Đồ án tốt nghiệp này được thực hiện với mục tiêu nhằm xác định lượng nước bổ sung vào cơ chất trong sản xuất nấm Paecilomyces lilacinus; nghiên cứu sản xuất và đánh giá hiệu quả trừ sâu chích hút của nấm Paecilomyces lilacinus. Mời các bạn cùng tham khảo.
Tính cấp thiết của đề tài
Sâu hại đóng vai trò quan trọng trong việc giảm năng suất cây trồng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền nông nghiệp Việt Nam.
Việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật đã gia tăng đáng kể để kiểm soát sâu hại cây trồng, mang lại hiệu quả nhanh chóng và phổ tác dụng rộng Tuy nhiên, thuốc trừ sâu hóa học đang bộc lộ nhiều nhược điểm, như sự kháng thuốc của sâu hại sau một thời gian ngắn, tồn dư hóa chất cao trong nông sản gây mất an toàn thực phẩm, ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng và góp phần gây ô nhiễm môi trường Gần đây, nhiều nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như gạo, hồ tiêu và sắn đã bị trả về do tồn dư hóa chất bảo vệ thực vật.
Thuốc trừ sâu sinh học, với ưu điểm thân thiện với môi trường và sức khỏe con người, đang trở thành lựa chọn tiềm năng cho nông nghiệp bền vững Trong số các tác nhân sinh học, nấm Paecilomyces nổi bật nhờ hiệu lực diệt sâu cao và độ an toàn với con người và môi trường (U.S Environmental Protection Agency, 2005) Gần đây, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu và thương mại hóa các chủng nấm này để kiểm soát sâu chích hút trên toàn thế giới Tuy nhiên, nghiên cứu và ứng dụng nấm Paecilomyces tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, tạo cơ hội cho việc tìm kiếm và sử dụng các chủng nấm này trong nông nghiệp.
Việc sử dụng nấm Paecilomyces sp để kiểm soát sâu chích hút hại cây trồng là rất quan trọng Xuất phát từ thực tiễn này, nhóm sinh viên đã thực hiện nghiên cứu mang tên “Nghiên cứu sản xuất và đánh giá hiệu quả trừ sâu chích hút của nấm Paecilomyces lilacinus”.
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu sản xuất và đánh giá hiệu quả trừ sâu chích hút của nấm
Nội dung nghiên cứu
- Nội dung 1: Kiểm tra hoạt tính Enzyme
- Nội dung 2: Xác định lượng nước bổ sung vào cơ chất trong sản xuất nấm
- Nội dung 3: Ảnh hưởng của nguồn Nitơ bổ sung vào môi trường gạo tấm đến sự phát triển của nấm Paecilomyces lilacinus
- Nội dung 4: Ảnh hưởng của lượng khoáng bổ sung đến sự phát triển của nấm Paecilomyces lilacinus
- Nội dung 5: Xác định nhiệt độ sấy phù hợp để tạo chế phẩm nấm
- Nội dung 6: Đánh giá hiệu quả trừ Rầy xanh Amrasca devastans trên cây đậu bắp của chủng nấm Paecilomyces trong điều kiện phòng thí nghiệm và trong chậu
- Nội dung 7: Đánh giá hiệu quả trừ Bọ phấn trắng Bemisia tabaci của chủng nấm Paecilomyces lilacinus ở điều kiện phòng thí nghiệm và ngoài đồng
Sâu chích hút là một trong những nhóm sâu hại nghiêm trọng đối với sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam, không chỉ gây hại trực tiếp đến sự phát triển của cây trồng mà còn là vector truyền bệnh virus Sắn (khoai mì) là cây trồng có giá trị kinh tế cao, giúp người dân cải thiện đời sống, với diện tích trồng đạt khoảng 560.000ha và giá trị xuất khẩu đạt 1,5 tỷ USD trong năm 2015 Tây Ninh nổi bật với năng suất sắn cao nhất cả nước (31,6 tấn/ha) và chiếm 40% kim ngạch xuất khẩu sắn Tuy nhiên, bệnh khảm lá do virus Sri Lanka Cassava Mosaic Virus, lây lan qua bọ phấn trắng Bemisia Tabaci, đang đe dọa nguồn nguyên liệu sắn tại Tây Ninh Việc sử dụng thuốc hóa học cho hiệu quả thấp, đòi hỏi cần có biện pháp phòng trừ hiệu quả hơn để bảo vệ cây trồng.
Paecilomyces lilacinus đã chứng minh hiệu quả cao trong việc kiểm soát bọ phấn trắng và các loài sâu chích hút như rệp Aphis gosypii và rầy nâu hại lúa Nilaparvata lugens trong điều kiện phòng thí nghiệm Tuy nhiên, hiện chưa có nghiên cứu về quy trình sản xuất chế phẩm từ chủng nấm này cũng như thử nghiệm hiệu lực trên đồng ruộng, đặc biệt là trên cây khoai mì Do đó, nhóm sinh viên đã tiến hành đề tài “Nghiên cứu sản xuất và đánh giá hiệu quả trừ sâu chích hút của nấm Paecilomyces lilacinus” để khai thác tiềm năng của loài nấm này.
13 loài có ích này giúp kiểm soát quần thể bọ phấn trắng trong cộng đồng, từ đó hạn chế sự lây lan của bệnh và giảm thiệt hại do bệnh khảm lá gây ra cho cây sắn cũng như các loại cây trồng khác.
TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU
Tổng quan về cây Sắn
Sắn, được gọi là khoai mì ở miền Nam (trong khi sắn ở miền Nam lại chỉ củ đậu), là một loại cây lương thực ăn củ thuộc họ Đại kích (Euphorbiaceae) và có thể sống lâu năm.
Cây khoai mì (sắn) có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Mỹ La tinh và đã được trồng khoảng 5.000 năm trước Trung tâm phát sinh của cây khoai mì được cho là ở đông bắc Brasil, thuộc lưu vực sông Amazon, nơi có nhiều chủng loại khoai mì Bằng chứng về nguồn gốc của khoai mì bao gồm các di tích khảo cổ ở Venezuela niên đại 2.700 năm trước Công nguyên, di vật củ khoai mì ven biển Peru khoảng 2000 năm trước Công nguyên, lò nướng bánh khoai mì ở Bắc Colombia niên đại khoảng 1.200 năm trước Công nguyên, và hạt tinh bột trong phân hóa thạch tại Mexico từ năm 900 đến 200 trước Công nguyên.
Cây khoai mì có chiều cao từ 2 đến 3 mét, với lá khía thành nhiều thùy Rễ của cây phát triển ngang và hình thành củ, tích lũy tinh bột Thời gian sinh trưởng của cây dao động từ 6 đến 12 tháng, có thể lên đến 18 tháng tùy thuộc vào giống, vụ trồng, địa bàn và mục đích sử dụng.
1.1.1 Tình hình trồng sắn ở Việt Nam:
Sắn, cây trồng truyền thống của Việt Nam, được trồng rộng rãi trên toàn quốc với một mùa ở miền Bắc và ba mùa ở miền Nam Năm 2015, diện tích trồng sắn đạt 560.000 ha, sản lượng đạt 19 tấn/ha, tổng cộng khoảng 10,5 triệu tấn củ tươi trên toàn quốc.
Sắn là cây trồng có diện tích và khối lượng sản xuất đứng thứ ba sau gạo và ngô, với giá trị xuất khẩu đạt 1,5 tỷ USD vào năm 2015, chỉ sau gạo và cà phê Cây sắn được trồng chủ yếu ở quy mô hộ gia đình và trang trại, trong đó 70% sản lượng được dành cho xuất khẩu (Lê Huỳnh Ham và cộng sự - 2016).
1.1.2 Tình hình tiêu thụ sắn trong và ngoài nước:
Sản lượng khoai mì năm 2014 đạt 9,7 triệu tấn, trong đó 30% phục vụ nhu cầu nội địa cho thực phẩm, thức ăn gia súc, tinh bột dược phẩm, nhiên liệu sinh học và rượu công nghiệp, trong khi 70% còn lại được xuất khẩu Điều này mở ra cơ hội tiềm năng cho nông dân trong nghiên cứu, sản xuất, chế biến và tiêu thụ khoai mì.
Diện tích trồng khoai mì tại Việt Nam đã tăng từ 237.600 ha vào năm 2000 lên 560.000 ha vào năm 2014, trong khi sản lượng khoai mì cũng tăng đáng kể từ 8,4 tấn/ha lên 19 tấn/ha Giá trị xuất khẩu khoai mì đạt khoảng 1,3-1,5 tỷ USD mỗi năm.
Trong 20 năm qua khoai mì trở thành cây xuất khẩu quan trọng thứ 3 trên cả nước Đó là 1 cuộc cách mạng thật sự
Từ năm 1960 -2000 sản lượng khoai mì đạt khoảng 8 tấn/ha là khá thấp vì:
• Khoai mì được coi là cây làm đất xuống cấp gây xói mòn đất
• Không có giá trị kinh tế, không được khuyến khích mở rộng
• Kể từ khi hợp tác với CITA, năng suất khoai mì tăng đáng kể ở cuối thập niên 80 của thế kỉ 20
• Đến năm 2015 năng suất đã tăng gấp đôi 19tấn/ năm
Hình 1 1: Tình hình sản xuất khoai mì từ năm 1960 – 2010
Sản lượng khoai mì được sản xuất cao hơn Châu Phi nhưng thấp hơn Thái Lan, Indonesia
Miền Bắc và miền Nam Việt Nam có sự khác biệt rõ rệt trong sản xuất khoai mì, với năng suất miền Bắc đạt 12 tấn/ha và miền Nam đạt 32 tấn/ha Diện tích trồng khoai mì đã tăng từ 164.300 ha năm 1995 lên 560.000 ha năm 2015, gấp hơn 3 lần sau 20 năm Sản lượng khoai mì cũng tăng mạnh từ 1,62 triệu tấn năm 1995 lên 10,5 triệu tấn năm 2015, tương đương với mức tăng gấp 6 lần Giá trị xuất khẩu khoai mì đạt 1,5 tỷ USD vào năm 2015, đóng góp quan trọng vào việc cung cấp việc làm và nguồn thu nhập cho hàng triệu người dân (FAOSTAT, 2014, trích dẫn bởi Hoàng Kim và cộng sự, 2014a).
Chương trình nhiên liệu sinh học từ 2015 – 2025:
Theo quyết định của Thủ Tướng số 177/2007/ QĐ-TT ngày 20 tháng 11 năm
Từ năm 2007 đến năm 2015, tỷ lệ sử dụng nhiên liệu sinh học đã đạt 5%, và dự kiến sẽ tăng lên 10% vào năm 2025, bao gồm cả rượu và xăng sinh học Khoai mì được xác định là cây trồng tiềm năng cho sản xuất nhiên liệu sinh học trong các thập kỷ tới, điều này khẳng định vị thế đặc biệt của Việt Nam trong việc lựa chọn nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghiệp này.
Cải thiện năng suất và mở rộng diện tích trồng khoai mì trong những năm gần đây đã biến khoai mì thành cây trồng quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo và phát triển nông thôn tại Việt Nam.
Khoai mì trước đây bị coi là cây trồng không mong muốn do lợi nhuận thấp và tác động tiêu cực đến đất Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, việc trồng khoai mì đã chứng minh năng suất ổn định từ 60-80 tấn/ha mà không gây suy thoái hay xói mòn đất Điều này làm cho khoai mì trở thành cây trồng hứa hẹn và có tính cạnh tranh cao trong việc tạo ra thu nhập cho các tỉnh thành ở Việt Nam.
Bảo tồn và phát triển bền vững khoai mì ở Việt Nam đã đạt được những kết quả ấn tượng, đặc biệt qua các thử nghiệm tại Tây Ninh, Phú Yên, Dak Lak và Đồng Nai Tại những địa phương này, việc áp dụng công nghệ cải tiến đã nâng cao sản lượng khoai mì từ 8,5 tấn/ha lên 36 tấn/ha (Hoàng Kim 2015).
Theo Jin Shu Ren (2015), diện tích trồng khoai mì tại Việt Nam vào năm 2015 đạt khoảng 0,56 triệu ha Trong năm 2014, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 3,4 triệu tấn khoai mì, và con số này tăng lên khoảng 4,0 triệu tấn vào năm 2015.
Khoảng 90% khoai mì được xuất khẩu sang trung quốc Trung Quốc là thị trường khoai mì lớn nhất thế giới
Việt Nam hiện có 13 nhà máy sản xuất cồn sinh học với tổng công suất đạt 1.067,7 triệu lít mỗi năm Bên cạnh đó, có 66 nhà máy chế biến tinh bột công nghiệp và hơn 2.000 đơn vị chế biến tinh bột sắn thủ công.
Sản xuất, chế biến và tiêu thụ khoai mì mang lại cơ hội tiềm năng cho nông dân và doanh nghiệp tại Việt Nam cũng như trên toàn cầu.
1.1.3 Một số giống sắn đang sản xuất phổ biến tại Việt Nam:
Tổng quan về Bọ Phấn Trắng
Bọ phấn là một trong những dịch hại nguy hiểm đối với nhiều loài cây trồng
Bọ phấn chủ yếu ký sinh trên thực vật hạt kín hai lá mầm, với cây họ cam quýt (Rutaceae) là ký chủ cho hơn 60 loài và cây họ dâu tằm (Moraceae) cho hơn 80 loài Tại các nước ôn đới, Bọ phấn Trialeurodes vaporariorum gây hại nghiêm trọng cho cây trồng trong nhà kính và ngoài đồng ruộng, trong khi Bọ phấn Aleyrodes proletella gây thiệt hại lớn cho rau họ thập tự Ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, các loài bọ phấn cũng gây ra nhiều vấn đề cho nông nghiệp.
Hình 1 2: Vòng đời bọ phấn trắng
Aleurodicus dispersus, Trialeurodes vaporariorum và Bemisia tabaci gây hại thiệt nghiêm trọng cho bông và nhiều loại cây trồng khác có giá trị kinh tế cao
Cho đến nay trên thế giới đã ghi nhận 1556 loài, chúng thuộc 161 giống của
3 phân họ Aleurodicinae, Aleyrodinae, Udamoselinae (Evans,2008) Theo kết quả điều tra của Viện Bảo vệ thực vật (BVTV) các năm 1967 - 1968, 1977 - 1978, 1997
- 1998, ở nước ta có 7 loài bọ phấn với tên khoa học là: Aleurocanthus spiniferus,
Aleurocanthus woglumi và Aleurocanthus spp là những loài gây hại trên cây cam quýt, trong khi Aleurocybotus indicus gây hại cho cây lúa Dialeurodes citri ảnh hưởng đến cây na, còn Parabemisia myricae tấn công nhiều loại cây như đậu tương, thuốc lá, đậu đỗ, dưa chuột, cà chua và cà tím.
Trưởng thành có kích thước nhỏ, thích bay và thường có màu trắng đục, có lớp sáp phấn trên cánh, chiều dài cơ thể 1 -3 mm
Bọ phấn trắng cái có màu vàng nhạt hoặc trắng trưởng thành, thường chọn lá non chưa hoàn chỉnh để đẻ trứng Sau khi vũ hóa, chúng tiến hành giao phối ngay trên những lá này.
Trứng có hình dạng quả lê hoặc quả trứng, gắn chặt vào mô lá và thời gian phát triển từ 8-31 ngày Cuống nhỏ móc dính của trứng là phương tiện để thụ tinh, với mỗi con cái có thể đẻ tới 80 trứng, số lượng này thay đổi theo mùa Ấu trùng từ tuổi 1 đến 3 có khả năng di chuyển và gây hại trong khoảng cách ngắn, trong khi tuổi 4 được gọi là nhộng Ấu trùng mới nở có màu kem nhạt và dần chuyển sang màu đen bóng, hình thành các tua sáp và phủ lớp sáp trên cơ thể Ngay sau khi nở, ấu trùng tìm vị trí thích hợp để định cư gây hại Thời gian phát dục của ấu trùng tuổi 1 là 4-7 ngày, tuổi 2 là 3-7 ngày và tuổi 3 là 3-8 ngày Mỗi lần lột xác, ấu trùng thay đổi màu sắc từ nhạt sang hơi đen, với tuổi 2 và 3 có hình bầu dục hoặc thuôn dài, có khe thở ở bụng và lưng để hỗ trợ việc dẫn truyền không khí.
Giai đoạn nhộng (ấu trùng tuổi 4) được gọi là nhộng giả, vì trong giai đoạn đầu, chúng vẫn có hoạt động ăn uống Thời gian này kéo dài từ 9 đến 14 ngày, sau đó chúng sẽ vũ hóa thông qua khe hình chữ 'T' trên lưng vào buổi sáng.
Cả ấu trùng và trưởng thành đều chích vào mô cây trồng và hút dịch nhưng giai đoạn ấu trùng gây thiệt hại nặng nhất cho cây mía
Khi ấu trùng bọ phấn trắng phát triển, chúng tạo ra một lớp bọc bằng sáp trắng, giúp bảo vệ khỏi các tác động bên ngoài, đặc biệt là thuốc trừ sâu Đây là đặc điểm nổi bật của bọ phấn trắng trong các giai đoạn phát triển, ngoại trừ giai đoạn trứng.
1.2.4 Tổng quan về tác hại do bọ phấn trắng gây ra:
Bọ phấn trắng (B tabaci) được coi là một trong những loài dịch hại nông nghiệp nguy hiểm nhất trên toàn cầu Chúng gây thiệt hại cho hầu hết các loại cây trồng ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Bọ phấn trắng là một loại sâu bọ gây hại cho nhiều loại cây trồng, với khả năng ký sinh trên hơn 600 loài thuộc 5 họ thực vật phổ biến, bao gồm họ đậu, họ cúc, họ bông, họ cà và họ thầu dầu Ngoài việc gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh trưởng và phát triển của cây, bọ phấn trắng còn là vector truyền bệnh, đặc biệt là hơn 150 loại virus gây hại cho cây trồng Đáng chú ý, trên cây cà chua và các cây họ ớt, bọ phấn trắng là vector duy nhất truyền virus gây xoăn vàng ngọn cà chua (Tomato Yellow Leaf Curl Virus: TYLCV).
Bệnh xoăn lá cà chua do virus (ToLCV) và bệnh xoăn vàng ngọn cà chua (TYLCV) gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất cà chua tại Ấn Độ, Úc và nhiều nước Châu Á, chủ yếu do bọ phấn trắng lây lan Chúng tấn công cây trồng ngay từ giai đoạn mới mọc và tiếp tục gây hại cho đến khi thu hoạch, với tỷ lệ cây bị bệnh có thể lên đến 100% Nhiều diện tích cây trồng đã phải đốn bỏ do tác hại của virus, dẫn đến thiệt hại kinh tế lên đến hàng tỷ đô la mỗi năm.
Bọ phấn trắng là một trong những dịch hại nguy hiểm nhất đối với cây trồng trong nhà kính, đặc biệt là rau ăn trái như cà chua, ớt ngọt, và dưa leo Tại Mỹ, bọ phấn trắng đã làm giảm 13% năng suất dưa lê, trong khi tổn thất toàn cầu do loại côn trùng này ước tính lên đến 300 triệu đô la Mỹ mỗi năm Bọ phấn trắng đã phát triển tính kháng với khoảng 35 loại thuốc trừ sâu ở ít nhất 20 quốc gia, khiến việc nghiên cứu và phát triển biện pháp phòng trừ trở nên cấp bách Chương trình quản lý tổng hợp bọ phấn trắng quốc tế đã chỉ ra rằng việc lạm dụng thuốc hóa học là nguyên nhân chính dẫn đến sự bùng phát của dịch hại này ở các vùng nhiệt đới.
Bọ phấn trắng, đặc biệt là loài Bemisia tabaci, được xem là một trong những dịch hại chính tại Việt Nam, là vecto truyền bệnh virus cho nhiều loại cây trồng Tại miền Bắc, chúng gây hại liên tục trên cây cà chua trong suốt vụ mùa Trong nghiên cứu tại Hà Nội, Bemisia tabaci được ghi nhận thường xuyên và gây thiệt hại nặng nề cho các loại cây như đậu đỗ, cà chua, bắp cải, xu hào và súp lơ.
Theo Cục BVTV, đây là đối tượng dịch hại mới và lần đầu tiên xuất hiện gây hại trên cấy sắn tại Việt Nam (Cục Bảo vệ Thực vật, 2017)
Bọ phấn trắng non và trưởng thành thường xuất hiện ở mặt dưới lá của các cây như cà chua, ổi, ớt và cây Sắn, nơi chúng chích hút dịch cây, gây suy yếu cho cây trồng Khi mật độ bọ phấn cao, cây có thể bị héo, vàng lá và thậm chí dẫn đến chết cây Ngoài ra, chất bài tiết của bọ phấn trắng chứa đường, tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển, gây hại cho cây.
Bọ phấn thường gây hại trong mùa khô và có khả năng phân tán rộng rãi nhờ gió Chúng không chỉ là tác nhân gây hại mà còn là vật trung gian truyền bệnh xoăn lá do virus trên nhiều loại cây trồng Bệnh xoăn lá có thể xuất hiện từ giai đoạn cây con trong vườn ươm cho đến khi cây trưởng thành và thu hoạch.
Bệnh xuất hiện sớm trên cây dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng, với dấu hiệu như cây còi cọc, lá vàng nhạt và gân lá xanh, tạo thành vết loang lổ Các lá nhỏ lại, nhăn nheo, thô cứng, và lá ngọn bị xoăn, khiến cây sinh trưởng kém và thấp nhỏ với nhiều nhánh cằn cỗi Nếu bệnh nặng, cây có thể chết, trong khi nếu bị nhẹ, lá non mới ra sẽ xoăn, cây vẫn có khả năng ra hoa và trái nhưng thường rụng nhiều Trái nếu có sẽ nhỏ, méo mó, cứng và chất lượng kém.
Virus lây lan qua dịch cây, tiếp xúc cơ giới và chủ yếu do bọ phấn trắng Bemisia tabaci truyền bệnh từ cây bệnh sang cây khỏe Quá trình lây nhiễm diễn ra nhanh chóng, chỉ trong vòng 15 - 30 phút sau khi bọ phấn bắt đầu chích hút Mật độ bọ phấn cao làm gia tăng tỷ lệ cây bị bệnh xoăn lá Bệnh thường bùng phát mạnh từ tháng 10 đến đầu tháng 11, đặc biệt trong điều kiện thời tiết ấm, nắng và ít mưa.
1.2.5 Tình trạng kháng thuốc trừ sâu ở Bọ phấn trắng Bemisia tabaci :
Một số kết quả nghiên cứu nấm Paecilomyces spp trừ sâu hại cây trồng: 36 1.5 Một số ứng dụng của nấm Paecilomyces spp vào thực tiễn đời sống: 37 1.5.1 Sản xuất enzyme
Nấm Paecilomyces spp là một loại nấm gây bệnh cho côn trùng thuộc bộ cánh vảy, thường gây dịch bệnh trên ruộng đậu và được sử dụng để diệt nhiều loại sâu hại như Trichoplusia ni, Spodoptera frugiperda và Spodoptera litura Loại nấm này có hiệu quả cao trong việc phòng trị sâu nhờ vào độc tố Mycotoxin Tại Ấn Độ, nghiên cứu cho thấy khi áp dụng nấm Paecilomyces spp với nồng độ 10^8 bào tử/ml lên sâu non, sâu sẽ chết sau 6-8 ngày, và xác sâu sẽ khô lại, tạo điều kiện cho nấm phát triển và bao phủ xác sâu bằng lớp nấm màu tím Bên cạnh đó, nấm Paecilomyces spp còn được sử dụng để kiểm soát các loại sâu hại như sâu bông, sâu cuốn lá lúa và sâu đục thân bắp.
Từ năm 2011, nhóm nghiên cứu Nấm có ích tại Trung tâm đấu tranh sinh học, Viện Bảo vệ thực vật Việt Nam đã tiến hành thu thập và khởi xướng các nghiên cứu về nấm.
Nghiên cứu về loài nấm Paecilomyces javanicus tại một số tỉnh đồng Bằng Bắc Bộ cho thấy nấm này có khả năng ký sinh và gây chết rầy nâu với tỷ lệ cao, đạt từ 79,1% đến 84,4% trong điều kiện phòng thí nghiệm và nhà lưới sau 10 ngày phun chế phẩm (Trần Văn Huy và cs., 2012).
Mặc dù công nghệ sản xuất chế phẩm từ nấm có ích đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới, nhưng ở Việt Nam, nghiên cứu về lĩnh vực này vẫn còn hạn chế Hiện tại, chưa có sản phẩm nấm nào được thương mại hóa nhằm mục đích trừ sâu hại cây trồng.
1.5 Một số ứng dụng của nấm Paecilomyces spp vào thực tiễn đời sống: 1.5.1 Sản xuất enzyme:
Paecilomyces spp là một chủng nấm nổi bật trong việc sản xuất enzyme, đóng vai trò quan trọng trong quá trình xâm nhập và phát triển trên ký chủ Những enzyme này không chỉ giúp nấm dễ dàng tiếp cận nguồn dinh dưỡng mà còn hỗ trợ trong việc thủy phân cơ chất, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của chúng Thêm vào đó, Paecilomyces spp còn có khả năng cạnh tranh và lấn át các loài vi sinh vật khác, điều này đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu về khả năng sản sinh enzyme của chúng.
Paecilomyces spp., nhiều nhất là về các enzyme hydrolase: protease, cellulase, dextranase
Paecilomyces spp sản sinh ra ba loại protease: acid, trung tính và kiềm Protease acid và trung tính có ứng dụng quan trọng trong công nghệ sản xuất bia và bánh kẹo, trong khi protease kiềm được sử dụng chủ yếu trong ngành công nghiệp thuộc da.
Paecilomyces spp là một nhóm nấm thuộc phylum Ascomycetes, thường xuất hiện trong môi trường như đất, nước, không khí, gỗ và tàn dư thực vật Chúng còn được biết đến với tên gọi nấm thối mềm do khả năng phân hủy cellulose của mình.
Dextranase (α-1,6–D–glucan, 6-glucanohydrolase; EC: 3.2.1.11) là enzyme có nhiều ứng dụng quan trọng trong y học và công nghiệp nhờ khả năng thủy phân dextran Sự hiện diện của dextran có thể gây ra nhiều vấn đề tiêu cực trong quá trình chế biến, như mất sucrose, tăng độ nhớt của siro và hiệu suất phục hồi sucrose kém Việc sử dụng dextranase giúp khắc phục những vấn đề này, đồng thời enzyme này cũng có khả năng thủy phân hoặc ức chế tổng hợp glucans, góp phần điều trị mảng bám răng.
Dextran có trọng lượng phân tử thấp gây độc cho tế bào, trong khi dextranase ức chế sự tổng hợp isomaltooligosaccharides và ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các vi khuẩn probiotic có lợi Enzyme này cũng được tiết ra bởi nhiều loài nấm, bao gồm cả nấm Paecilomyces spp.
1.5.2 Sản xuất kháng sinh và hợp chất thứ cấp:
Paecilomyces spp đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất các hợp chất thứ cấp Nghiên cứu gần đây cho thấy một số loài Paecilomyces spp có khả năng tổng hợp các hợp chất sinh học có hoạt tính cao, mang lại nhiều lợi ích.
Fingolimod là một hợp chất được tổng hợp từ myriocin, một chất chuyển hóa thứ cấp do nấm P cicadae sản sinh, và đã được FDA phê duyệt như một liệu pháp điều trị cho bệnh đa sơ cứng Được phát triển bởi nhóm nghiên cứu Tetsuro Fujita tại Đại học Kyoto vào năm 1992, fingolimod có tiềm năng trong liệu pháp ghép cơ quan nhờ khả năng ngăn chặn mạnh mẽ các phản ứng miễn dịch thông qua lympo bào Hơn nữa, fingolimod còn có tác dụng tăng cường số lượng tế bào nội mô và bảo vệ chức năng của chúng.
Một chất tương tự như axit anacardic đã được tách chiết từ P variotii Hợp chất này được cô lập lần đầu tiên từ nguồn tự nhiên và cho thấy hoạt tính kháng khuẩn đáng kể đối với các tác nhân gây bệnh cho con người, bao gồm cả các chủng đa kháng thuốc (MDR).
Paecilomyces farinosus B05 đã được nghiên cứu để chiết xuất polysaccharide ngoại bào từ môi trường lên men, với mục tiêu ứng dụng trong sản xuất các chất chống oxy hóa Kết quả cho thấy polysaccharide từ P farinosus có hoạt tính chống oxy hóa cao, chỉ kém vitamin C một chút.
1.5.3 Sản xuất thuốc bảo vệ thực vật:
Việc sử dụng vi sinh vật tự nhiên trong nông nghiệp để phòng trừ dịch hại đang ngày càng trở nên quan trọng nhờ tính an toàn, thân thiện với môi trường và hiệu quả cao Tại Ai Cập, sản phẩm Priority được phát triển từ nấm P fumosoroseus để tiêu diệt côn trùng, đặc biệt là bướm trắng, bảo vệ cây cà chua, dưa leo và cây cảnh Sản phẩm này chứa bào tử của nấm P fumosoroseus và có khả năng lây nhiễm qua tất cả các giai đoạn phát triển của côn trùng Ngoài ra, thị trường còn có các sản phẩm khác như Pelicide, Bio-Nematon, PL Plus với bào tử nấm P lilacinus, giúp phòng trừ tuyến trùng gây hại cho cây trồng trong đất.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của nấm Paecilomyces spp: 39 CHƯƠNG 2 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để hình thành bào tử và hệ sợi nấm côn trùng, cần đảm bảo các điều kiện như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, độ pH và phương pháp nuôi cấy Sự tác động đến đất thông qua việc sử dụng phân bón hữu cơ và thuốc trừ sâu hóa học cũng ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng và phát triển của các chủng vi nấm trong đất.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự phát tiển của nấm:
Nguồn dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong sự sinh trưởng và phát triển của nấm, vì môi trường không thuận lợi có thể làm nấm yếu hoặc không phát triển, từ đó hạn chế khả năng gây bệnh cho côn trùng Trong quá trình hình thành bào tử, nấm cần các nguồn Carbon (C) và Nitơ (N) Nghiên cứu của Bharati et al (2007) cho thấy các nguồn Carbon như glucose, sucrose, arabinose, mannose và acid citric đều ảnh hưởng đến sự phát triển của Paecilomyces spp Kết quả cho thấy sucrose là cơ chất tốt nhất cho sự tăng trưởng với chiều dài đạt 87,25 cm, tiếp theo là glucose với 56,25 cm, trong khi mannose có khả năng thấp nhất Về nguồn Nitơ, các thử nghiệm với ammonium photphase, sodium nitrate, glycin, calcium nitrate và ammonium nitrate đã được thực hiện để nghiên cứu khả năng phát triển của nấm.
Paecilomyces spp có khả năng sử dụng nhiều nguồn Nitơ khác nhau, trong đó calcium nitrate được xác định là nguồn Nitơ hiệu quả nhất Tiếp theo là glycin, natri nitrate và ammonium nitrate Ngược lại, ammonium phosphate là nguồn Nitơ mà vi nấm này sử dụng ít nhất.
- Ảnh hưởng của ẩm độ và nhiệt độ là yếu tố cần cho sự hình thành và phát triển của bào tử nấm Paecilomyces spp:
Nhiệt độ lý tưởng cho sự phát triển của nấm dao động từ 20 đến 25 độ C, với mức 25 độ C là tối ưu nhất (Lee et al., 1999) Đối với quá trình hình thành bào tử, nhiệt độ 24 độ C là phù hợp Đặc biệt, nấm Paecilomyces papillata cho thấy tỷ lệ ký sinh cao hơn 18% ở nhiệt độ 18 độ C so với 25 độ C, do nhiệt độ thấp giúp giảm quá trình dị hóa và tăng cường quá trình đồng hóa, từ đó nâng cao hoạt chất cho cá thể (Trần Văn Mão, 2002) Gần đây, nghiên cứu của Statbers, T.E., D Moore và C Prior cũng đã chỉ ra những ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển của nấm.
Năm 2004, nghiên cứu đã công bố kết quả về ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển của nấm Paecilomyces spp., xác định rằng loài này phát triển tốt nhất ở nhiệt độ phù hợp.
Nhiệt độ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự hình thành bào tử nấm; nhiệt độ quá cao có thể làm chết hoặc ngăn cản sự phát triển của bào tử (Phạm Thị Thùy, 2004) Nghiên cứu của Julio J.D et al (2004) cho thấy rất ít hoặc không có bào tử nấm được tạo ra ở nhiệt độ 12, 16 và 30 độ C Nấm Paecilomyces spp có khả năng tạo ra thể chịu đựng khi gặp điều kiện không thuận lợi về nhiệt độ, độ ẩm hay ánh sáng trong quá trình tấn công côn trùng (Penland, 1982) Độ ẩm thích hợp cho sự phát triển của nấm nằm trong khoảng 80 - 90% (Phạm Thị Thùy, 2004), giúp tăng cường sự sinh trưởng của sợi nấm và sự nảy mầm của bào tử Ngược lại, độ ẩm thấp có thể duy trì sự sống của nấm, với bào tử phân sinh có khả năng sống lâu hơn trong điều kiện độ ẩm từ 0 - 34% so với 75% (Trần Văn Mão, 2002).
Nấm côn trùng phát triển mạnh mẽ trong điều kiện ánh sáng yếu, chỉ cần 6 - 8 giờ ánh sáng nhỏ là đủ để chúng phát triển Ánh sáng không chỉ hỗ trợ sự sinh trưởng mà còn rất quan trọng cho quá trình sinh bào tử của nấm Thiếu ánh sáng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nấm côn trùng.
Paecilomyces spp không sản xuất nhiều bào tử Nghiên cứu của Li Gao và cộng sự (2009) cho thấy rằng thời gian chiếu sáng có tác động đến sự phát triển của nấm.
Nghiên cứu về Paecilomyces lilicinus IPC - P cho thấy nấm phát triển mạnh nhất trong điều kiện tối hoàn toàn với mức độ phát triển đạt 49,96 mg/cm², trong khi điều kiện 12h sáng/12h tối chỉ đạt 29,75 mg/cm² Sự hình thành bào tử cũng tương tự, với 91,7 x 10^5 bào tử/cm² trong điều kiện tối hoàn toàn, trong khi chỉ có 46,79 bào tử/cm² trong điều kiện ánh sáng Đối với chủng P lilacinus M-14, nấm phát triển tốt với 56,58 mg/cm² trong điều kiện tối hoàn toàn, và 55,05 mg/cm² trong điều kiện 12h sáng/12h tối Tuy nhiên, lượng bào tử tạo thành lại cao hơn trong điều kiện 12h sáng/12h tối với 121,57 x 10^5 bào tử/cm², so với 55,91 x 10^5 bào tử/cm² trong điều kiện tối hoàn toàn.
Độ pH có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nấm, với hầu hết nấm sống trong khoảng pH từ 3,5 đến 8 Nấm côn trùng thường ưa thích môi trường pH acid, trong khi nấm phát triển tối ưu ở pH từ 5,5 đến 6 Nghiên cứu của Sung Mi Shim và cộng sự (2003) chỉ ra rằng pH lý tưởng cho sự phát triển của P fumosoroseus nằm trong khoảng 6 đến 9 Bên cạnh đó, nấm P japonica phát triển tốt nhất ở pH 7 (Choi et al., 1999), và P sinclairii có điều kiện phát triển tối ưu ở pH 8 (Shim et al., 2003).
Độ thoáng khí có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nấm côn trùng, vì hầu hết chúng đều là loại hiếu khí Khi nấm phát triển, việc cung cấp lượng oxy thích hợp trong dụng cụ nhân nuôi và không gian nuôi cấy là rất quan trọng Nếu điều kiện này được đảm bảo, nấm sẽ phát triển mạnh mẽ và đạt hiệu quả cao.
– Ảnh hưởng của Nitrogen đến sự hình thành và phát triển của bào tử nấm Paecilomyces spp
Nitrogen đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc tế bào vi sinh vật, giúp tế bào thực hiện đầy đủ các chức năng sống Nguồn nitrogen là một yếu tố dinh dưỡng thiết yếu, không kém phần quan trọng so với nguồn carbon.
Nitrogen được cung cấp cho tế bào dưới nhiều dạng khác nhau, bao gồm các hợp chất vô cơ và hữu cơ như NH4+, NO3-, pepton và các amino acid.
CHƯƠNG 2 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Đề tài được tiến hành từ ngày 3/2018 đến ngày 10/8/2018 tại phòng thí nghiệm của trường.
Thiết bị - hóa chất - vật liệu nghiên cứu
- Máy đo quang phổ UV-Vis
- Kính hiển vi quang học
- Dụng cụ đục lỗ thạch 5mm
- Lame đếm Thoma, kính hiển vi, kính lúp sôi nổi, máy lắc Voltex
- Pipet, cốc thủy tinh, micropipet 1000àl, 100àl và đầu tuýp
- Bông thấm nước, bông không thấm nước
- Bao nhựa, dây thun, giấy báo
Nguồn bọ phấn phấn trắng được thu từ vườn cây khoai mì (cây sắn) của nhà dân ở Xã Tân Hưng, Huyện Tân Châu, Tây Ninh
Rầy xanh 2 chấm thu tại vườn đậu băp ở Củ Chi và Bình Chánh của nhà dân Gạo tấm mua ở chợ Thủ Đức
2.2.3 Các môi trường sử dụng:
2.2.3.1 Môi trường phân lập nấm: PDA (Potato D - Glucose Agar):
Dịch chiết khoai tây 1000 ml
Để chuẩn bị dịch chiết khoai tây, bạn cần 200 g khoai tây đã gọt vỏ, thái nhỏ thành hình vuông Đun sôi 1000 ml nước cất cùng với khoai tây thái trong 20 phút Sau khi nguội, dùng bông thấm để lọc nước, loại bỏ xác khoai tây và thu được dịch chiết Cuối cùng, bổ sung agar và đường theo tỉ lệ thích hợp, sau đó hấp khử trùng ở 121 độ C, 1 atm trong 15 phút.
Để chuẩn bị các đĩa Petri, trước tiên cần rửa sạch và sấy khô chúng Sau đó, gói đĩa bằng giấy báo và hấp khử trùng ở nhiệt độ 121°C, áp suất 1atm trong 15 phút Tiếp theo, đổ môi trường vào đĩa Petri và chờ cho thạch đông lại trong 15 phút Cuối cùng, bảo quản các đĩa đã chuẩn bị sẵn sàng cho việc sử dụng.
2.2.3.2 Môi trường PSA (Potato Sucrose Agar):
Phần chuẩn bị môi trường cũng được tiến hành tương tự như đã nêu ở phần trên
2.2.3.3 Môi trường thử nghiệm hoạt tính protase sử dụng casein làm cơ chất
Nước cất: bổ sung cho đủ 1000ml
2.2.3.4 Môi trường định tính sự sinh tổng hợp enzyme chitinase (Lê Thị
Bổ sung dịch chitin huyền phù 1% đến 1000ml
Để pha chế dung dịch chitin huyền phù 1% theo phương pháp của Dai et al (2011), như dẫn theo Nguyễn Thị Hà (2012), cần thực hiện các bước sau: hòa tan 1g bột chitin vào 20ml HCl đậm đặc, sau đó để ở nhiệt độ 4°C qua đêm Tiếp theo, thêm 50ml ethanol (-20°C) vào hỗn hợp, khuấy đều và ủ qua đêm Sau đó, ly tâm hỗn hợp ở tốc độ 5000 vòng/phút trong 20 phút, thu lấy tủa và rửa bằng nước cất cho đến khi đạt pH trung tính Cuối cùng, thu dịch huyền phù và bổ sung nước cất đến tổng thể tích 100ml.
Bổ sung nước cất đến 1000ml
Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Kiểm tra khả năng sinh tổng hợp chitinase của nấm Paecilomyces sp trên môi trường thạch (Nguyễn Thị Hà, 2012):
Khi nuôi cấy nấm sợi trong môi trường thạch có bổ sung 1% chitin, nấm sinh ra enzyme chitinase để phân giải chitin thành N-acetyl-D-glucosamine, một dạng có cấu trúc mạch ngắn Các đơn phân này không phản ứng màu với thuốc thử Lugol, do đó, sau khi nhỏ thuốc thử, độ lớn của phần môi trường trong suốt xung quanh nấm sẽ phản ánh khả năng tổng hợp chitinase của nấm.
Thực hiện: Chuẩn bị môi trường cảm ứng tổng hợp enzyme chitinase, hấp khử trùng ở 121 0 C trong 15 phút Dùng các đĩa petri vô trùng đã hấp ở 121 0 C trong
Sau khi chuẩn bị môi trường nuôi cấy nấm, hãy đổ đầy 2/3 đĩa petri và sử dụng khoan thạch có đường kính 5mm để ấn nhẹ lên bề mặt nuôi cấy Tiếp theo, đặt mẫu vào giữa đĩa petri chứa môi trường cảm ứng và ủ ở nhiệt độ phòng trong 4 ngày Sau đó, thêm thuốc thử Lugol vào, để yên trong 10 phút, rồi đổ bỏ và rửa lại bằng nước cất để làm sạch Cuối cùng, tiến hành đo đường kính vòng phân giải và đường kính của nấm.
Thí nghiệm được lặp lại 3 lần, mỗi lần lặp lại là 1 đĩa petri
2.3.2 Kiểm tra khả năng sinh enzyme protease của chủng nấm Paecilomyces sp trên môi trường thạch:
Khi nuôi cấy nấm sợi trong môi trường thạch có 1% casein, enzyme protease sẽ phân giải casein thành các amino acid Các amino acid này không phản ứng với thuốc thử TCA 5%, trong khi casein lại tạo tủa trắng đục khi tiếp xúc với TCA 5%.
Thực hiện: Chuẩn bị môi trường cảm ứng tổng hợp enzyme protease, hấp khử trùng ở 121 0 C trong 15 phút Dùng các đĩa petri vô trùng đã hấp ở 121 0 C trong
Sau khi chuẩn bị môi trường nuôi cấy, cho 2/3 môi trường vào đĩa petri Sử dụng khoan thạch có đường kính 5mm ấn nhẹ lên bề mặt nuôi cấy nấm và chuyển sang đĩa petri chứa môi trường cảm ứng Để ủ ở nhiệt độ phòng trong 4 ngày Cuối cùng, thêm thuốc thử TCA 5% vào và để yên trong 10 phút.
46 rồi sau đó đổ thuốc thử đi và tráng lại bằng nước cất cho sạch và tiến hành đo đường kính vòng phân giải và đường kính nấm
2.3.3 Xác định lượng nước bổ sung vào cơ chất trong sản xuất nấm
Thí nghiệm được thực hiện trên gạo tấm với ba mức lượng nước bổ sung là 40ml, 50ml và 60ml Mỗi thí nghiệm được lặp lại ba lần, sử dụng một túi PE chứa 100g gạo tấm trong mỗi lần thử nghiệm.
Để thực hiện quy trình, đầu tiên xác định độ ẩm ban đầu của gạo tấm, sau đó ngâm gạo trong nước trong 2 giờ để đạt độ ẩm yêu cầu Tiếp theo, hấp gạo để khử trùng, để nguội và cấy giống với tỷ lệ 10ml/100g Gạo được ủ ở nhiệt độ phòng trong 14 ngày Cuối cùng, lấy mẫu gạo, cho vào nước muối sinh lý, pha loãng và cấy trang để xác định mật độ bào tử trong 1g chế phẩm.
Chỉ tiêu theo dõi: Lượng bào tử (bào tử/g)
2.3.4 Ảnh hưởng của nguồn Nitơ bổ sung vào môi trường gạo tấm đến sự phát triển của nấm Paecilomyces lilacinus :
Chuẩn bị chất bổ sung: Hòa 0,1mol NH4NO3, (NH4)2SO4, urea- (NH2)2CO (riêng đối với NH4Cl thì hòa 0,2mol) vào 40ml nước cất
Để chuẩn bị môi trường cho gạo tấm, cần sử dụng gạo có độ ẩm ban đầu 10%, cho vào các túi PE chịu nhiệt với mỗi túi chứa 100g cơ chất Sau đó, bổ sung 40ml dung dịch nitơ theo các nghiệm thức đã định.
CT1: NH4NO3 CT3: urea- (NH2)2CO
CT2:(NH4)2SO4 CT4: NH4Cl
CT5: Đối chứng là môi trường gạo tấm không bổ sung nitơ
Mỗi Công thức lặp lại 3 lần, mỗi lần là 1 túi PE chứa 100g gạo tấm
Để tạo dịch huyền phù bào tử nấm với mật độ 10^8 bào tử/ml, tiến hành cấy dịch huyền phù vào môi trường với tỷ lệ 10ml cho 100g cơ chất Sau đó, ủ ở nhiệt độ phòng trong 14 ngày để thu thập bào tử Mật độ bào tử được kiểm tra bằng buồng đếm hồng cầu hoặc cây trang, và thí nghiệm này được lặp lại 3 lần để đảm bảo tính chính xác.
2.3.5 Ảnh hưởng của nguồn Khoáng bổ sung vào môi trường gạo tấm đến sự phát triển của nấm Paecilomyces lilacinus :
CT1: Bổ sung Czapek CT3: Bổ sung MgSO4
CT2: Bổ sung KH2PO4 CT4: Không bổ sung
Mỗi Công thức lặp lại 3 lần, mỗi lần là 1 túi PE chứa 100g gạo tấm
Chuẩn bị dung dịch khoáng: Cân 25g các chất khoáng cho vào 1 lít nước cất để được dung dịch khoáng 2,5%
Môi trường gạo tấm được hấp khử trùng và đóng gói trong túi PE, sau đó bổ sung các khoáng chất Czapek, KH2PO4 và MgSO4 với tỷ lệ 1% cho ba nghiệm thức khác nhau Đối chứng là môi trường gạo tấm không có khoáng chất bổ sung.
Mỗi Công thức lặp lại 3 lần, mỗi lần là 1 túi PE chứa 100g gạo tấm
Tạo dịch huyền phù bào tử nấm (nt), mật độ 10 8 bào tử/ml
Cấy dịch huyền phù bào tử nấm vào môi trường với tỷ lệ 10ml trên 100g cơ chất và ủ ở nhiệt độ phòng Sau 14 ngày, tiến hành thu thập bào tử và kiểm tra mật độ trong buồng đếm hồng cầu hoặc cấy trang Thí nghiệm này được lặp lại 3 lần để đảm bảo tính chính xác của kết quả.
2.3.6 Xác định nhiệt độ sấy phù hợp để tạo chế phẩm nấm Paecilomyces lilacinus :
Nấm Paecilomyces lilacinus được nuôi cấy trong môi trường gạo tấm trong các túi PE, sau đó được chia thành các phần tương ứng với các mức nhiệt độ sấy khác nhau, bắt đầu từ 40 độ.
Để tiến hành thí nghiệm, đầu tiên, mẫu chế phẩm được sấy khô ở nhiệt độ 50 và 60 độ C cho đến khi độ ẩm dưới 10% Sau đó, 1g chế phẩm sẽ được pha loãng ở các nồng độ khác nhau để tính toán số lượng bào tử nảy mầm.
Thí nghiệm lặp lại 3 lần, mỗi lần là 100g
2.3.7 Đánh giá hiệu quả trừ rầy xanh trên cây đậu bắp của chủng nấm
Paecilomyces trong điều kiện phòng thí nghiệm:
Trong phòng thí nghiệm Tiến hành theo phương pháp của Ayhan và Kubilay
(2005) có cải tiến cho phù hợp với điều kiện của phòng thí nghiệm
Thu thập lá đậu bắp có rầy trưởng thành để nuôi, sau đó sử dụng ấu trùng tuổi 2 của thế hệ thứ nhất từ các cây đậu bắp trong lồng cho thí nghiệm Các lá đậu bắp có ấu trùng bọ phấn tuổi 2 được cho vào hộp có nắp đậy với lỗ thông khí Để giữ cho lá tươi lâu hơn, hút 1ml phân NPK 16:16:8 với nồng độ 0,66g/ml cho vào bông thấm nước quấn quanh cuống lá Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 2 công thức.
CT2: Phun dịch huyền phù bào tử nấm Paecilomyces sp có nồng độ 2,1×10 8 bào tử/ml
2.3.8 Đánh giá khả năng gây chết Bọ phấn trắng Bemisia tabaci của nấm
Paecilomyces lilacinus ở điều kiện phòng thí nghiệm và ngoài đồng: v Trong phòng thí nghiệm:
Thí nghiệm gồm 2 nghiệm thức:
CT1: Phun chế phẩm nấm nồng độ 1g/ml (tương ứng với nồng độ bào tử là 10 7 bào tử/ml)
Để kiểm soát bọ phấn trắng trên đồng sắn mà không sử dụng thuốc hóa học, các nhà nghiên cứu đã nuôi chúng trên lá sắn trong phòng thí nghiệm, với cuống lá được quấn bằng bông hút ẩm để duy trì độ tươi Hằng ngày, họ phun chế phẩm nấm Paecilomyces lilacinus và theo dõi sự chết của bọ phấn Các cá thể bọ phấn chết được thu thập và đặt vào đĩa petri có giấy hút ẩm, sau đó được bao bọc bởi sợi nấm màu trắng Cuối cùng, nấm ký sinh được phân lập trên môi trường PDA theo phương pháp của Lawrence (1997) để xác định tác nhân gây chết.
Hiệu lực gây chết bọ phấn được tính theo công thức công thức Abbot (1925) v Ngoài đồng: Điều tra tình hình bệnh khảm lá sắn:
Cuộc điều tra được thực hiện từ ngày 28 tháng 3 năm 2018 đến ngày 28 tháng 4 năm 2018 tại các xã Tân Hưng, Tân Phú, Tân Bình, Thạnh Tân thuộc huyện Tân Châu và xã Suối Đá thuộc huyện Dương Minh Châu, với tần suất điều tra định kỳ 7 ngày một lần.