Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Để phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, đầu tư của hộ gia đình cho giáo dục, đặc biệt ở bậc đại học, đóng vai trò quan trọng bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước Trong những năm gần đây, tỷ trọng đầu tư cho giáo dục từ hộ gia đình đã liên tục tăng, chiếm khoảng 60% tổng chi cho giáo dục theo Báo cáo phát triển con người Việt Nam năm 2011 của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc Nghiên cứu của UNPA 2012 chỉ ra rằng, chi tiêu cho giáo dục và y tế chiếm từ 30-50% thu nhập của hộ gia đình Việt Nam So với các nước đang phát triển như Hoa Kỳ, Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản và các nước OECD, tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục từ dân và các nguồn khác ngoài Nhà nước của Việt Nam cao hơn nhiều, với các tỷ lệ lần lượt là 40%; 26%; 7%; 26%; 41% và 20%.
Giáo dục được coi là một khoản đầu tư cho tương lai, đặc biệt tại Việt Nam, nơi cha mẹ thường huy động mọi nguồn lực để đảm bảo con cái có một tương lai tốt đẹp, nhất là ở bậc đại học Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của cha mẹ cho giáo dục con cái Các câu hỏi như liệu quyết định này có dựa trên lợi ích giáo dục, yêu cầu thị trường lao động hay khả năng của con, cũng như sự khác biệt trong quyết định giữa các bậc cha mẹ có trình độ giáo dục, nghề nghiệp và thu nhập khác nhau, là rất quan trọng để đánh giá hiệu quả của việc đầu tư này trong bối cảnh giáo dục hiện nay ở Việt Nam.
Tình trạng "thừa thầy, thiếu thợ" đang ngày càng rõ rệt khi hàng năm có nhiều sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học nhưng lại gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm phù hợp với chuyên ngành của mình.
Nghiên cứu của Vũ Quang Việt (2006) nhấn mạnh tầm quan trọng của quyết định đầu tư giáo dục đại học trong bối cảnh phát triển không kiểm soát của hệ thống trường cao đẳng và đại học Đề tài “Nghiên cứu các yếu tố tác động tới quyết định đầu tư giáo dục trình độ đại học trong các hộ gia đình ở Việt Nam” không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư xã hội và cá nhân cho giáo dục Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo quý giá cho các trường đại học và viện nghiên cứu, hỗ trợ giảng dạy các môn kinh tế học vi mô và kinh tế công liên quan đến quyết định đầu tư và phát triển chính sách.
Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Ngoài nước
Trong cuốn sách đạt giải Nobel của nhà kinh tế Gary S Becker
Nghiên cứu của Gary S Becker trong cuốn "Human capital: Theoretical and empirical analysis, with special reference to education" đã khẳng định rằng giáo dục là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao năng suất cá nhân, đồng thời yêu cầu chi phí trực tiếp như học phí, sách vở và chi phí sinh hoạt Ông cho rằng cha mẹ sẽ đầu tư vào giáo dục của con cái khi họ sẵn sàng hy sinh một phần tiêu dùng cá nhân, và đầu tư này không chỉ mang lại lợi ích cho trẻ mà còn cho xã hội Mức đầu tư giáo dục trong mỗi gia đình chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm địa vị kinh tế xã hội, khả năng học tập của trẻ, và lợi ích kinh tế xã hội dự kiến Nghiên cứu của Becker đã tạo cơ sở cho các nghiên cứu sau này về mối quan hệ giữa đầu tư giáo dục và thu nhập, cũng như việc tính toán lợi tức giáo dục của Jacob Mincer.
Cuốn sách "Schooling, Experience, and Earnings" của Jacob A Mincer, xuất bản năm 1974, nghiên cứu phân phối và cấu trúc thu nhập của người lao động dựa trên đầu tư vốn nhân lực Tác giả giới thiệu hàm thu nhập với hai phân phối cơ bản: thu nhập và đầu tư vốn nhân lực Phần 1 của cuốn sách phân tích lý thuyết về mối quan hệ giữa đầu tư vốn nhân lực và thu nhập, bao gồm hai chương: chương 1 tập trung vào mối quan hệ này ở cấp độ cá nhân, trong khi chương 2 mở rộng phân tích giữa các cá nhân với sự khác biệt trong đầu tư vốn nhân lực và kinh nghiệm làm việc Phần 2 cung cấp phân tích thực chứng về thu nhập theo dân tộc và khu vực sống, dựa trên dữ liệu từ Tổng điều tra dân số năm 1960 tại Mỹ, với năm chương, trong đó chương 3 áp dụng mô hình số năm đi học để lượng hóa đầu tư vốn nhân lực và lợi tức giáo dục Jacob A Mincer đã đặt nền tảng cho việc đo lường đầu tư vốn nhân lực thông qua số năm đi học.
Trong cuốn sách “Modern Labor Economics: Theory and Public Policy” của Ronald G Ehrenberg và Robert S Smith (2003), tác giả lý giải rằng đầu tư vào giáo dục là yếu tố quan trọng để tăng cường vốn nhân lực Quyết định đầu tư cho giáo dục và đào tạo của người lao động hiện tại chủ yếu dựa trên thu nhập kỳ vọng trong tương lai Cuốn sách cũng phân tích nhu cầu về giáo dục đại học tại Mỹ từ thập niên trước.
Từ những năm 70 đến thập niên 90, mức lương trung bình của công nhân làm việc toàn thời gian tăng theo trình độ giáo dục Sự khác biệt về tuổi và thu nhập của người lao động cho thấy rằng thu nhập tăng dần theo trình độ học vấn, đặc biệt là khi đầu tư vào học đại học.
A study by the U.S Bureau of Labor Statistics in March 2014 examined "Investment in Higher Education by Race and Ethnicity," utilizing microdata from consumer expenditure surveys This research highlights the disparities in educational investments across different racial and ethnic groups, providing valuable insights into the financial commitment to higher education within diverse communities.
Hoa Kỳ tính toán chi tiêu giáo dục dựa trên chủng tộc và sắc tộc, cho thấy sự khác biệt trong đầu tư liên quan đến hai yếu tố: (1) sự khác biệt trong việc học đại học và (2) các giả thuyết về chi tiêu giáo dục Khi các gia đình quyết định đầu tư cho con cái học đại học, mức chi tiêu giữa các nhóm chủng tộc và sắc tộc hầu như không có sự khác biệt Điều này cho thấy rằng việc đầu tư giáo dục cho con cái là tương đồng ở tất cả các chủng tộc, từ người phương Tây đến người phương Đông, chỉ khác nhau về phương thức và cách thức đầu tư.
Nghiên cứu của Min Zhan (2006) về "Tài sản, kỳ vọng và sự tham gia của cha mẹ, và hiệu suất giáo dục của trẻ em" sử dụng dữ liệu từ Điều tra quốc gia về những người trẻ (NLSY79) cho thấy rằng, sau khi kiểm soát các biến thu nhập gia đình và các yếu tố khác của cha mẹ, quan điểm phát triển, kỳ vọng của cha mẹ và địa vị gia đình là những yếu tố quyết định trong việc đầu tư giáo dục của cha mẹ cho con cái.
Nghiên cứu của Youngmi Kim, Michael Sherraden và Margaret Clancy (2012) về "Kỳ vọng giáo dục của cha mẹ theo chủng tộc và tình trạng kinh tế xã hội" đã sử dụng mẫu đại diện quốc gia để kiểm tra kỳ vọng giáo dục ở các bà mẹ mới sinh con Kết quả cho thấy, cha mẹ người Mỹ da trắng không gốc La tinh có kỳ vọng cao hơn về giáo dục bậc cao cho con cái so với các gia đình người Mỹ gốc Phi, Ấn Độ và La tinh Tuy nhiên, khi kiểm soát các yếu tố địa lý và kinh tế xã hội, sự khác biệt này không còn rõ ràng Ngoài ra, yếu tố kinh tế như tài sản và mức độ bảo hiểm y tế cũng có ảnh hưởng tích cực đến kỳ vọng giáo dục của cha mẹ.
Trong nước
Hiện nay, nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư giáo dục đại học cho con cái ở Việt Nam còn hạn chế, chủ yếu được xem xét từ góc độ tâm lý học và giáo dục học Các nghiên cứu này thường chỉ tập trung vào giáo dục chung hoặc giáo dục phổ thông, và nhiều nghiên cứu chỉ dừng lại ở từng địa phương, vùng miền mà chưa có cái nhìn tổng thể.
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu dựa vào số liệu sơ cấp và thứ cấp từ các cuộc điều tra của Tổng cục Thống kê, với sự phân chia khu vực theo tiêu chí của cơ quan này (Hà, Tùng, 2014; Long, 2014; Dũng, Thông, 2014) Một số nghiên cứu cũng đã thực hiện khảo sát thực địa tại các địa phương có điều kiện kinh tế khó khăn để tiến hành phân tích sâu hơn (Trà, 2007; Actionaid, 2010; Hoa và cộng sự, 2014; Hùng).
Mặc dù các nghiên cứu được thực hiện vào năm 2014 đã cung cấp thông tin hữu ích, nhưng quy mô mẫu nhỏ và lựa chọn địa điểm đặc thù đã hạn chế khả năng suy rộng của các kết quả nghiên cứu này.
Phương pháp nghiên cứu phổ biến bao gồm hồi cứu tư liệu, nghiên cứu định tính, nghiên cứu định lượng và thống kê mô tả Mặc dù việc áp dụng mô hình định lượng trong phân tích còn hạn chế, nhưng gần đây, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu sử dụng các mô hình này như công cụ kiểm định cho kết quả nghiên cứu Một ví dụ điển hình là mô hình Tobit, một phương pháp hồi quy kiểm duyệt, được sử dụng để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho giáo dục của người dân (Dũng, Thông, 2014).
Về nội dung nghiên cứu: Các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào các nội dung sau:
(1) Thực trạng đầu tư giáo dục của bố mẹ cho con cái trong các hộ gia đình ở Việt Nam
Theo điều tra mức sống hộ gia đình năm 2010, mỗi hộ gia đình trung bình chi khoảng 6% tổng chi tiêu cho giáo dục (Hoa và cộng sự, 2014) Nghiên cứu về chi phí không chính thức trong giáo dục tại Việt Nam cho thấy nếu một hộ có hai học sinh cấp cơ sở, chi phí giáo dục chiếm 30% tổng thu nhập (Cơ quan Phát triển Bỉ, IRC, 2011) Đặng Hải Anh (2007) cũng chỉ ra rằng chi phí học thêm có ảnh hưởng lớn đến tổng chi tiêu của gia đình và ngày càng gia tăng ở các cấp học cao hơn.
Sự thay đổi trong nhận thức của người dân thể hiện qua việc họ không chỉ đầu tư nhiều hơn về tài chính cho việc học của con cái, mà còn dành thời gian và công sức để chăm sóc, theo dõi và định hướng việc học tập Cha mẹ thường mong muốn tham gia nhiều hơn vào quá trình học của con, nhưng mức độ đầu tư tinh thần này lại khác nhau giữa các hộ gia đình do điều kiện kinh tế, trình độ học vấn và văn hóa vùng miền Cụ thể, các gia đình ở thành phố thường đầu tư nhiều hơn so với nông thôn, và những gia đình có điều kiện tốt hơn, với cha mẹ có trình độ học vấn cao, cũng thể hiện sự đầu tư lớn hơn cho giáo dục con cái.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư giáo dục cho con cái bao gồm đặc điểm và điều kiện kinh tế của gia đình, các yếu tố vật chất như mạng lưới trường lớp, cơ sở vật chất và trang thiết bị giảng dạy, cùng với các yếu tố phi vật chất như đội ngũ cán bộ, giáo viên, chương trình giảng dạy và chi phí đóng góp.
Nghiên cứu cho thấy rằng trình độ học vấn của cha mẹ có ảnh hưởng lớn đến việc học của con cái, với những bậc phụ huynh có trình độ học vấn cao giúp trẻ có xác suất đi học cao hơn Đặc biệt, trong các gia đình nông thôn, trình độ học vấn của cha mẹ được xác định là yếu tố tác động mạnh nhất đến tình trạng giáo dục của con Sự ảnh hưởng này có thể thông qua các yếu tố trung gian như sự quan tâm đến việc học, hỗ trợ học thêm, thái độ và hành vi hướng nghiệp, tham gia vào công việc sản xuất, và mức chi tiêu cho giáo dục.
Hộ gia đình có trình độ học vấn càng cao thì chi tiêu cho giáo dục càng nhiều (Dũng, Thông, 2014; Phương, 2004; Trà, 2008)
Tuổi của chủ hộ có ảnh hưởng đáng kể đến mức chi tiêu cho giáo dục, với xu hướng chi tiêu tăng lên khi tuổi tác cao hơn, nhưng chỉ đến một mức tối đa trước khi giảm xuống Điều này cho thấy rằng, khi còn trẻ, chủ hộ thường nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của giáo dục và sẵn sàng đầu tư nhiều hơn cho con cái (Dũng, Thông, 2014).
Khi thu nhập của hộ gia đình tăng, chi tiêu cho giáo dục cũng sẽ tăng theo, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi (Dũng, Thông, 2014) Nghiên cứu trước đây cũng đã chỉ ra yếu tố này (Anh, 2007; Tasel).
Nghiên cứu cho thấy trẻ em từ gia đình có mức sống cao hơn có tỉ lệ nhập học cao hơn (2005) Các yếu tố như chi phí gián tiếp và chi phí cơ hội thường cản trở việc tiếp tục học của học sinh từ gia đình có thu nhập thấp (Long, 2014) Chi phí trực tiếp cho giáo dục vượt quá khả năng tài chính của các gia đình nghèo, gây khó khăn trong việc cho con cái đi học (Hoa, 2014).
Sự khác biệt vùng miền ảnh hưởng đến quyết định đầu tư giáo dục của cha mẹ, với tỷ lệ nhập học thấp hơn ở nhóm dân tộc thiểu số và vùng sâu, vùng xa do chi phí cơ hội và chi phí tiền mặt cao, cùng với thiếu nhận thức về giáo dục (ADB, 2002) Rào cản về khoảng cách không những không giảm mà còn gia tăng (Actionaid, 2010) Tỷ lệ học sinh ở các cấp trung học cơ sở và cao hơn thấp hơn tại các vùng nông thôn và miền núi, giảm dần từ Bắc vào Nam, do thói quen, truyền thống và tâm lý xã hội (Chuyên và cộng sự, 1999; Đạt, 2011).
Các nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào đầu tư của hộ gia đình mà chưa có sự phân tích chi tiết theo từng cấp học.
Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định đầu tư giáo dục trình độ đại học cho con cái trong các hộ gia đình ở Việt Nam
Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố quyết định đầu tư giáo dục trong các hộ gia đình ở Việt Nam
- Mục tiêu: Xác định các yếu tố quyết định đầu tư giáo dục trình độ đại học
Nghiên cứu này tập trung vào hộ gia đình Việt Nam, sử dụng dữ liệu từ cuộc điều tra VHLSS trong giai đoạn 2002 đến 2014 và thông tin từ bộ điều tra về đầu tư giáo dục cho con cái.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2016.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp kế thừa: Thu thập tài liệu, tổng quan nghiên cứu về đầu tư giáo dục của cha mẹ cho con cái
Phương pháp định lượng được áp dụng để đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư giáo dục cho con cái trong các hộ gia đình Việt Nam Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ cuộc điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) và số liệu điều tra hộ gia đình của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2016, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về xu hướng đầu tư giáo dục trong bối cảnh hiện tại.
Kết cấu báo cáo nghiên cứu: Ngoài phần mở đầu và kết luận, nghiên cứu gồm 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý thuyết về đầu tư giáo dục
Chương 2: Thực trạng đầu tư giáo dục trình độ đại học trong các hộ gia đình ở Việt Nam
Chương 3: Kết luận và kiến nghị
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ GIÁO DỤC
Một số khái niệm
1.1.1 Khái niệm giáo dục và đầu tư
Giáo dục là hình thức học tập, trong đó kiến thức, kỹ năng và thói quen của một nhóm người được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác qua giảng dạy, đào tạo hoặc nghiên cứu Quá trình giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể xảy ra thông qua tự học Bất kỳ trải nghiệm nào có ảnh hưởng lớn đến cách suy nghĩ, cảm nhận và hành động của con người đều được coi là có tính giáo dục.
Giáo dục là một hoạt động chuyên môn quan trọng của xã hội, nhằm tác động đến đối tượng học tập theo các yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn lịch sử cụ thể.
Từ giáo dục thường được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp
Giáo dục, theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các ảnh hưởng từ gia đình, nhà trường và xã hội, không chỉ giới hạn ở việc dạy học mà còn bao gồm các tác động giáo dục khác đến sự phát triển của con người.
- Theo nghĩa hẹp, giáo dục là một quá trình tác động đến thế hệ trẻ một cách toàn diện về mọi mặt (tư tưởng, đạo đức, hành vi, )
Giáo dục gia đình là quá trình giáo dục diễn ra trong gia đình, do các thế hệ trước thực hiện nhằm ảnh hưởng đến thế hệ sau Mục tiêu của giáo dục gia đình là hình thành và củng cố những phẩm chất, năng lực phù hợp với quan điểm của thế hệ trước và tiêu chuẩn xã hội Đây là hoạt động tự giác, có ý thức, có mục đích và kế hoạch, diễn ra thường xuyên và liên tục từ những người giáo dục (thế hệ trước) đến đối tượng được giáo dục (thế hệ sau), nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
Giáo dục gia đình là quá trình tự giác, có hệ thống và mục đích của thế hệ trước, nhằm hình thành những phẩm chất, giá trị và kỹ năng cho thế hệ sau, đáp ứng mong muốn của cha mẹ và yêu cầu của xã hội.
Đầu tư là quá trình hy sinh nguồn lực hiện tại để thực hiện các hoạt động nhằm đạt được kết quả lớn hơn trong tương lai Nguồn lực đầu tư có thể bao gồm tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, vốn và công nghệ Kết quả từ đầu tư không chỉ mang lại lợi ích kinh tế xã hội, như tăng trưởng kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống, mà còn tạo ra lợi ích tài chính cho nhà đầu tư thông qua lợi nhuận thu được.
1.1.2 Khái niệm đầu tư giáo dục
Từ những năm 1930, khái niệm đầu tư vào giáo dục đã được các học giả trên thế giới đưa ra, được gọi là đầu tư giáo dục Đầu tư cho giáo dục không chỉ đến từ Nhà nước mà còn từ tư nhân, hộ gia đình và cá nhân người học.
Nhà nước đầu tư cho giáo dục sẽ mang lại nguồn nhân lực cho xã hội;
Hộ gia đình đầu tư cho giáo dục nhằm nâng cao kỹ năng và trình độ cá nhân, qua đó tăng cường vốn nhân lực Theo Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ thu hồi vốn (ROR) từ đầu tư giáo dục tiểu học đạt 24%, trung học 17%, và cao đẳng đại học 14%, trong khi đó, đầu tư vào các ngành sản xuất vật chất chỉ mang lại tỷ lệ thu hồi 13%.
1.1.3 Khái niệm chi tiêu giáo dục
Chi phí trực tiếp cho giáo dục bao gồm học phí, lệ phí, chi phí mua sắm sách giáo khoa, vở và đồ dùng học tập, cũng như chi phí đi lại và lưu trú nếu học sinh ở xa nhà Ngoài ra, còn có chi phí cho đồng phục và các khoản đóng góp khác cho trường.
Chi phí gián tiếp hay chi phí cơ hội của giáo dục được xác định dựa trên giả thiết về việc đầu tư cho giáo dục Nếu không theo học, học sinh và gia đình có thể sử dụng thời gian và tài chính cho các hoạt động khác như làm việc hoặc giải trí Giá trị của cơ hội lớn nhất bị mất khi quyết định đầu tư vào giáo dục, từ đó cho phép tính toán chi phí gián tiếp hay chi phí cơ hội liên quan đến giáo dục.
1.1.4 Các yếu tố tác động tới đầu tư giáo dục Ở trong bất cứ một hoàn cảnh nào, hoạt động đầu tư bao giờ cũng được kỳ vọng sẽ đem lại lợi nhuận Do vậy, gia đình và cá nhân đầu tư vào giáo dục cũng kỳ vọng tăng năng lực cá nhân nhằm tăng cơ hội phát triển và tồn tại trong xã hội Vì đầu tư giáo dục ở góc độ cá nhân sẽ làm tăng vốn nhân lực cho bản thân cá nhân đó, đồng thời cũng làm tăng vốn nhân lực cho toàn xã hội Đầu tư giáo dục của hộ gia đình chỉ có hiệu quả nếu thu nhập kỳ vọng đạt được sau khi học và đi làm bù đắp được khoản chi phí cho học tập trước đó (bao gồm chi phí trực tiếp và gián tiếp) Đầu tư giáo dục của hộ gia đình xuất phát từ môi trường giáo dục gia đình Về tổng thể, chức năng giáo dục của gia đình được hình thành một cách có ý thức, có nghĩa là ông bà, cha mẹ và những người lớn trong gia đình đã từng bước hình thành một môi trường giáo dục gia đình Môi trường giáo dục gia đình được hình thành rất khác nhau, phụ thuộc vào truyền thống gia đình, điều kiện kinh tế, bề dày văn hóa, đạo đức, trình độ tri thức của các thành viên trong gia đình nhất là cha mẹ, và định hướng phát triển của mỗi gia đình Vì vậy, các quyết định ảnh hưởng tới đầu tư giáo dục của hộ gia đình phụ thuộc rất nhiều vào môi trường giáo dục của gia đình đó.
Lý thuyết về đầu tư giáo dục
1.2.1 Lý thuyết vốn nhân lực
Vốn con người, hay còn gọi là vốn nhân lực, được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau K.Marx coi sức lao động cùng với năng lực thể chất và trí tuệ là vốn con người Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) định nghĩa vốn nhân lực là tổng hợp kiến thức, kỹ năng và năng lực tiềm tàng trong mỗi cá nhân Becker (1964) cho rằng vốn nhân lực là sự kết hợp không thể tách rời giữa kiến thức, kỹ năng và sức khỏe, tạo ra giá trị cho cá nhân Mc.Connell, Brue và Macpherson nhấn mạnh rằng vốn con người là sự tích lũy từ giáo dục, đào tạo và sức khỏe, nhằm nâng cao năng suất lao động Cuối cùng, giáo trình Kinh tế nhân lực của Đại học Kinh tế Quốc dân xác định vốn nhân lực là tập hợp kiến thức, khả năng và kỹ năng mà con người tích lũy được.
Khoa học về vốn nhân lực đã xuất hiện từ thế kỷ XVIII, khi Adam Smith công bố tác phẩm nổi tiếng "Sự thịnh vượng của các quốc gia".
Adam Smith (1776) cho rằng "mỗi con người đều bị thúc đẩy bởi tư lợi, đặc biệt là lòng ham muốn có được của cải Các động lực ích kỷ là nền tảng cho hành động của con người Sự ích kỷ của cá nhân không chỉ mang lại lợi ích cho chính họ mà còn góp phần vào lợi ích xã hội Khi mỗi cá nhân nỗ lực không ngừng để làm lợi cho bản thân, điều này sẽ dẫn đến sự thịnh vượng chung của quốc gia."
Lý thuyết về vốn nhân lực hiện đại nhấn mạnh rằng mọi hành vi của con người đều bắt nguồn từ nhu cầu lợi ích kinh tế cá nhân trong thị trường cạnh tranh Theo lý thuyết này, cá nhân đầu tư vào giáo dục và đào tạo để tích lũy kiến thức và kỹ năng, từ đó nâng cao vốn nhân lực của mình.
Vốn con người đóng vai trò quan trọng trong việc giảm nghèo bền vững, theo nghiên cứu của Thái Phúc Thành (2014) tại Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội Đầu tư vào vốn con người không chỉ mang lại lợi ích lâu dài cho cá nhân mà còn góp phần vào lợi ích kinh tế quốc dân, từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
Lý thuyết vốn nhân lực cho rằng cá nhân như những nhà đầu tư, sẵn sàng chi tiền cho giáo dục với hy vọng thu được lợi ích kinh tế cao hơn trong tương lai Đầu tư này không chỉ bao gồm chi phí học tập mà còn cả việc mất thu nhập tạm thời do thời gian dành cho việc học Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng là đạt được thu nhập cao hơn sau khi hoàn thành quá trình giáo dục.
Vốn nhân lực có các đặc điểm như sau:
(1) Thứ nhất, vốn con người không thể chuyển nhượng, mua bán, hoặc thế chấp
Mỗi cá nhân đầu tư vào giáo dục với hy vọng đạt được nhiều lợi ích khi tham gia thị trường lao động, tuy nhiên, những lợi ích này phụ thuộc vào năng lực của họ Đầu tư vào giáo dục mang tính rủi ro cao vì không có sự đảm bảo cho thành công Thêm vào đó, tính rủi ro này còn đến từ thời gian đợi chờ dài trước khi thu được kết quả Chẳng hạn, một người dành 4 năm học đại học nhưng khi ra trường lại nhận thấy thu nhập thấp và không thể quay lại học để trở thành bác sĩ.
Vốn nhân lực không đủ để biến người sở hữu thành nhà tư bản; trừ khi họ tự làm việc, nếu không, họ sẽ chỉ trở thành người làm công ăn lương.
Vốn nhân lực được tích lũy qua 3 giai đoạn chính trong đời người, đó là:
Giai đoạn phát triển kỹ năng bao gồm ba phần chính: (1) giai đoạn ban sơ, nơi mà kiến thức được hình thành từ bẩm sinh hoặc tiếp nhận chủ yếu ở gia đình; (2) giai đoạn giáo dục chính quy, nơi học sinh được đào tạo trong môi trường học thuật; và (3) giai đoạn đào tạo trong công việc (on-the-job training), giúp người lao động áp dụng kiến thức vào thực tiễn Nghiên cứu và đo lường kết quả trên thị trường lao động từ vốn kỹ năng này là rất quan trọng.
Trần Lê Hữu Nghĩa (2010) đã nghiên cứu về lý thuyết vốn nhân lực, nhấn mạnh mối quan hệ giữa giáo dục và vốn xã hội Bài viết cho thấy rằng vốn nhân lực tích lũy trong giai đoạn giáo dục chính quy là chủ đề được nghiên cứu nhiều nhất, bởi các yếu tố liên quan đến vốn con người ở giai đoạn này dễ dàng được đo lường.
1.2.2 Lý thuyết đầu tư vốn nhân lực
Vốn nhân lực được hình thành từ việc đầu tư cho người lao động, bao gồm giáo dục, đào tạo nghề, chăm sóc sức khỏe và phúc lợi xã hội Đầu tư vào vốn nhân lực có tác động lớn đến thu nhập thực tế trong tương lai thông qua các nguồn lực khác nhau Mỗi phương thức đầu tư sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến thu nhập, tiêu dùng, quy mô hoàn trả và mối liên hệ giữa đầu tư và mức độ hoàn trả Tuy nhiên, tất cả các hình thức đầu tư nhằm nâng cao khả năng vật chất và trí tuệ của con người đều góp phần tăng thu nhập thực tế trong tương lai.
Lý thuyết đầu tư vốn nhân lực của Gary Becker (1964) nhấn mạnh rằng việc đầu tư vào vốn nhân lực bao gồm các phương thức như học tập, đào tạo tại nơi làm việc, chăm sóc y tế và phúc lợi xã hội Giống như các hình thức đầu tư khác, đầu tư vào vốn nhân lực đòi hỏi chi phí ngắn hạn và kỳ vọng lợi nhuận trong tương lai Các chi phí này được chia thành ba loại: (1) chi phí trực tiếp như học phí và sách vở; (2) chi phí gián tiếp do không thể làm việc trong thời gian đầu tư; và (3) tổn thất tinh thần do quá trình học tập thường khó khăn và không hấp dẫn.
Đầu tư vào giáo dục và đào tạo mang lại lợi tức kỳ vọng cao hơn trong tương lai, nâng cao cơ hội nghề nghiệp và gia tăng các hoạt động phi thị trường Đầu tư vào vốn nhân lực được đo lường qua ba thước đo chính: bẩm sinh, giáo dục chính quy (trình độ học vấn) và giáo dục trong công việc (kỹ năng nghề nghiệp) Những yếu tố này đều góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của nguồn nhân lực trong nền kinh tế.
5 Gary S.Becker(1962) Investment in human capital: A theoretical analysis The journal of political economy Vol 70, Issue 5, Part 2: Investment in Human beings (Oct.1962), 9-49
Trong cuốn sách "Kinh tế lao động hiện đại: Lý thuyết và chính sách công", Ronald G Ehrenberg và Robert S Smith (2003) nhấn mạnh rằng khi đầu tư vào giáo dục, cá nhân cần xem xét kỹ lưỡng giữa chi phí và lợi ích của việc học Nếu lợi ích thu được từ việc học vượt trội hơn chi phí bỏ ra, thì đó là một quyết định đầu tư hiệu quả Phân tích chi phí - lợi ích trong đầu tư giáo dục không chỉ giúp đánh giá hiệu quả mà còn đo lường tác động của việc gia tăng đầu tư vào vốn con người.
Kinh nghiệm về đầu tư giáo dục ở một số quốc gia
1.3.1 Kinh nghiệm về đầu tư giáo dục đại học ở Hàn Quốc Ở Hàn Quốc, vai trò của bố mẹ trong việc định hướng giáo dục cho con cái ngày càng thể hiện rõ thông qua sự tham gia của các bậc phụ huynh vào giáo dục Theo truyền thống, cha mẹ ở Hàn Quốc có vai trò quyết định trong định hướng giáo dục cho con cái, thể hiện qua các khoản đầu tư tài chính cho con cái tham gia các lớp học thêm, học phí, các hoạt động ngoại khóa, và các chi phí trường học khác Các hộ gia đình Hàn Quốc có xu hướng chi tiêu nhiều cho giáo dục và các sản phẩm giáo dục so với thu nhập của hộ so với các nước phát triển khác Các số liệu cho thấy, tỷ lệ này chiếm khoảng 15% GNP và khoảng 22% thu nhập của hộ Một khảo sát năm 2006 cho thấy, trung bình một hộ gia đình Hàn Quốc đầu tư khoảng từ 300-500USD/tháng chỉ riêng cho việc học tiếng Anh của trẻ Gần đây, các bậc cha mẹ ở Hàn Quốc tham gia vào Hội phụ huynh thường xuyên tham gia và liên hệ, làm cầu nối giữa nhà trường và phụ huynh Theo Bộ Giáo dục, Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (MEST), từ năm 2010, một quy định mới đã tăng cường vai trò của cha mẹ vào việc tiếp cận giáo dục cũng như tham gia vào các nhà trường Vai trò này thể hiện qua các chương trình giám sát trường học của phụ huynh Hàn Quốc Các chương trình giám sát trường học này được thiết kế để khuyến khích các bậc phụ huynh hiểu hơn về tiến trình phát triển của trẻ ở trường, tăng cường nhận thức của cha mẹ về các nguồn lực ở trường học và tình nguyện tham gia hoặc trở thành một phần của Hội phụ huynh 7
1.3.2 Kinh nghiệm về đầu tư giáo dục đại học ở Nhật Bản
Nhật Bản được công nhận là một trong những quốc gia có hệ thống giáo dục thành công nhất thế giới, với sự bình đẳng và chất lượng giáo dục cao, đặc biệt ở cấp tiểu học Chi phí giáo dục không chỉ do cá nhân và gia đình gánh chịu mà còn được toàn xã hội hỗ trợ Các quốc gia phát triển trong OECD đã đánh giá cao hiệu quả của việc xã hội hóa đầu tư cho giáo dục, cho thấy lợi ích kinh tế lớn từ việc này Cụ thể, chi phí nhà nước đầu tư cho một sinh viên tốt nghiệp đại học sẽ được bù đắp hơn gấp đôi thông qua các giá trị kinh tế mà họ đóng góp cho xã hội, như tăng thuế thu nhập và giảm gánh nặng xã hội Điều này chứng tỏ rằng đầu tư vào giáo dục mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội rất lớn.
Chi phí giáo dục tại Nhật Bản rất cao, với mỗi gia đình chi khoảng 10 triệu yên (121.000 USD) cho trường đại học quốc lập và lên tới 23 triệu yên (290.000 USD) cho trường tư thục Mức chi này chiếm hơn 50% tổng thu nhập của các hộ gia đình có hai con học tại trường tư thục Gánh nặng tài chính này gia tăng khi con cái vào đại học, dẫn đến tình trạng dự trữ tài chính của nhiều gia đình giảm xuống mức âm Theo thống kê, khi trẻ vào đại học, thu nhập không đủ trang trải chi phí giáo dục, khiến nhiều trẻ phải lựa chọn giữa việc học tiếp hoặc đi làm Đặc biệt, phụ huynh là người chi trả học phí cho con, trong khi tỷ lệ học sinh nhận học bổng tại Nhật Bản rất thấp, trái ngược với các nước OECD Dù học sinh không phải trả học phí trong giai đoạn giáo dục đặc biệt, gánh nặng tài chính vẫn là vấn đề lớn đối với các gia đình Nhật Bản.
1.3.3 Kinh nghiệm về định hướng giáo dục ở Hoa Kỳ
Mỹ là một trong những quốc gia phát triển hàng đầu với hệ thống phúc lợi xã hội tốt, trong đó giáo dục tiểu học và trung học công lập thường được nhà nước tài trợ Gia đình chỉ cần đầu tư cho học phí trường tư, sách vở và vật dụng cần thiết Đối với trẻ em mẫu giáo, đầu tư có thể bao gồm chương trình chăm sóc trẻ, giáo dục sớm, sách, đồ chơi, và các lớp học năng khiếu Với trẻ trong độ tuổi đi học, do học phí được chi trả từ ngân sách, đầu tư chủ yếu tập trung vào các chương trình học thêm, gia sư, hoạt động ngoại khóa, và đặc biệt là giáo dục đại học Những hình thức đầu tư này ảnh hưởng đến kết quả học tập và thành tựu tương lai của trẻ Nghiên cứu cho thấy quyết định đầu tư giáo dục của gia đình bị chi phối bởi thu nhập hộ gia đình, trong khi định hướng giáo dục thường xuất phát từ kỳ vọng của cha mẹ Tại Mỹ, nhiều gia đình trung lưu và thượng lưu coi việc chăm sóc có kế hoạch cho con cái là ưu tiên hàng đầu ngay từ lứa tuổi mầm non.
8 Ariel Kalil, Thomas Deleire (2004) Family investments in children’s potential: resources and parenting behaviors that promote success Psychology Press.
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ GIÁO DỤC TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC
Tình hình phát triển giáo dục ở Việt Nam
2.1.1 Tình hình phát triển giáo dục nói chung ở Việt Nam
Hơn 30 năm thực hiện đổi mới kinh tế - xã hội, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo Tỷ lệ người dân biết chữ tăng cao, đạt trên 95% - vào loại cao nhất thế giới, đồng thời tỷ lệ tái mù thấp Tỷ lệ trẻ em được đến lớp đúng độ tuổi tăng Việt Nam là một trong những nước đầu tiên hoàn thành Mục tiêu Thiên niên kỳ (DMG)
Một số thành tựu nổi bật trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo
Giáo dục mầm non là một lĩnh vực quan trọng, và vào năm 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai Đề án phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi Mục tiêu của đề án này là đảm bảo rằng tất cả trẻ em 5 tuổi đều có cơ hội được đến trường và tham gia vào các hoạt động giáo dục mầm non.
Giáo dục phổ thông tại Việt Nam đang được cải cách bằng cách tách mô hình trường phổ thông cơ sở thành trường tiểu học và trường trung học cơ sở, đồng thời tách trường trung học thành trường trung học cơ sở và trường trung học phổ thông, nhằm thống nhất với ba cấp học chính là tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông Trong lĩnh vực đào tạo đại học và cao đẳng, cũng như trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, việc xã hội hóa giáo dục đang được thực hiện từng bước Hiện tại, tỉnh Đăk Nông là địa phương duy nhất chưa có trường đại học hoặc cao đẳng.
Kết quả thực hiện các chính sách giáo dục và đào tạo đã củng cố cơ sở vật chất ngành giáo dục và tăng cường đội ngũ giáo viên, đáp ứng nhu cầu phát triển Kể từ năm 2000, Việt Nam đã hoàn thành việc phổ cập giáo dục tiểu học và từ đó duy trì cũng như nỗ lực nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học.
Tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đồng thời đang triển khai phổ cập trung học cơ sở Chất lượng giáo dục tiểu học không ngừng được cải thiện, với mục tiêu không chỉ là trẻ em hoàn thành chương trình tiểu học mà còn hoàn thành đúng độ tuổi Đến năm 2009, tỷ lệ học sinh đi học đúng tuổi ở bậc tiểu học đạt 97%.
Trong thập kỷ qua, tỷ lệ biết chữ trong dân số từ 10 tuổi trở lên đã tăng đáng kể Cụ thể, vào năm 2008, tỷ lệ biết chữ toàn quốc đạt 93,1%, với 96,1% ở khu vực thành thị và 92% ở nông thôn Đặc biệt, tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi từ 10 đến 40 là 96%, không có sự khác biệt giữa nam và nữ.
2.1.2 Tình hình phát triển giáo dục đại học nói riêng
Hệ thống cơ sở giáo dục đào tạo của Việt Nam đang có sự phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là sự gia tăng từ khu vực tư nhân và các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước Điều này phản ánh quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đồng thời thể hiện nỗ lực thực hiện xã hội hóa dịch vụ giáo dục, đặc biệt trong lĩnh vực cao đẳng và đại học.
Bảng 2.1: Số lượng các cơ sở cung ứng giáo dục và đào tạo trong hệ thống giáo dục đào tạo Việt Nam giai đoạn 2007-2015
Mầm non THPT THCN Cao đẳng- Đại học
Tỷ lệ tăng Tổng số 11,629 13,867 16.1 27,900 28,922 3.53 275 313 12.14 369 436 15.37 Công lập 5687 12,379 54.1 27,121 28,336 4.29 203 185 -9.73 305 348 12.36 Ngoài công lập 5,942 1488 -299.3 779 586 -32.94 72 128 43.75 64 88 27.27
(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Niên giám thống kê Giáo dục và Đào tạo)
Tuy nhiên, phát triển giáo dục và đào tạo vẫn còn bộc lộ những hạn chế như sau:
9 Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010) Báo cáo mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
Cơ sở hạ tầng giáo dục hiện nay chưa đáp ứng đủ nhu cầu của xã hội, với tỷ lệ phòng học kiên cố chỉ đạt 55,15% Khoảng 37% phòng học vẫn là tạm bợ và 7,85% phòng học phải nhờ, mượn, chủ yếu tập trung ở các vùng khó khăn Sự thiếu hụt này phản ánh sự phân hóa giữa thành thị và nông thôn, cũng như giữa các vùng và mức thu nhập khác nhau Trẻ em ở nông thôn, miền núi và khu vực hẻo lánh gặp khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục mầm non, dẫn đến hạn chế trong cơ hội phát triển của các em (Báo cáo quốc gia giáo dục cho mọi người 2015 của Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2016).
Mặc dù đã có sự đầu tư mở rộng cơ sở vật chất, tỷ lệ giáo viên/học sinh vẫn chưa được cải thiện, với số lượng giáo viên hiện tại không đáp ứng đủ nhu cầu của học sinh Tỷ lệ học sinh/giáo viên ở các cấp học từ mầm non đến phổ thông dao động từ 15 đến 18 học sinh cho mỗi giáo viên Tại các trường cao đẳng và đại học, tỷ lệ này trong giai đoạn 2007-2015 cũng không có nhiều thay đổi; đặc biệt, trong năm học 2014-2015, tỷ lệ giảng viên/sinh viên cao hơn so với năm học 2007-2008, và khu vực ngoài công lập luôn có tỷ lệ này cao hơn so với khu vực công lập.
Bảng 2.2 : Thay đổi về tỷ lệ giảng viên/sinh viên giữa đơn vị công lập và ngoài công lập ở hệ cao đẳng và đại học 2007-2015
Tỷ lệ giảng viên/sinh viên Tỷ lệ giảng viên/sinh viên Cao đẳng 2007-2008 2014-2015 Đại học 2007-2008 2014-2015
Ngoài công lập 0.03 0.05 Ngoài công lập 0.02 0.06
(Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu Thống kê giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo qua các năm)
Khả năng tiếp cận giáo dục giữa học sinh từ hộ gia đình thu nhập thấp và cao có sự khác biệt rõ rệt Tỉ lệ nhập học đúng độ tuổi và mức chi cho giáo dục cho thấy rằng trong khi ở cấp tiểu học, tỉ lệ tham gia lớp học giữa hai nhóm này không chênh lệch nhiều, thì sự khác biệt bắt đầu xuất hiện từ cấp trung học cơ sở và ngày càng gia tăng ở cấp Cao Đẳng, Đại học Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009, điều này phản ánh sự bất bình đẳng trong cơ hội giáo dục giữa các tầng lớp xã hội.
Bảng 2 3 Tỉ lệ nhập học đúng độ tuổi các cấp, 2009
Chỉ số Tiểu học THCS THPT Cao Đẳng Đại học
(Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009)
Tình hình đầu tư giáo dục đại học trong các hộ gia đình ở Việt Nam
2.2.1 Lượng hóa đầu tư giáo dục đại học trong các hộ gia đình theo số liệu điều tra mức sống hộ gia đình VHLSS Đề tài khoa học ô Nghiờn cứu cỏc yếu tố tỏc động tới quyết định đầu tư giỏo dục trỡnh độ đại học trong cỏc hộ gia đỡnh ở Việt Nam ằ sử dụng số liệu từ cuộc Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) do Tổng cục Thống kê (GSO) thực hiện Đây là cuộc khảo sát đại diện ở cấp độ quốc gia, được thực hiện lần đầu tiên vào năm 1992 Cuộc điều tra lần thứ hai được tiến hành vào năm 1998 và từ năm 2000 trở đi được thực hiện 2 năm một lần Mục đích thực hiện các cuộc khảo sát nhằm cung cấp thông tin về mức sống dân cư phục vụ việc xây dựng, đánh giá chính sách
Mục đích của điều tra mức sống hộ gia đình VHLSS là thu thập thông tin về mẫu hộ gia đình và xã/phường nhằm đánh giá mục tiêu và xây dựng các chính sách cải thiện mức sống cho người dân trên toàn quốc và từng vùng Chương trình này cũng bao gồm việc đánh giá tình hình nghèo đói và bất bình đẳng, cũng như thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và chiến lược quốc gia về xóa đói giảm nghèo Ngoài ra, điều tra còn cung cấp dữ liệu để tính toán chỉ số giá tiêu dùng CPI và xây dựng hệ thống thống kê quốc gia Phương pháp phỏng vấn trực tiếp được sử dụng để thu thập thông tin, với tỷ lệ trả lời của các cuộc khảo sát thường đạt trên 90%.
Các cuộc điều tra khảo sát mức sống hộ gia đình chủ yếu phản ánh tình hình sống của các hộ gia đình trên toàn quốc, đồng thời xem xét các điều kiện kinh tế xã hội cơ bản như đặc điểm của xã/phường, ảnh hưởng đến mức sống của người dân nơi họ cư trú.
Tuy nhiên, hạn chế của bộ số liệu VHLSS là :
- Điều tra hộ gia đình nhưng phiếu là lấy theo cá nhân, vì vậy, thông tin là thông tin cá nhân
Trong điều tra VHLSS, hộ gia đình không chỉ bao gồm cha mẹ và con cái, do đó việc xử lý dữ liệu để quy về bộ mẫu quy mô hộ gia đình không thể phản ánh chính xác các chỉ tiêu cần thiết Điều này ảnh hưởng đến việc lượng hóa số tiền đầu tư cho con cái đang học đại học, cũng như xác định mối quan hệ giữa các thành viên trong hộ và đối tượng đi học.
Đối với các hộ gia đình, việc xác định mức chi cho giáo dục là rất quan trọng, đặc biệt là mức chi cho các cá nhân trong gia đình đang theo học từ bậc cao đẳng trở lên.
Phân tích số liệu VHLSS năm 2010 và 2014 cho thấy thu nhập trung bình hàng tháng của hộ gia đình lần lượt là 5.348,67 nghìn đồng và 9.085,87 nghìn đồng Trong giai đoạn này, mức chi tiêu của các hộ gia đình cho giáo dục cũng được ghi nhận.
Bảng 2.4: Chi tiêu giáo dục của hộ gia đình 2010 và 2014
Mức chi (trong 12 tháng) Chi giáo dục chung của hộ 9402 2881.1 9399 4121.628 Chi giáo dục đại học của hộ 9402 1621.988 9399 2301.536
(Nguồn : tính toán từ số liệu VHLSS 2010-2014)
Mức chi cho giáo dục của các hộ gia đình hiện nay so với thu nhập vẫn còn tương đối thấp, nhưng lại phù hợp với chi phí giáo dục trong bối cảnh hệ thống giáo dục hiện tại.
2.2.2 Xác định các yếu tố tác động tới đầu tư giáo dục trong các hộ gia đình ở Việt Nam Đề tài sử dụng số liệu VHLSS trong các năm từ 2002-2010 để lượng hóa mức đầu tư giáo dục, đặc biệt là ở trình độ giáo dục đại học, từ đó phân tích các các yếu tố quyết định đầu tư giáo dục trong các hộ gia đình
Các phương trình được sử dụng trong mô hình để lượng hóa mức thu nhập của từng cá nhân theo trình độ học vấn, nghề nghiệp
Mô hình hồi quy được dựa trên hàm thu nhập :
Mô hình hồi quy ln(thu nhập) = βo + β1số năm đi học + β2 tuổi + β3 tuổi 2 + các biến khác + ε chỉ ra rằng thu nhập của người lao động tăng theo số năm đi học, với β1 dương Tuổi được sử dụng như một đại diện cho kinh nghiệm làm việc, giả định rằng người lớn tuổi thường có nhiều kinh nghiệm hơn Lý thuyết cho rằng thu nhập của người lao động cao hơn khi lớn tuổi, nhưng tốc độ tăng trưởng thu nhập sẽ giảm dần, do đó β2 dương và β3 âm.
Trong bộ số liệu VHLSS, câu hỏi về giáo dục yêu cầu người tham gia cho biết họ đã học hết lớp mấy Số năm đi học sẽ được xác định dựa trên câu trả lời này, ví dụ, nếu ai đó trả lời đã học hết lớp 1, thì họ sẽ được tính là có 1 năm đi học.
Trong VHLSS, có hai câu hỏi liên quan đến trình độ học vấn của cá nhân Câu hỏi đầu tiên yêu cầu ghi chú về mức độ học vấn, trong đó những người học hết lớp 5 sẽ được chuyển sang câu hỏi về bằng cấp Câu hỏi thứ hai xác định bằng cấp cao nhất mà người được hỏi đạt được Theo đó, số năm đi học sẽ được quy đổi dựa trên bằng cấp cao nhất: bằng cấp 1 tương đương 5 năm, cấp 2 9 năm, cấp 3 12 năm, cao đẳng 15 năm, đại học 16 năm và tiến sĩ 21 năm.
10 Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về số năm đào tạo theo các cấp học
Nghiên cứu này tập trung vào đối tượng từ 15 đến 65 tuổi, phù hợp với quy định về độ tuổi tham gia thị trường lao động.
Trong hàm hồi quy, các biến giả được sử dụng để phân tích sự khác biệt về lợi tức giáo dục dựa trên các yếu tố như giới tính, ngành nghề, trình độ học vấn và địa bàn cư trú.
(+ ) Về tình trạng hôn nhân : Gồm 2 biến, một biến là những người đã kết hôn và những người còn lại là (chưa kết hôn, ly hôn, góa)
Biến đã kết hôn nhận giá trị bằng 1 nếu đã kết hôn và bằng 0 với những người còn lại (độc thân, góa, ly thân, ly hôn)
Địa bàn cư trú được chia thành hai loại: thành thị và nông thôn Về nghề nghiệp, có chín nhóm chính, bao gồm: lãnh đạo ở các ngành và cấp độ khác nhau; chuyên gia kỹ thuật bậc cao và bậc trung; nhân viên văn phòng; nhân viên bảo vệ và dịch vụ cá nhân; lao động có kỹ thuật trong nông nghiệp; thợ thủ công lành nghề; thợ lắp ráp và vận hành máy móc; lao động giản đơn; và lực lượng vũ trang quân đội.
Các biến giả ngành, nghề và khu vực kinh tế được xác định giá trị bằng 1 cho những người làm việc trong ngành, nghề hoặc khu vực cụ thể, và giá trị bằng 0 cho những người không thuộc nhóm đó.
Việc hồi quy sẽ được thực hiện với giả thiết rằng các cá nhân không khác nhau về khả năng
Phân tích các yếu tố tác động tới quyết định đầu tư giáo dục trình độ đại học
Bài viết sử dụng số liệu thứ cấp từ cuộc khảo sát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với 3.200 hộ gia đình tại 06 tỉnh thành phố trên toàn quốc có con trong độ tuổi học từ tiểu học đến đại học Trong đó, 63% hộ gia đình sống ở thành thị và 37% ở nông thôn, phản ánh đặc điểm mẫu điều tra đa dạng và toàn diện.
Bảng 2.10: Một số đặc điểm của mẫu điều tra
Các đặc trưng cơ bản Chung
Khu vực cư trú Thành thị Nông thôn
Tổng số con bình quân một hộ (con/hộ) 2,09 1,97 2,41
Thu nhập BQ/hộ (triệu đồng/tháng) 14,72 17,43 7,89
Chi tiêu BQ/hộ (triệu đồng/tháng) 11,28 13,21 6,41
Chi tiêu giáo dục BQ/hộ/tháng (triệu đồng/tháng) 3,93 4,69 1,99 Chi tiêu giáo dục BQ/con/tháng (triệu đồng/tháng) 2,53 3,07 1,15
Phân tích dữ liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy yếu tố địa lý ảnh hưởng lớn đến đầu tư giáo dục của các hộ gia đình Cụ thể, chi tiêu giáo dục của hộ gia đình ở thành thị cao gấp hơn 2 lần so với hộ ở nông thôn, và chi tiêu bình quân cho mỗi con ở thành thị cũng cao gần 3 lần so với nông thôn Điều này phản ánh rõ ràng qua việc thu nhập bình quân của hộ gia đình ở thành thị cao gấp 2 lần so với hộ ở nông thôn.
2.3.1 Mối quan hệ về các yếu tố kinh tế với quyết định đầu tư giáo dục đại học
Theo số liệu điều tra, mức chi giáo dục bình quân cho mỗi trẻ em là 2,53 triệu đồng/tháng, trong đó khu vực thành thị chi cao hơn khu vực nông thôn khoảng 2,7 lần (3,07 triệu đồng so với 1,15 triệu đồng) Tỷ lệ chi cho giáo dục của các hộ gia đình đạt mức bình quân 34,7%, với khu vực thành thị có tỷ lệ cao hơn so với nông thôn.
Bảng 2.11: Mức chi và Tỷ lệ chi giáo dục theo khu vực cư trú
Nhóm hộ theo tổng chi cho giáo dục Chung Khu vực cư trú
Tỷ lệ chi giáo dục (%) 34,7 35,5 30,5
Mức chi giáo dục bình quân (triệu đồng/con/tháng) 2,35 3,07 1,15
(Nguồn: Phân tích trên số liệu điều tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Tỷ lệ chi tiêu cho giáo dục cũng được phản ánh khi phân tích ở mức chi tiêu như sau:
Tỷ lệ chi giáo dục được phân chia thành 4 nhóm: tỷ lệ chi dưới 18%; từ
Mức chi giáo dục tại Việt Nam được phân chia thành ba nhóm chính: dưới 1 triệu đồng, từ 1 đến dưới 3 triệu đồng và từ 3 triệu đồng trở lên Theo nghiên cứu của Liên Hợp Quốc năm 2011, chi đầu tư giáo dục của các hộ gia đình chiếm khoảng 30-50% tổng chi tiêu, với các mức chi giáo dục bình quân dao động từ 18% đến trên 35%.
Theo số liệu, hộ gia đình có tỷ lệ chi cho giáo dục từ 35% trở lên chiếm 44,3%, trong khi hộ có tỷ lệ chi từ 18 đến dưới 25% chỉ chiếm 16,9% Mức chi giáo dục bình quân cho thấy 47% hộ có mức chi từ 1 đến dưới 3 triệu đồng mỗi tháng cho mỗi con Tại khu vực thành thị, hộ có tỷ lệ chi cao thường đi kèm với mức chi giáo dục bình quân cao; cụ thể, nhóm hộ chi từ 3 triệu đồng trở lên và có tỷ lệ chi từ 35% trở lên chiếm 28,5% Ngược lại, nhóm hộ có tỷ lệ chi cao (trên 25%) nhưng mức chi giáo dục bình quân thấp (dưới 1 triệu) và nhóm hộ có tỷ lệ chi thấp (dưới 18%) nhưng mức chi giáo dục bình quân cao (trên 3 triệu) chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng số hộ ở khu vực thành thị.
Bảng 2.5: Cơ cấu hộ theo tỷ lệ chi giáo dục và mức chi giáo dục bình quân
Tỷ lệ chi giáo dục
Chi giáo dục bình quân
(Nguồn: Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ
Tại khu vực nông thôn, có hai xu hướng chi tiêu giáo dục trái ngược nhau Khoảng 22,8% hộ gia đình có mức chi giáo dục bình quân thấp (dưới 1 triệu đồng) lại có tỷ lệ chi tiêu cũng thấp (dưới 18%) Ngược lại, một số hộ dù có mức chi giáo dục bình quân thấp nhưng tỷ lệ chi tiêu lại cao (trên 35%) Sự khác biệt này có thể được giải thích bởi điều kiện sống hạn chế ở nông thôn, dẫn đến mức chi tiêu bình quân hàng tháng thấp, trong khi các khoản phí giáo dục mà con cái họ phải đóng vẫn giống như các khu vực khác, gây ra tỷ lệ chi cao cho những hộ gia đình này.
2.3.2 Các đặc điểm của hộ ảnh hưởng đến quyết định đầu tư giáo dục của hộ gia đình
(i) Về số con trong hộ
Hộ gia đình có nhiều con đang theo học thường có mức đầu tư tài chính trung bình cho mỗi trẻ thấp hơn Điều này dẫn đến chi phí giáo dục bình quân của các hộ gia đình này cũng giảm, phản ánh sự phân bổ tài chính trong việc nuôi dạy con cái.
Mức chi giáo dục cho trẻ em đang đi học ở các hộ nghèo có 3 con trở lên chỉ đạt 1,59 triệu đồng/con/tháng, trong khi đó, mức chi của nhóm hộ giàu có 1 con lên tới 7,09 triệu đồng/người/tháng Sự chênh lệch này cho thấy mức chi giáo dục bình quân của hộ nghèo chỉ khoảng 310.000 đồng/con/tháng, là mức thấp nhất so với các nhóm khác Điều này dẫn đến sự khác biệt lớn về đầu tư tài chính cho giáo dục, với mức chênh lệch giữa nhóm đầu tư cao nhất và thấp nhất lên tới 22,9 lần (7,09 triệu so với 0,31 triệu đồng/con/tháng).
Bảng 2.6: Mức chi giáo dục bình quân theo số con đang đi học
(Đơn vị tính: Triệu đồng/con/tháng)
Số con đang đi học (bao gồm cả đi học phổ thông và học chuyên nghiệp) Chung
Khu vực cư trú Thành thị
Hộ có 1 con đang đi học 3,22 3,70 1,55
Hộ có 2 con đang đi học 2,15 2,62 0,99
Hộ có từ 3 con đang đi học trở lên 1,59 2,44 0,94
(Nguồn: Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
(ii) Theo bậc học của con
Số liệu cho thấy, tại bậc học phổ thông, mức chi giáo dục bình quân giảm dần theo cấp học, với tiểu học là 2,92 triệu đồng/con/tháng, THCS là 2,23 triệu đồng/con/tháng và THPT là 2,07 triệu đồng/con/tháng Đặc biệt, ở khu vực thành thị, mức chi giáo dục bình quân cho cấp tiểu học đạt cao nhất, lên tới 3,45 triệu đồng/con/tháng.
Bảng 2.14: Mức chi giáo dục bình quân theo cấp học của con
(Đơn vị tính: Triệu đồng/con/tháng)
Cấp học của con Chung Khu vực cư trú
Trên THPT (Cao đẳng, đại học) 2,17 2,44 1,78
(Nguồn: Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư)
(iii) Theo tình trạng việc làm của bố mẹ
Theo số liệu điều tra, mối liên hệ giữa tình trạng làm việc của bố mẹ và mức đầu tư cho giáo dục là rõ ràng: khi cả hai bố mẹ đều có việc làm, mức chi cho giáo dục của trẻ em sẽ cao hơn, đặc biệt là ở khu vực thành thị và nhóm hộ giàu Cụ thể, mức chi giáo dục bình quân cho trẻ em có cả bố và mẹ làm việc tại khu vực thành thị là 3,26 triệu đồng mỗi tháng, trong khi ở nhóm hộ giàu con số này lên tới 4,95 triệu đồng Xu hướng này phù hợp với các nghiên cứu trước đây, cho thấy tính đáng tin cậy của dữ liệu điều tra.
Hình 2.1: Mức chi giáo dục bình quân theo tình trạng làm việc của bố mẹ theo khu vực cư trú (Triệu đồng/con/tháng)
Mức đầu tư tài chính cho giáo dục trẻ em có bố mẹ đều làm việc chênh lệch rõ rệt giữa khu vực thành thị và nông thôn, với 3,26 triệu đồng mỗi tháng cho trẻ em thành phố so với 1,14 triệu đồng cho trẻ em nông thôn Bên cạnh đó, sự khác biệt giữa các hộ gia đình giàu và nghèo cũng rất lớn, với mức đầu tư 4,95 triệu đồng mỗi tháng cho hộ giàu và chỉ 0,66 triệu đồng cho hộ nghèo.
(iv) Theo nghề nghiệp của bố mẹ
Theo số liệu điều tra, các hộ gia đình có bố và mẹ là lãnh đạo, cán bộ CCVC và bộ đội có mức chi cho giáo dục cao nhất Ngược lại, những gia đình có mẹ không làm việc lại đầu tư nhiều hơn vào giáo dục so với các gia đình có bố không làm việc Mức chi cho giáo dục ở những hộ này cao hơn so với các hộ có bố hoặc mẹ làm nông nghiệp và lao động giản đơn.
ChungThành thịNông thôn
Bảng 2.15: Mức chi giáo dục bình quân theo tình trạng việc làm và nghề nghiệp của bố/mẹ
(Đơn vị tính: Triệu đồng/con/tháng)
Nghề nghiệp của Bố/Mẹ Chung
Khu vực cư trú Chung Khu vực cư trú
Lãnh đạo, cán bộ CCVC, bộ đội 3,31 3,60 3,16 3,16 3,49 1,49 Thợ, công nhân có kỹ thuật 2,25 2,52 2,21 2,21 2,53 (1,27)
Làm nông nghiệp và lao động giản đơn 1,27 1,68 1,04 1,13 1,57 0,91
Bố/Mẹ không làm việc 1,99 2,47 0,92 2,45 2,63 1,40
(Nguồn: Phân tích trên số liệu điều tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư) (v) Theo trình độ giáo dục của bố mẹ
Trình độ giáo dục của cha mẹ đóng vai trò quan trọng trong quyết định đầu tư giáo dục của gia đình Các số liệu cho thấy, những hộ gia đình có cha mẹ có trình độ học vấn trên THPT thường đầu tư vào giáo dục gấp hơn 2 lần so với những hộ có cha mẹ có trình độ thấp hơn THPT.
Bảng 2.16: Mức chi giáo dục bình quân theo trình độ giáo dục của bố/mẹ
(Đơn vị tính: Triệu đồng/con/tháng)
Trình độ giáo dục của bố/mẹ Chung
Chung Khu vực cư trú Thành thị
(Nguồn: Phân tích trên số liệu điều tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
(vi) Theo quan điểm về định hướng giáo dục của bố mẹ
Theo khảo sát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 86,8% hộ gia đình dự định cho con học đại học, cho thấy tâm lý “vào đại học bằng mọi giá” và sự coi trọng bằng cấp vẫn tồn tại mạnh mẽ Các bậc phụ huynh mong muốn con cái tích lũy kiến thức để có được nghề nghiệp ổn định trong tương lai.
Hình 2.2: Cơ cấu hộ theo các bậc học dự kiến cho con theo học (%)
(Nguồn: Số liệu từ kết quả khảo sát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Tình trạng các hộ gia đình mong muốn con em theo học bậc cao hơn, đặc biệt là cao đẳng và đại học, chủ yếu xuất phát từ cơ hội nghề nghiệp Xã hội hiện nay đang khuyến khích việc có bằng cấp, điều này càng làm tăng nhu cầu học tập ở các cấp độ giáo dục cao hơn.
(vii) Lượng hóa các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của hộ gia đình