/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các mô hình khuyến nông tại vùng khó khăn được phê duyệt mức hỗ trợ 100% chi phí giống và vật tư thiết yếu Hiện tại, tỉnh Quảng Ninh có 53/189 xã thuộc vùng khó khăn, được hưởng hỗ trợ 100% chi phí giống và phân bón cho các chương trình khuyến nông của địa phương và Trung ương.
Cây trồng lâm nghiệp có đặc thù là cây dài ngày, do đó mức hỗ trợ được tính trong 3 năm Trong năm đầu tiên, người trồng sẽ nhận hỗ trợ cho chi phí giống và phân bón.
2 và thứ 3 chỉ hỗ trợ chi phí phân bón (40%)
Mô hình không chỉ hỗ trợ chi phí giống và phân bón mà còn cung cấp tài chính cho việc thuê cán bộ kỹ thuật để chỉ đạo, tập huấn, thông tin tuyên truyền, thăm quan và tổ chức hội thảo tổng kết, theo bảng 4.2.
Bảng 4.2 Định mức triển khai xây dựng mô hình STT Hạng mục Năm thứ 1 Năm thứ 2 Năm thứ 3
Chuyển giao kỹ thuật gây trồng
Chuyển giao kỹ thuật chăm sóc và bón phân 1 lần trong 2 ngày
Chuyển giao kỹ thuật chăm sóc và bảo vệ 1 lần trong
Xây dựng biển quảng cáo mô hình
Viết bài quảng bá mô hình
Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng
3 Tham quan, hội thảo tổng kết
Tham quan 1 lần; sơ kết 1 lần Sơ kết 1 lần Tổng kết, hội thảo
4 Cán bộ chỉ đạo: 1 người/20-25ha 9 tháng 6 tháng 4 tháng
Để triển khai mô hình khuyến lâm hàng năm, cần thực hiện theo một trình tự cụ thể được quy định bởi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Xây dựng và phê duyệt kế hoạch là bước quan trọng trong mô hình thực hiện bằng nguồn ngân sách địa phương, nơi các hộ gia đình tham gia xây dựng kế hoạch dưới sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật Sau khi hoàn thành, bản kế hoạch cần được báo cáo trước toàn thể thôn bản để nhận ý kiến góp ý và chỉnh sửa, trước khi trở thành kế hoạch chính thức và gửi đến các cấp phê duyệt Đối với mô hình sử dụng nguồn vốn ngân sách Trung ương, các đơn vị phải đề xuất danh mục mô hình khuyến lâm với các tiêu chí như quy mô, địa điểm triển khai, đối tượng và loài cây, gửi đến Trung tâm KNQG trước ngày 31 tháng 5.
Trung tâm KNQG sẽ thẩm định nội dung và dự toán chi tiết các chương trình khuyến lâm trước ngày 30 tháng 9, và trình Bộ phê duyệt dự toán cho các chương trình này trước ngày 15 tháng 11 Sau khi nhận được phê duyệt từ Bộ, các chương trình sẽ được triển khai theo kế hoạch.
Bộ, Trung tâm KNQG tiến hành ký hợp đồng với các đơn vị triển khai xây dựng mô hình khuyến lâm
- Triển khai xây dựng mô hình:
Sau khi ký hợp đồng, đơn vị triển khai xây dựng mô hình có thể áp dụng nhiều hình thức khác nhau dựa trên khả năng và cách tiếp cận của mình Họ có thể tận dụng hệ thống khuyến nông ở các cấp, triển khai trực tiếp đến thôn và hộ dân, hoặc ký hợp đồng với hệ thống khuyến nông Thường thì, đầu mối địa phương sẽ dựa vào chính quyền cấp xã để thực hiện các hoạt động này.
Các đơn vị tư vấn cần phối hợp với chính quyền cấp xã để xây dựng kế hoạch triển khai cụ thể, dựa trên tình hình thực tế và quy hoạch đất đai địa phương Họ cũng phải thông báo cho người dân về chương trình hỗ trợ xây dựng mô hình, bao gồm thông tin về loài cây, mức hỗ trợ, đối tượng được hỗ trợ, mùa vụ và thời gian triển khai.
Người dân có quyền tự quyết định tham gia hoặc tham gia các cuộc họp dân để nhận được sự vận động và giải thích từ cán bộ xã, trưởng thôn, trưởng bản và cán bộ kỹ thuật.
Đánh giá tác động của một số mô hình Mây nếp, tre Bát độ, Ba kích tại tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn 2006 – 2011
4.3.1 Tác động về xã hội
4.3.1.1 Tác động tới nhận thức
Mô hình trình diễn khuyến lâm nhằm mục đích giới thiệu các tiến bộ kỹ thuật và giống mới cho người dân, từ đó hướng dẫn họ áp dụng Từ năm 2006 đến 2011, các mô hình khuyến lâm tại Quảng Ninh đã góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về nông lâm nghiệp Thông tin chi tiết về sự nâng cao nhận thức này được trình bày trong bảng 4.8.
Bảng 4.8 Nhận thức của người dân khi có mô hình khuyến lâm
Số người điều tra (100 người) Ghi chú Đồng ý %
Hiểu được quyền và trách nhiệm tham gia mô hình 82 82
Hiểu biết về kỹ thuật trồng rừng và bảo vệ rừng
- Dự án LN tại địa phương 25 25
- Tự tìm hiểu từ nguồn khác 7 7
Muốn tham gia dự án 100 100
Có được kiến thức kỹ thuật trong trồng
Lựa chọn loài cây khi tham gia mô hình Nhà nước đầu tư
Lựa chọn loài cây LSNG gì khi tự nhân rộng?
Người dân tự đầu tư
Tại 10 mô hình khảo sát đã có 242 hộ tham gia lớp tập huấn kỹ thuật,
Trong thời gian qua, đã có 242 lượt người tham quan học tập và 292 lượt người tham dự hội thảo tổng kết mô hình Bên cạnh việc tổ chức các khóa tập huấn, các đơn vị cũng đặc biệt chú trọng đến hoạt động thông tin tuyên truyền để nâng cao nhận thức và hiệu quả công việc.
Hình 4.14 Tập huấn kỹ thuật xây dựng mô hình
Dựa trên kết quả điều tra từ 100 người tham gia xây dựng mô hình tại khu vực có trình diễn, nghiên cứu chỉ ra rằng mô hình khuyến lâm đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức cộng đồng.
Theo khảo sát, 82% người dân đã hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình khi tham gia mô hình Điều này thể hiện rõ ràng qua việc 100% người được điều tra bày tỏ nguyện vọng tham gia Trong số các mô hình, mô hình Tre Bát Độ thu hút 92% sự quan tâm, tiếp theo là Mây nếp với 75%, và mô hình Ba Kích đứng thứ ba với 56%.
Nếu để người dân tự đầu tư mở rộng mô hình, tỷ lệ tham gia sẽ thấp hơn so với khi có sự đầu tư từ Nhà nước Điều này cho thấy người dân vẫn còn tâm lý trông chờ vào sự hỗ trợ từ Nhà nước và chưa thực sự mạnh dạn trong việc đầu tư cá nhân.
Trên các mô hình điều tra đã có 242 lượt người đến thăm quan học tập,
Hội thảo tổng kết mô hình thu hút 292 lượt người tham dự, trong đó 211 hộ tự bỏ vốn trồng được 188 ha cây trồng thuộc 3 loài LSNG Cụ thể, cây Tre Bát chiếm diện tích lớn nhất với 104/188 ha, tiếp theo là cây Mây nếp với 67/188 ha, và cuối cùng là cây Ba kích với 17 ha Số liệu về tác động của mô hình khuyến lâm đến nhận thức và việc nhân rộng mô hình được trình bày trong bảng 4.9.
Bảng 4.9 Nhân rộng mô hình khuyến lâm
Tên mô hình Địa điểm
Triển khai mô hình Nhân rộng
Trồng rừng thâm canh cây Tre Bát Độ
Xã Vạn Yên huyện Vân Đồn
Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp
Xã Quảng Sơn huyện Hải Hà)
Trồng rừng thâm canh cây Tre Bát Độ
Trồng thâm canh cây Ba kích
Xã Thanh sơn huyện Ba Chẽ 16 30 30 35 17 20
Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp
Xã Đồng Văn huyện Bình Liêu
Trồng rừng thâm Xã Ninh 19 25 25 30 16 20
Tên mô hình Địa điểm
Triển khai mô hình Nhân rộng
Số hộ (người) canh cây Tre Bát Độ Dương huyện
Hải Hà Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp
Xã Nam Sơn huyện Ba Chẽ 19 20 20 25 15 16
Trồng rừng thâm canh cây Tre Bát Độ
Xã Vĩnh Thực thị xã Móng Cái
Trồng rừng thâm canh cây Mây nếp
Xã Đồng Lâm huyện Hoành
Trồng rừng thâm canh cây Tre Bát Độ
Xã Tân Việt huyện Đông Triều
Tre Bát Độ là loài cây có khả năng sinh trưởng nhanh và thích nghi tốt với nhiều loại đất khác nhau Thị trường tiêu thụ măng ổn định, cùng với khả năng trồng làm rừng nguyên liệu, đã khiến mô hình trồng Tre Bát Độ được nhiều người dân nhân rộng.
Mây nếp có khả năng nhân rộng ở mức trung bình, hiện tại chỉ có một số hộ gia đình trồng loại cây này, chủ yếu là để làm hàng rào trong vườn nhà nhằm mục đích bảo vệ khu vực trồng trọt.
Ba kích có khả năng nhân rộng hạn chế do thị trường tiêu thụ không ổn định, năng suất thấp và chất lượng củ kém Giá thành sản phẩm thấp cũng khiến người dân không mặn mà phát triển loài cây này.
4.3.2 Tác động tới phát triển kinh tế - xã hội
4.3.2.1 Tác động đến kinh tế
Mô hình khuyến lâm thường chỉ hỗ trợ trong một hoặc hai năm, dẫn đến khó khăn trong việc định lượng giá trị kinh tế do chưa đủ thời gian khai thác Tuy nhiên, trong quá trình tham gia, các hộ gia đình đã biết tận dụng ngắn hạn để nuôi dài, từ đó thu được sản phẩm phụ từ rừng, góp phần nâng cao đời sống và giảm thiểu tình trạng phá rừng Đặc biệt, với mô hình tre Bát độ, mật độ đạt 460 bụi/ha, và từ năm thứ ba, cây bắt đầu cho thu hoạch măng với sản lượng trung bình 10kg/bụi, giá 9.000đ/kg, người dân có thể thu được khoảng 41,4 triệu đồng/ha.
Hình 4.15 Hiệu quả kinh tế từ mô hình trồng tre Bát Độ
Nếu cây ở tuổi 5 sản lượng bình quân 20kg/bụi, người dân có thể thu
Mô hình trồng cây Mây nếp tại xã Quảng Sơn, huyện Hải Hà đã cho thu hoạch với năng suất bình quân đạt 50 tạ/ha, mang lại giá trị khoảng 55 triệu đồng/ha, tương ứng với giá Mây nếp khoảng 11.000 đồng/kg trong thời điểm nghiên cứu Sản phẩm chủ yếu thu được là thân Mây nếp và một phần hạt giống.
Các mô hình Mây nếp chưa đến chu kỳ khai thác không tạo ra thu nhập, do đó không thể đánh giá hiệu quả kinh tế Trong khi đó, đối với các mô hình trồng cây Ba kích, hiệu quả chỉ được xác định khi đến thời điểm khai thác với mật độ cây trồng phù hợp.
Trên mỗi hecta, có thể trồng khoảng 850 cây, với mỗi gốc cho khoảng 1,2 kg củ tươi Hiện tại, giá củ tươi dao động khoảng 110.000đ/kg, do đó, sau một chu kỳ 4 năm, người dân có thể thu được khoảng 112 triệu đồng, tương đương với bình quân 28 triệu đồng/ha/năm.
4.3.2.2 Tạo công ăn việc làm
Triển khai các mô hình khuyến lâm tại địa phương đã góp phần tạo ra thêm nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, đồng thời tận dụng hiệu quả thời gian nông nhàn của họ.
Người tham gia mô hình cần bỏ ra từ 200 - 228 công lao động cho 1 ha trong 3 năm, với 140-150 công cho năm đầu để thực hiện các công việc như phát thực bì, đào hố, vận chuyển cây giống, lấp hố, chăm sóc, vun xới, bón phân và trồng dặm Trong năm thứ hai và thứ ba, khoảng 60-78 công sẽ được dành cho việc chăm sóc và phát dọn thực bì tùy theo mức độ xâm lấn Việc triển khai các mô hình khuyến nông không chỉ tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương mà còn góp phần ổn định trật tự xã hội tại khu vực.
4.3.2.3 Tác động về môi trường
Phân tích thuận lợi, khó khăn trong xây dựng các mô hình khuyến lâm
Dựa trên thống kê khảo sát 10 mô hình và kết quả điều tra, phỏng vấn từ người dân, đơn vị triển khai và đơn vị chủ quản, những thuận lợi và khó khăn trong việc xây dựng mô hình khuyến lâm tại khu vực nghiên cứu đã được làm rõ.
Diện tích đất rừng đã được giao cho các chủ quản lý, tạo điều kiện cho họ có trách nhiệm trong sản xuất và quản lý Điều này là cơ sở quan trọng để lựa chọn các hộ gia đình tham gia vào việc xây dựng mô hình khuyến lâm hiệu quả.
+ Hầu hết đất trên các khu vực nghiên cứu còn khá tơi xốp, phù hợp với nhiều loại cây trồng Lâm nghiệp
Các cấp chính quyền tỉnh, huyện, xã đang chú trọng phát triển lâm nghiệp và xây dựng mô hình khuyến lâm thông qua hợp đồng và quy chế phối hợp rõ ràng, xác định quyền và trách nhiệm của các bên tham gia Trong giai đoạn triển khai mô hình mới, các đơn vị thường dựa vào đội ngũ cán bộ xã, trưởng thôn, bản và những Đảng viên gương mẫu để tham gia trước, từ đó tuyên truyền và vận động cộng đồng thực hiện theo.
Mô hình khuyến lâm được xây dựng với sự phân công rõ ràng trách nhiệm cho các cán bộ kỹ thuật, mỗi người phụ trách 25-30 ha Diện tích này được cho là phù hợp để đảm bảo việc theo dõi, giám sát và đánh giá hiệu quả.
Trong quá trình triển khai, các đơn vị đã thực hiện đầy đủ các bước quan trọng như khảo sát, lựa chọn hộ, lập kế hoạch, tổ chức tập huấn, thực hiện thăm quan, thực hiện kế hoạch, và tiến hành giám sát, đánh giá cũng như đưa ra khuyến cáo.
Hầu hết các huyện tại tỉnh Quảng Ninh đều thể hiện sự trách nhiệm và đồng thuận cao trong việc triển khai mô hình khuyến lâm, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xây dựng, chuyển giao và giám sát kỹ thuật.
Các mô hình khuyến lâm được triển khai bởi trung tâm khuyến nông tỉnh, mang lại lợi thế nhờ đội ngũ cán bộ dày dạn kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số Điều này giúp việc truyền tải kiến thức đến bà con tham gia xây dựng mô hình trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn.
+ Các giống cây tốt đã được công nhận, được chuyển giao xây dựng mô hình cho các vùng sinh thái khác nhau
Các loài cây rừng trong mô hình đều thuộc danh mục được Bộ và ngành chuyên môn phê duyệt, nhằm phục vụ cho mô hình khuyến lâm và có quy trình kỹ thuật trồng trọt rõ ràng.
Chính sách của Nhà nước về giao đất, giao rừng và hưởng lợi từ rừng đang hướng tới việc xã hội hóa nghề rừng, theo Nghị định 163/CP năm 1999 và Nghị định 181/CP năm 2000 Những quy định này hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003 và bao gồm Quyết định 661/QĐ/TTg ngày 29/7/1998, nhằm mục tiêu trồng mới 5 triệu ha rừng.
178/2001/QĐ/TTg, về quyền lợi, nghĩa vụ của các chủ rừng kinh doanh sản xuất lâm nghiệp
Địa phương đã triển khai các chính sách sử dụng ngân sách địa phương để phát triển mô hình khuyến lâm, cụ thể là Quyết định 1602/QĐ-UBND và Công văn số 2490/UBND-NLN2 ngày 12 tháng 6 của UBND tỉnh Quảng Ninh, nhằm đầu tư nguồn vốn ngân sách cho việc xây dựng mô hình khuyến lâm tại các xã và huyện miền núi.
Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và chế độ nhằm hướng dẫn và triển khai hoạt động khuyến lâm, trong đó có Nghị định 56/2005/NĐ-CP ngày 26/4/2005 về khuyến nông, khuyến ngư Bên cạnh đó, Thông tư 30/2006/TTLT-BTC-BNN&PTNT-BTS ngày 26/4/2006 quy định việc quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp kinh tế cho hoạt động này Thêm vào đó, Thông tư 50/2007/TTLT-BTC-BNN-BTS ngày 21/7/2007 đã sửa đổi, bổ sung các quy định trong Thông tư số 30/2006, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc thực hiện các hoạt động khuyến nông, khuyến ngư.
Vào ngày 6/4/2006, BNN&PTNT ban hành hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí cho hoạt động khuyến nông và khuyến ngư Tiếp theo, Quyết định 4227/QĐ-BNN-KHCN ngày 13/12/2007 đã phê duyệt quy định tạm thời về định mức áp dụng trong các Chương trình, Dự án khuyến lâm Vào ngày 22/2/2008, Quyết định 37/QĐ-BNN đã ban hành quy chế quản lý chương trình, dự án khuyến nông và khuyến ngư quốc gia Quyết định 832/QĐ-BNN-KHCN ngày 17/3/2008 phê duyệt đề án phát triển khuyến lâm giai đoạn 2008-2010, với định hướng đến năm 2020 Cuối cùng, Quyết định số 162/2008/QĐ-TTg ngày 04/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra chính sách khuyến nông, khuyến ngư cho các địa bàn khó khăn.
Mạng lưới cán bộ khuyến nông và khuyến lâm đã phát triển đến từng thôn, bản, với đội ngũ cán bộ chuyên trách tại địa phương Những cán bộ này đã được đào tạo bài bản về trình độ chuyên môn và phương pháp làm việc hiệu quả với cộng đồng.
Quảng Ninh là tỉnh được hưởng nhiều dự án và chương trình khuyến lâm như 661, 327, 30a, góp phần nâng cao nhận thức của người dân về sản xuất lâm nghiệp và xây dựng mô hình khuyến lâm.
+ Nhu cầu lâm sản trong nước lớn, sản xuất mới đáp ứng được >50% nhu cầu gỗ trong nước, đặc biệt là gỗ lớn nhập khẩu >80%
Cơ chế thị trường ngày càng phát triển cùng với giao thông thuận tiện đã giúp người sản xuất không còn lo lắng về đầu ra cho các loại cây rừng như tre Bát độ và Mây nếp, khi mà tư thương sẵn sàng mua trực tiếp tại chân vườn rừng.
Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác xây dựng mô hình khuyến lâm và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong lâm nghiệp, làm cơ sở nhân rộng
Qua nghiên cứu khảo sát tình hình triển khai mô hình khuyến lâm tại tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006-2011, đề tài có một số đề xuất sau:
4.5.1 Giải pháp về tổ chức thực hiện hoàn thiện bộ máy khuyến nông
Tỉnh Quảng Ninh tiến hành kiện toàn cơ cấu tổ chức và quản lý hệ thống khuyến nông theo nghị định 56/NĐ-CP ngày 26/5/2005 và sửa đổi bổ sung bởi nghị định 02/2010/NĐ-CP ngày 08/01/2010 Mỗi huyện sẽ thành lập trạm khuyến nông trực thuộc Trung tâm khuyến nông tỉnh hoặc UBND huyện, đồng thời mỗi xã cần có cán bộ khuyến nông viên cơ sở được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Tăng cường phân cấp trong hoạt động khuyến nông là cần thiết để đáp ứng nhu cầu sản xuất và thị trường Điều này giúp giảm thiểu tính quan liêu và thúc đẩy cơ chế phân chia lợi ích, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các bên liên quan.
- Tăng cường các hoạt động giám sát có sự tham gia của tất cả các bên liên quan Xây dựng hệ thống các chỉ số đánh giá
Các hoạt động khuyến nông và khuyến lâm cần sự tham gia tích cực từ người dân, nhà quản lý, cán bộ khuyến nông và các nhà nghiên cứu Việc thiết lập mạng lưới hợp tác với các cơ quan nghiên cứu và đoàn thể là cần thiết để huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đồng thời tránh tình trạng chồng chéo, trùng lặp và lãng phí.
4.5.2 Giải pháp về phát triển nguồn lực con người
- Đào tạo tập huấn phù hợp với bản chất phương pháp tập huấn có sự tham gia và tăng cường năng lực tập huấn của cán bộ khuyến nông
Xây dựng và triển khai kế hoạch đào tạo nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ khuyến nông ở tất cả các cấp, đặc biệt là tại cấp xã và các vùng sâu, vùng xa, là cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp.
- Chú trọng phương pháp và hoạt động đào tạo khuyến nông cho người nghèo, đặc biệt là bà con dân tộc thiểu số và phụ nữ…
Xây dựng chương trình đào tạo ngắn hạn chuyên sâu cho đội ngũ khuyến nông viên tại xã, phường và thôn bản nhằm nâng cao năng lực hướng dẫn và chuyển giao kỹ thuật mới cho nông dân Đặc biệt ưu tiên tuyển chọn nữ cán bộ khuyến nông viên cơ sở để đảm bảo sự đa dạng và hiệu quả trong công tác khuyến nông.
- Nâng cao năng lực về công tác khuyến lâm cho cán bộ địa bàn để tham gia vào các dự án khuyến lâm
Tăng cường đào tạo chuyên môn kỹ thuật và phương pháp khuyến nông là cần thiết để nâng cao nghiệp vụ, trình độ tổ chức, giám sát và quản lý các hoạt động khuyến nông hiệu quả.
4.5.3 Giải pháp về kỹ thuật
Tăng cường cải tiến khoa học kỹ thuật trong các mô hình khuyến lâm thông qua việc áp dụng phương pháp “Nghiên cứu có sự tham gia của người dân” nhằm kết nối nghiên cứu với sản xuất Điều này giúp chuyển giao và nhân rộng các tiến bộ kỹ thuật hiệu quả hơn.
- Tăng cường chuyển giao khoa học kỹ thuật có tính chất đột phá như giống, bảo quản và chế biến nông lâm sản
Cần tập trung phát triển mô hình khuyến lâm tại các vùng cao (vùng 3), nơi người dân đang đối mặt với nhiều khó khăn về vốn, kiến thức và công nghệ Mục tiêu là từng bước cải cách tư duy và phương pháp sản xuất truyền thống, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Lựa chọn tiến bộ khoa học và giống cây trồng tiên tiến, áp dụng kỹ thuật thâm canh phù hợp với từng vùng sinh thái, đồng thời tuân thủ định hướng ngành và quy hoạch địa phương, sẽ đáp ứng nhu cầu của người dân và nâng cao hiệu quả kinh tế Việc thực hiện đúng cách này sẽ tạo điều kiện cho việc nhân rộng mô hình thành công.
Quản lý công tác giống là rất quan trọng để tránh việc sử dụng giống không rõ nguồn gốc và chất lượng kém, điều này không chỉ giảm lòng tin của người dân mà còn ảnh hưởng đến khả năng nhân rộng mô hình.
4.5.4 Giải pháp về chính sách
Cần tăng cường tuyên truyền về luật pháp và chính sách phát triển lâm nghiệp, đặc biệt là khuyến lâm, cho các cấp lãnh đạo và cộng đồng Điều này sẽ giúp người dân dần thay đổi cách thức quản lý và sử dụng rừng một cách hiệu quả hơn.
Để thu hút và khuyến khích cán bộ khuyến nông làm việc lâu dài tại các vùng sâu, vùng xa, cần xây dựng cơ chế chính sách khuyến nông phù hợp Những chính sách này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động khuyến nông tại các khu vực khó khăn.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động khuyến lâm, cần tăng ngân sách Nhà nước đầu tư cho lĩnh vực này Việc xây dựng mô hình khuyến lâm trình diễn cần được tính toán kỹ lưỡng, bao gồm hỗ trợ 100% giống cây, vật tư chính, và một phần chi phí nhân công cho việc trồng và chăm sóc trong 3 năm đầu Điều này đảm bảo rằng việc kiểm tra và giám sát mô hình được thực hiện đúng yêu cầu kỹ thuật và đúng thời gian.
Trong cùng một địa phương, cần tránh việc tồn tại nhiều hình thức hỗ trợ khác nhau trong cùng một hoạt động để không gây khó khăn cho quá trình triển khai Ví dụ, khi xây dựng mô hình khuyến lâm theo Trung tâm quốc gia, hỗ trợ 60% cây giống và 40% phân bón, cần có sự đồng nhất trong cách tiếp cận và hỗ trợ từ các dự án khác nhau.
Theo quyết định 1620/QĐ-UBND tỉnh Quảng Ninh, chương trình hỗ trợ 661 cung cấp 100% giống, phân bón và một phần chi phí nhân công cho việc xây dựng mô hình khuyến lâm, với mức hỗ trợ là 2 triệu đồng/ha.
4.5.5 Giải pháp về cách thức triển khai
Bước 1: Xác định nhu cầu của nông dân
Kết luận
1 Các mô hình khuyến lâm trồng cây LSNG triển khai ở khu vực nghiên cứu chủ yếu là 3 loài cây trên, chưa thấy nhiều mô hình trồng loài cây khác Ngoài ra các mô hình trồng rừng nguyên liệu, mô hình cải tạo rừng tự nhiên, nông lâm kết hợp chưa thấy có
2 Phương pháp và các bước xây dựng mô hình khuyến lâm là tương đối đồng nhất bao gồm: Điều tra khảo sát; Chọn hộ; Lập kế hoạch; Tập huấn; Thăm quan học tập; Xây dựng mô hình; Giám sát đánh giá và nhân rộng mô hình Có sự tham gia của người dân, nhưng kết quả của các nội dung hoạt động không giống nhau do thời gian, trình độ, trách nhiệm của cán bộ thực hiện
3 Các mô hình khảo sát, đánh giá 100% đúng với kế hoạch xây dựng (về mặt diện tích) các biện pháp kỹ thuật khuyến cáo cơ bản đáp ứng được yêu cầu về mặt kỹ thuật xây dựng mô hình
- Cây Mây nếp được trồng tại các huyện Hải Hà, Bình Liêu, Hoành Bồ, và
Ba Chẽ là cây có khả năng sinh trưởng tốt, với 5-8 cây/bụi sau 3-4 năm trồng và chiều dài trung bình từ 4,0-6,3 m Trong mô hình trồng, 86-87% khóm phát triển tốt và trung bình, trong khi chỉ có 12-13% khóm sinh trưởng kém.
Cây tre Bát độ được coi là loại cây phát triển tốt nhất, với trung bình 4 cây/bụi sau 3 năm trồng, chiều cao trung bình đạt 7,2m và đường kính thân đạt 6,5 cm Trong mô hình trồng, có đến 92% khóm sinh trưởng tốt và trung bình, trong khi chỉ 8% khóm sinh trưởng kém.
Mô hình trồng Ba kích tại Ba Chẽ hiện chưa mang lại nhiều giá trị cho cơ cấu kinh tế hộ, với hiệu quả kinh tế còn thấp và mức độ chấp nhận của người dân vẫn rất hạn chế.
4 Các mô hình khuyến lâm đã có tác động tích cực làm thay đổi nhận thức của người dân trong quản lý và phát triển rừng, 100% người được hỏi đều có nguyện vọng tham gia mô hình khuyến lâm
5 Trong khuôn khổ đề tài đã phân tích được những thuận lợi, khó khăn trên các lĩnh vực: Điều kiện tự nhiên; Tổ chức; Kỹ thuật; Chính sách; Nguồn lực; Thị trường Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp khắc phục dựa trên cơ sở phát hiện của công trình Giúp các nhà quản lý tham khảo xây dựng mô hình khuyến lâm hiệu quả hơn.
Kiến nghị 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Cần đầu tư them thời gian để đánh giá sâu hơn hiệu quả của các mô hình
- Cần tiếp tục nghiên cứu so sánh hiệu quả và phương thức trồng ở mỗi mô hình
TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt
1 Đào Xuân Ánh (2008), “Nhân Festival Huế: Nghĩ về chính sách Gia Long khuyến nông”, Tạp chí Việt Nam hương sắc, (Số 12), Tr 1-2
2 Bách khoa toàn thư Wikipe
3 Bách khoa toàn thư, Chiếu khuyến nông
4 Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2005), Báo cáo ngành lâm nghiệp năm 2005 Các chỉ tiêu về Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
5 Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2006), Báo cáo tổng kết hoạt động khuyến nông 12 năm giai đoạn 1993-2005
6 Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2011), Báo cáo tổng kết tổng kết Nghị định 56 và triển khai Nghị định 02 của Chính phủ về Khuyến nông
7 Cổng thông tin điện tử Hà Nam, Lê Hoàn, nhà vua đầu tiên cày tịch điền
8 Nguyễn Chí Hải (1997), Một số vấn đề về nội dung của lịch sử tư tưởng kinh tế Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
9 Vũ Thị Lan (2007), Giáo trình khuyến nông lâm, NXB Nông nghiệp, Hà
10 Phạm Kim Oanh (2004), “Kinh nghiệm khuyến nông của Trung Quốc”, Bản tin khuyến nông Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp, (Số 3), tr 23-25
11 Trung tâm Khuyến nông Quốc gia (2011), Phương pháp khuyến nông,
Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội
12 Lê Sỹ Trung (2010), Đánh giá hiệu quả chuyển giao khoa học kỹ thuật của các mô hình khuyến lâm, Đại học Nông lâm Thái Nguyên
13 Hà Thanh Tùng (2010), Báo cáo tổ chức hoạt động khuyến nông của Nhật
Bản, Hội thảo của tổ chức JCA Nhật Bản, Hà Nội.