Lịch sử vấn đề 3
Nghiên cứu phương ngữ mang đến nhiều điều thú vị, nhưng việc hiểu rõ các vấn đề liên quan không phải lúc nào cũng dễ dàng Phương ngữ Thanh Hóa cũng nằm trong số đó Theo Nguyễn Bạt Tụy, tiếng nói Thanh Hóa được phân loại vào phương ngữ Bắc Bộ, hay còn gọi là phương ngữ miền Bắc.
Hoàng Thị Châu đã chỉ ra rằng phương ngữ Bắc Trung Bộ, bao gồm tiếng địa phương Thanh Hoá, có vai trò quan trọng trong giao tiếp tại Bắc Bộ và là nền tảng hình thành ngôn ngữ văn học Phương ngữ Trung trải dài từ Thanh Hoá đến đèo Hải Vân, bảo lưu nhiều yếu tố cổ của Tiếng Việt Nó bao gồm ba phương ngữ nhỏ với sự khác biệt về thanh điệu: Phương ngữ Thanh Hoá lẫn lộn thanh hỏi và thanh ngã; phương ngữ Nghệ Tĩnh không phân biệt giữa thanh ngã và thanh nặng, tạo thành hệ thống thanh điệu khác biệt với phương ngữ Bắc; và phương ngữ Bình Trị Thiên không phân biệt thanh hỏi với thanh ngã nhưng lại tương đồng về điệu tính với Nghệ Tĩnh.
92] Võ Xuân (1992) cũng cho rằng "Vùng phương ngữ Trung có 3 phương ngữ là: phương ngữ Thanh Hoá, phương ngữ Nghệ Tĩnh, và phương ngữ Bình Trị Thiên
Tiến sỹ Hoàng Trọng Canh trong "Nghiên cứu đặc điểm lớp từ địa phương Nghệ Tĩnh (2001)" đồng thuận với cách phân chia phương ngữ của Hoàng Thị Châu và Võ Xuân Trang Trong khi đó, Hồng Giao, Nguyễn Văn Tu và Lưu Văn Lăng (1957) lại phân chia Tiếng Việt thành 4 phương ngữ, trong đó có phương ngữ Thanh Hóa và phương ngữ Bắc Bộ.
1 Phương ngôn miền Bắc (gồm cả Thanh Hoá )
2 Phương ngôn Nghệ An - Hà Tĩnh
3 Phương ngôn vùng Quảng Bình - Quảng Nam
4 Phương ngôn từ Quãng Ngãi đến Nam Bộ
Vương Hữu Lễ trong khi xác định vị trí của "Giọng Quảng" theo bảng phân loại nhƣ sau:
2 Giọng Trung: Miền Bẳc Trung Việt (Từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên)
3 Giọng Nam: Từ Quảng Nam đến Cà Mau
Theo Vương Hữu Lễ (1974) cách chia như thế cho thấy sự biến đổi
"quyết liệt" của tiếng nói Thanh Hoá và Quảng Nam
Vị trí của phương ngữ Thanh Hóa hiện chưa ổn định, thường bị phân loại vào các phương ngữ khác nhau Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đều đồng ý xếp tiếng nói Thanh Hóa vào nhóm phương ngữ Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên, tạo thành một phương ngữ Bắc Trung Bộ thống nhất.
Việc phân loại phương ngữ Thanh Hóa có thể thay đổi tùy thuộc vào giai đoạn lịch sử, xã hội và tiêu chí phân chia cụ thể Tuy nhiên, bất kể thời kỳ hay tiêu chí nào, việc phân loại vẫn cần dựa vào những đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ và tiếng nói của người dân trong khu vực.
Phương ngữ Thanh Hoá được xác định là thuộc nhóm phương ngữ Bắc Trung Bộ, nhưng lại mang những đặc điểm của một phương ngữ chuyển tiếp Theo ý kiến của các nhà nghiên cứu như Hoàng Thị Châu, Phạm Văn Hảo, và Hoàng Trọng Canh, phương ngữ này có những đặc trưng ngữ âm và từ vựng tương đồng với phương ngữ Trung, đồng thời cũng có những nét giống với phương ngữ Bắc Tuy nhiên, khi xem xét các đặc điểm cơ bản, phương ngữ Thanh Hoá không hoàn toàn giống với phương ngữ Trung hay phương ngữ Bắc.
Định vị tiếng địa phương Thanh Hoá hiện nay vẫn chưa thống nhất Chúng tôi mong muốn góp phần làm rõ hơn vốn từ địa phương này Qua đó, phương ngữ Thanh Hoá được nhận diện như một cầu nối giữa phương ngữ Bắc và phương ngữ Trung, đồng thời thể hiện những nét đặc trưng riêng biệt của nó.
Nhiệm vụ của luận văn 5
Nghiên cứu về phương ngữ Thanh Hóa có thể được thực hiện từ nhiều khía cạnh khác nhau Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ, năng lực và thời gian, bài viết này chỉ tập trung vào hai nhiệm vụ chính: thứ nhất, khảo sát và thu thập vốn từ địa phương của Thanh Hóa; thứ hai, phân loại vốn từ này thành các tiểu loại dựa trên mối quan hệ âm và nghĩa giữa từ vựng của phương ngữ Thanh Hóa và từ vựng của ngôn ngữ toàn dân.
Phương pháp nghiên cứu 5
Để thực hiện nhiệm vụ của luận văn, chúng tôi tiến hành khảo sát và thu thập vốn từ ngữ địa phương Thanh Hóa thông qua phương pháp điều tra điền dã Việc so sánh, đối chiếu với từ toàn dân và phân tích giúp chúng tôi nhận diện sự khác biệt của tiếng địa phương Thanh Hóa, chủ yếu về ngữ âm và ngữ nghĩa Từ nguồn tư liệu thu được, chúng tôi thống kê và phân loại các nhóm từ ngữ khác nhau dựa trên các tiêu chí cụ thể.
Cấu trúc của luận văn 6
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm 2 chương
Chương 1 Một số vấn đề lý luận
1.1 Ngôn ngữ và phương ngữ
Phương ngữ và từ địa phương là hai khái niệm quan trọng trong ngôn ngữ học Phương ngữ Thanh Hoá, một phần của ngôn ngữ Việt Nam, chứa đựng nhiều từ địa phương độc đáo Chương 2 của bài viết sẽ tiến hành khảo sát và phân loại vốn từ địa phương Thanh Hoá, nhằm làm rõ sự đa dạng và đặc trưng của ngôn ngữ trong khu vực này.
2.1 Khảo sát vốn từ địa phương Thanh Hoá
2.2 Phân loại vốn từ địa phương Thanh Hoá
2.2.1 Phân loại vốn từ địa phương theo cấu tạo
2.2.2 Phân loại vốn từ địa phương Thanh Hoá dựa vào quan hệ âm và nghĩa
2.2.2.1 Những từ vừa có sự tương ứng về âm vừa có tương đồng về nghĩa
2.2.2.2 Những từ có sự tương ứng về âm và có biến đổi ít nhiều về nghĩa 2.2.2.3 Những từ giống âm nhƣng khác nghĩa
2.2.2.4 Những từ khác âm nhưng tương đồng về nghĩa
2.2.2.5 Những từ dùng yếu tố toàn dân nhƣng có cách kết hợp tạo từ khác từ toàn dân
2.3 Một vài nhận xét về âm từ địa phương Thanh Hoá
2.3.1 Sự tương ứng phụ âm đầu 2.3.2 Sự tương ứng khuôn vần
7
Khái niệm "Phương ngữ" và khái niệm "Từ địa phương" 9
2.1 Khảo sát vốn từ địa phương Thanh Hoá
2.2 Phân loại vốn từ địa phương Thanh Hoá
2.2.1 Phân loại vốn từ địa phương theo cấu tạo
2.2.2 Phân loại vốn từ địa phương Thanh Hoá dựa vào quan hệ âm và nghĩa
2.2.2.1 Những từ vừa có sự tương ứng về âm vừa có tương đồng về nghĩa
2.2.2.2 Những từ có sự tương ứng về âm và có biến đổi ít nhiều về nghĩa 2.2.2.3 Những từ giống âm nhƣng khác nghĩa
2.2.2.4 Những từ khác âm nhưng tương đồng về nghĩa
2.2.2.5 Những từ dùng yếu tố toàn dân nhƣng có cách kết hợp tạo từ khác từ toàn dân
2.3 Một vài nhận xét về âm từ địa phương Thanh Hoá
2.3.1 Sự tương ứng phụ âm đầu 2.3.2 Sự tương ứng khuôn vần
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1 NGÔN NGỮ VÀ PHƯƠNG NGỮ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất giữa con người, luôn thống nhất trong một xã hội cụ thể Trong xã hội có giai cấp, giao tiếp không chỉ giới hạn trong một giai cấp mà còn diễn ra giữa các giai cấp khác nhau, vì vậy ngôn ngữ không mang tính giai cấp và phục vụ cho tất cả mọi người Là công cụ giao tiếp của mọi thành viên trong xã hội, từ các bộ lạc cổ xưa đến các quốc gia hiện đại, ngôn ngữ thực sự mang tính toàn dân qua mọi giai đoạn phát triển.
Ngôn ngữ dân tộc thường được hiểu là "ngôn ngữ chung của cả dân tộc " được thể hiện dưới hai hình thức nói và viết
Ngôn ngữ dân tộc là phương tiện giao tiếp phổ biến trong đời sống hàng ngày, được sử dụng rộng rãi mà không bị giới hạn bởi phong cách hay phạm vi Nó được biết đến, chấp nhận và sử dụng bởi tất cả mọi người trong quốc gia.
Sự phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người, và ngôn ngữ dân tộc phản ánh những "phạm trù xã hội ngôn ngữ học lịch sử phát triển" Quá trình hình thành dân tộc dẫn đến sự xuất hiện của một ngôn ngữ dân tộc thống nhất, với sự thống nhất nội bộ rõ rệt Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với sự đồng nhất trong tất cả các biểu hiện ngôn ngữ thực tế Tính thống nhất của ngôn ngữ dân tộc là một thuộc tính bản chất, trong khi vẫn tồn tại các phương ngữ địa lý và phương ngữ xã hội, điều này được thể hiện rõ trong Tiếng Việt.
Quan hệ ngôn ngữ và phương ngữ thể hiện sự "thống nhất trong cái đa dạng trên một căn bản thống nhất." Điều này cho thấy sự phong phú của ngôn ngữ trong khi vẫn giữ được những điểm chung cần thiết.
Ngôn ngữ luôn thay đổi không ngừng, và sự biến đổi này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau Trong hoạt động giao tiếp, sự khác biệt trong cách nói giữa các vùng dân cư tạo nên phương ngữ riêng của từng khu vực Những thói quen nói năng này phản ánh sự phát triển và biến đổi của ngôn ngữ, không chỉ do yếu tố địa lý mà còn bởi sự phân hóa theo thời gian Điều kiện địa lý giữ vai trò như một yếu tố khách quan, giúp duy trì và thể hiện sự khác biệt ngôn ngữ, nhưng chính yếu tố thời gian mới là nguyên nhân chính dẫn đến sự phân hóa này.
Sự khác biệt giữa các phương ngữ, dù có lớn đến đâu, vẫn không đáng kể so với ngôn ngữ toàn dân Các phương ngữ cơ bản giống nhau về hệ thống cấu trúc, vì chúng sử dụng chung một mã ngôn ngữ thống nhất Hệ thống cấu trúc ngữ pháp, từ vựng và âm vị giữa phương ngữ và ngôn ngữ toàn dân đều có nhiều điểm tương đồng.
Nhiều tác giả đã nghiên cứu tiếng địa phương từ các phương diện khác nhau, góp phần tạo nên bức tranh tổng thể về phương ngữ Tiếng Việt Những ý kiến này giúp làm rõ sự đa dạng và phong phú của tiếng địa phương trong văn hóa Việt Nam.
Tác giả Hoàng Thị Châu trong "Tiếng Việt trên các miền đất nước" nhấn mạnh rằng tiếng địa phương không cản trở giao tiếp Dù là giọng Huế, Nghệ hay Quảng, người nói vẫn có thể giao tiếp hiệu quả Điều này chứng tỏ sự thống nhất của Tiếng Việt trên toàn quốc.
Phương ngữ học tập trung vào những điểm khác biệt giữa phương ngữ và ngôn ngữ toàn dân, nhằm tìm ra sự khác nhau mà không mang theo thành kiến Nghiên cứu này giúp xác định quy luật dẫn đến sự thống nhất, điều này rất cần thiết trong xã hội hiện nay Do đó, sự khác biệt của phương ngữ thể hiện tính đa dạng và sự thống nhất của ngôn ngữ dân tộc.
Hoàng Thị Châu nhấn mạnh rằng sự hình thành của các phương ngữ trong ngôn ngữ dân tộc là kết quả của hai tác động chính: tác động nội tại từ cấu trúc ngôn ngữ và tác động từ các yếu tố bên ngoài Tác động nội tại liên quan đến sự thay đổi ngôn ngữ trong giao tiếp, trong khi tác động bên ngoài chủ yếu do sự phân bố địa lý Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là sự phát triển lịch sử của ngôn ngữ phản ánh sự phân bố này Do đó, tính địa lý chỉ là hiện tượng bề ngoài, còn tính lịch sử mới là bản chất của phương ngữ, cho thấy rằng phương ngữ là sản phẩm của quy luật phát triển lịch sử dân tộc.
Trong bối cảnh lịch sử hiện nay, xu hướng thống nhất ngày càng gia tăng, dẫn đến nhu cầu về công cụ giao tiếp đồng nhất cho toàn xã hội.
1.2 KHÁI NIỆM "PHƯƠNG NGỮ" VÀ "KHÁI NIỆM "TỪ ĐỊA PHƯƠNG"
Phương ngữ là thuật ngữ ngôn ngữ học chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân tại một địa phương cụ thể, với những nét khác biệt so với ngôn ngữ toàn dân hoặc các phương ngữ khác Theo Hoàng Thị Châu, phương ngữ có những đặc điểm riêng biệt, trong khi Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân và Vương Toàn nhấn mạnh tính hệ thống của nó, với từ vựng, ngữ pháp và ngữ âm riêng biệt, tạo thành một hệ thống ký hiệu có nguồn gốc chung với ngôn ngữ toàn dân Nguyễn Nhã Bản, Hoàng Trọng Canh và Hoài Nguyên cho rằng phương ngữ không phải là ngôn ngữ riêng mà là biến thể của ngôn ngữ văn hóa tại một địa phương, với sự đối lập rõ rệt về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp so với ngôn ngữ văn hóa và các phương ngữ khác.
Nhƣ vậy, tuy các tác giả phát biểu không giống nhau, nhƣng chúng ta có thể rút ra những điểm căn bản thống nhất:
Phương ngữ là hệ thống biến thể của ngôn ngữ toàn dân tại một vùng địa phương, thể hiện sự khác biệt về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp Nó phản ánh đặc trưng ngôn ngữ dân tộc trong các khu vực địa lý cụ thể, như một số tỉnh, và có sự phân biệt rõ rệt so với ngôn ngữ toàn dân.
Phương ngữ địa lý và phương ngữ xã hội là hai khía cạnh quan trọng trong nghiên cứu ngôn ngữ Phương ngữ xã hội thể hiện sự khác biệt trong ngôn ngữ của các tầng lớp người sử dụng, phản ánh đặc trưng văn hóa của từng nhóm Tuy nhiên, trong luận văn này, chúng tôi không khảo sát vốn từ thuộc phương ngữ xã hội, nên sẽ không đi sâu vào vấn đề này.
Khái niệm từ địa phương liên quan chặt chẽ đến việc xác định phương ngữ, và hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu đang quan tâm đến vấn đề này Tuy nhiên, quan niệm về từ địa phương giữa các nhà nghiên cứu vẫn có những điểm khác biệt nhất định.
Phân loại vốn từ địa phương Thanh Hoá 15
2.2.1 Phân loại vốn từ địa phương theo cấu tạo
2.2.2 Phân loại vốn từ địa phương Thanh Hoá dựa vào quan hệ âm và nghĩa
2.2.2.1 Những từ vừa có sự tương ứng về âm vừa có tương đồng về nghĩa
2.2.2.2 Những từ có sự tương ứng về âm và có biến đổi ít nhiều về nghĩa 2.2.2.3 Những từ giống âm nhƣng khác nghĩa
2.2.2.4 Những từ khác âm nhưng tương đồng về nghĩa
2.2.2.5 Những từ dùng yếu tố toàn dân nhƣng có cách kết hợp tạo từ khác từ toàn dân.
Một vài nhận xét về âm từ địa phương Thanh Hoá 61
2.3.1 Sự tương ứng phụ âm đầu 2.3.2 Sự tương ứng khuôn vần
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1 NGÔN NGỮ VÀ PHƯƠNG NGỮ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất giữa con người, luôn thống nhất trong một xã hội cụ thể Trong xã hội có giai cấp, giao tiếp không chỉ diễn ra trong một giai cấp mà còn giữa các giai cấp khác nhau, vì vậy ngôn ngữ không mang tính giai cấp và phục vụ cho tất cả mọi người Là công cụ giao tiếp của mọi thành viên trong xã hội, từ bộ lạc cổ xưa đến dân tộc quốc gia hiện đại, ngôn ngữ có tính toàn dân trong mọi giai đoạn phát triển của nó.
Ngôn ngữ dân tộc thường được hiểu là "ngôn ngữ chung của cả dân tộc " được thể hiện dưới hai hình thức nói và viết
Ngôn ngữ dân tộc là ngôn ngữ phổ biến trong giao tiếp hàng ngày, không bị giới hạn bởi phong cách hay phạm vi sử dụng Đây là ngôn ngữ được mọi người trong quốc gia biết đến, chấp nhận và sử dụng rộng rãi.
Sự phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự tiến hóa của xã hội loài người, vì vậy ngôn ngữ dân tộc phản ánh những "phạm trù xã hội ngôn ngữ học lịch sử phát triển." Quá trình hình thành dân tộc dẫn đến sự ra đời của một ngôn ngữ dân tộc thống nhất, với sự thống nhất nội bộ rõ ràng Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc tất cả các biểu hiện ngôn ngữ đều giống nhau Tính thống nhất của ngôn ngữ dân tộc được coi là một thuộc tính bản chất, trong khi vẫn tồn tại các phương ngữ địa lý và xã hội, điều mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy trong Tiếng Việt.
Quan hệ ngôn ngữ và phương ngữ thể hiện sự "thống nhất trong cái đa dạng trên một căn bản thống nhất" Điều này cho thấy sự phong phú của ngôn ngữ trong khi vẫn duy trì những yếu tố chung, tạo nên sự liên kết giữa các phương ngữ khác nhau.
Ngôn ngữ luôn biến đổi không ngừng và sự thay đổi này có nhiều nguyên nhân Từ góc độ giao tiếp, ngôn ngữ ở từng vùng dân cư tạo ra những thói quen nói năng khác nhau, hình thành nên các phương ngữ đặc trưng Sự khác biệt giữa các phương ngữ không chỉ do yếu tố địa lý mà còn do quá trình phát triển và biến đổi của ngôn ngữ theo thời gian Điều kiện địa lý chỉ là yếu tố bên ngoài giúp duy trì và thể hiện sự khác biệt ngôn ngữ Nếu không có sự phân bố địa lý, các phương ngữ sẽ không tồn tại, nhưng yếu tố thời gian lại là nhân tố quan trọng trong sự phân hóa ngôn ngữ.
Sự khác biệt giữa các phương ngữ, dù có lớn đến đâu, vẫn không đáng kể so với ngôn ngữ toàn dân Các phương ngữ này cơ bản giống nhau về cấu trúc, vì chúng đều sử dụng một mã ngôn ngữ thống nhất Hệ thống cấu trúc ngữ pháp, từ vựng và âm vị giữa các phương ngữ và ngôn ngữ toàn dân có nhiều điểm tương đồng.
Nhiều tác giả đã nghiên cứu tiếng địa phương từ các phương diện khác nhau, góp phần tạo nên bức tranh tổng quát về phương ngữ Tiếng Việt Những ý kiến này giúp làm rõ sự đa dạng và phong phú của tiếng địa phương trong văn hóa Việt Nam.
Tác giả Hoàng Thị Châu trong "Tiếng Việt trên các miền đất nước" khẳng định rằng tiếng địa phương không cản trở giao tiếp Dù bạn nói giọng Huế, giọng Nghệ hay giọng Quảng, bạn vẫn có thể giao tiếp hiệu quả bằng ngôn ngữ của mình ở bất kỳ đâu Điều này chứng tỏ rằng Tiếng Việt có sự thống nhất mạnh mẽ.
Phương ngữ học tập trung vào những khác biệt giữa phương ngữ và ngôn ngữ toàn dân nhằm tìm ra quy luật thống nhất trong sự đa dạng ngôn ngữ Việc nghiên cứu này không xuất phát từ thành kiến mà là nhu cầu thực tiễn trong xã hội hiện nay Sự khác biệt của phương ngữ chính là biểu hiện của tính đa dạng và thống nhất trong ngôn ngữ dân tộc.
Hoàng Thị Châu nhấn mạnh rằng sự hình thành các phương ngữ trong ngôn ngữ dân tộc là kết quả của hai tác động chính Tác động đầu tiên đến từ bên trong, liên quan đến cấu trúc ngôn ngữ và sự thay đổi trong hoạt động giao tiếp Tác động thứ hai đến từ các yếu tố bên ngoài, đặc biệt là sự phân bố địa lý Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là lịch sử phát triển của ngôn ngữ phản ánh sự phân bố này Do đó, tính địa lý chỉ là hiện tượng bề ngoài, trong khi tính lịch sử mới là bản chất của phương ngữ Các phương ngữ cũng được coi là hiện tượng lịch sử, phản ánh quy luật phát triển của dân tộc.
Trong bối cảnh lịch sử mới, xu thế thống nhất ngày càng gia tăng, điều này dẫn đến việc cần thiết phải có một công cụ giao tiếp thống nhất cho toàn xã hội.
1.2 KHÁI NIỆM "PHƯƠNG NGỮ" VÀ "KHÁI NIỆM "TỪ ĐỊA PHƯƠNG"
Phương ngữ được định nghĩa là biểu hiện ngôn ngữ của một địa phương, với những khác biệt so với ngôn ngữ toàn dân hoặc các phương ngữ khác Theo Hoàng Thị Châu, phương ngữ là thuật ngữ ngôn ngữ học chỉ sự khác biệt này Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân và Vương Toàn nhấn mạnh tính hệ thống của phương ngữ, với từ vựng, ngữ pháp và ngữ âm riêng biệt trong một phạm vi lãnh thổ hoặc xã hội hẹp Nguyễn Nhã Bản, Hoàng Trọng Canh và Hoài Nguyên cho rằng phương ngữ không phải là ngôn ngữ riêng, mà là biến thể của ngôn ngữ văn hóa tại một địa phương, với sự đối lập rõ rệt về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp so với ngôn ngữ văn hóa và các phương ngữ khác.
Nhƣ vậy, tuy các tác giả phát biểu không giống nhau, nhƣng chúng ta có thể rút ra những điểm căn bản thống nhất:
Phương ngữ là biến thể của ngôn ngữ toàn dân trong một khu vực địa lý cụ thể, thể hiện sự khác biệt về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp Nó phản ánh đặc trưng ngôn ngữ dân tộc tại các tỉnh nhất định, tạo nên sự đa dạng trong cách sử dụng ngôn ngữ so với ngôn ngữ toàn dân.
Phương ngữ địa lý và phương ngữ xã hội là hai khái niệm quan trọng trong nghiên cứu ngôn ngữ Phương ngữ xã hội thể hiện sự khác biệt trong ngôn ngữ giữa các tầng lớp người sử dụng, nhưng trong luận văn này, chúng tôi không khảo sát vốn từ thuộc phương ngữ xã hội, do đó sẽ không đề cập đến vấn đề này.
Khái niệm từ địa phương liên quan chặt chẽ đến việc xác định phương ngữ, và hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu đang quan tâm đến vấn đề này Tuy nhiên, quan niệm về từ địa phương giữa các nhà nghiên cứu vẫn chưa hoàn toàn thống nhất.