Mục đích và ý nghĩa của đề tài
Trong lịch sử văn học nhân loại, mỗi thời đại đều xem xét lại những vấn đề xuất phát từ mục đích và yêu cầu của thời đại mình, dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn nhận Văn xuôi Việt Nam sau 1985 đánh dấu một thời kỳ mới với sự chuyển mình mạnh mẽ, đặc biệt từ sau Đại hội VI của Đảng năm 1986, khi đất nước bước vào một kỷ nguyên mới Sự chuyển biến trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội yêu cầu văn học phải phản ánh đầy đủ và sinh động thực trạng cuộc sống, đồng thời bổ sung những thiếu sót của các giai đoạn trước Nhu cầu mới của con người đã thúc đẩy văn xuôi phát triển mạnh mẽ, với đề tài chuyển từ chiến tranh và cách mạng sang đạo đức và đời sống thường nhật Văn xuôi sau 1985 thể hiện khả năng tiếp cận và phản ánh hiện thực con người một cách nhạy bén, tạo nên một thời kỳ đạt nhiều thành tựu và thu hút sự quan tâm nghiên cứu khoa học.
Sau chiến tranh, trong bối cảnh hòa bình, con người cần hòa mình vào không khí dân chủ hóa Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (1987) đã mở ra cái nhìn mới về vị trí và chức năng của văn nghệ Văn học nghệ thuật, với vai trò nhạy cảm nhất trong xã hội, đã mạnh mẽ hưởng ứng đường lối đổi mới, thể hiện tư tưởng đổi mới trong sáng tác Từ sau 1985, văn học không còn bị ràng buộc bởi thực tế chiến tranh, các nhà văn đã có những tìm tòi và chính kiến khác biệt so với trước đây Sự đổi mới này phản ánh sự phát triển phù hợp với quy luật khách quan và cần được nghiên cứu.
Văn xuôi giai đoạn sau 1985, đặc biệt là truyện ngắn và tiểu thuyết, đóng vai trò quan trọng trong nền văn học Việt Nam Diện mạo văn học từ sau Cách mạng tháng Tám không thể thiếu sự hiện diện của các tác phẩm này Chưa bao giờ truyện ngắn và tiểu thuyết lại phát triển phong phú về số lượng và hiệu quả nghệ thuật như giai đoạn này Mặc dù các thể loại khác như thơ, ký, kịch bản cũng thu hút độc giả, nhưng đôi khi lại rơi vào tình trạng thờ ơ do không đáp ứng kịp thời nhu cầu tinh thần và thẩm mỹ đang thay đổi Do đó, để hiểu rõ văn học nói chung và đặc điểm văn xuôi trong thời kỳ đổi mới, việc nghiên cứu truyện ngắn và tiểu thuyết sau 1985 là điều không thể thiếu.
Từ năm 1985, một giai đoạn văn học mới đã hình thành, mang đến không khí tự tin cho các tác giả trong việc khám phá và sáng tạo Họ mạnh dạn thể hiện những quan điểm cá nhân về các vấn đề phức tạp của cuộc sống, đồng thời phản ánh thực trạng đời sống xã hội.
Bảy bài học triết lý và nhân sinh mang ý nghĩa sâu sắc trong thời đại hiện nay đòi hỏi các tác giả phải khám phá thể loại văn xuôi, vì đây là hình thức thể hiện vấn đề một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất.
Thời kỳ sau 1985 chứng kiến sự khẳng định của những cây bút tên tuổi như Bùi Hiển, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, và Nguyễn Quang Sáng qua các tác phẩm xuất sắc Đồng thời, sự xuất hiện của các tác giả trẻ như Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, và Bảo Ninh đã làm mới diện mạo văn xuôi Việt Nam Nghiên cứu về giai đoạn này giúp chúng ta hiểu rõ hơn những đặc điểm nổi bật của văn xuôi đương đại.
Đề tài "Một số đặc điểm của văn xuôi Việt Nam sau 1985" tập trung vào việc phân tích các truyện ngắn và tiểu thuyết tiêu biểu, nhằm khám phá những đặc trưng nổi bật của văn xuôi Việt Nam trong giai đoạn này Nghiên cứu này không chỉ cung cấp cái nhìn sâu sắc về diện mạo văn học sau thời kỳ đổi mới, mà còn hỗ trợ cho việc giảng dạy văn học tại các trường Đại học và phổ thông.
Lịch sử vấn đề
Sau chiến thắng mùa xuân 1975, đất n-ớc ta đ-ợc hoàn toàn giải phóng,
Sau khi Tổ quốc thống nhất và đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, nền văn học Việt Nam đã bước vào một thời kỳ mới đầy triển vọng Đặc biệt, từ năm 1986, cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã tạo ra cơ hội thuận lợi cho sự phát triển văn học Lê Ngọc Trà nhận định rằng, công cuộc đổi mới này đã thổi luồng gió sinh khí vào đời sống xã hội, kích thích cải cách kinh tế và khơi dậy những suy nghĩ mới mẻ trong văn học.
Giai đoạn đổi mới trong văn học đánh dấu sự xuất hiện của những tác phẩm mới với phong cách và nội dung khác biệt, đáp ứng nhu cầu phức tạp của cuộc sống hiện đại Đội ngũ tác giả trẻ dũng cảm khai thác hiện thực và mạnh dạn bày tỏ chính kiến trong tác phẩm, tạo nên sự phong phú và sôi động trong đời sống văn học, thu hút sự tìm tòi và sáng tạo.
Văn xuôi Việt Nam sau 1985, đặc biệt qua các truyện ngắn và tiểu thuyết tiêu biểu, là một đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều người Tuy nhiên, trong khoảng 15 năm qua, chưa có công trình nghiên cứu nào tổng kết một cách khái quát về vấn đề này Các ý kiến trước đây chủ yếu dừng lại ở những bài phê bình ngắn, phát biểu tại hội thảo, hoặc phỏng vấn trong các bài báo, tập trung vào một số tác phẩm cụ thể mà chưa khai thác sâu sắc các đặc điểm chung của văn xuôi trong giai đoạn này.
Các ý kiến về thời sự văn học hiện nay đã chỉ ra sự chuyển mình rõ rệt trong lý luận và văn xuôi sau năm 1985, với những tác giả tiêu biểu như Trần Đình Sử, Phong Lê, và Trương Đăng Dung Họ đều thống nhất rằng văn xuôi thời kỳ này đã mang đến cái nhìn mới mẻ về con người và xã hội Trong khi các nhà văn trước 1985 thường xem xét con người từ góc độ xã hội và phong trào, thì các tác giả sau 1985 lại tập trung vào cái nhìn nhân văn hơn, phản ánh sự phức tạp của hiện thực và số phận con người Hành trình văn học trong những năm qua đã thể hiện nỗ lực thoát khỏi số phận cộng đồng để khám phá những khía cạnh đa chiều của cuộc sống.
Cuộc hành trình khám phá thế giới nội tâm của con người là một quá trình vô tận và đầy thử thách Văn học không chỉ thu hẹp mà còn mở rộng sự quan tâm đến những giá trị nhân văn chung của mỗi thời đại, khẳng định vai trò quan trọng của nó trong việc hiểu biết sâu sắc về bản chất con người.
Tôn Phương Lan nhận định rằng các tác giả như Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải, từng gắn bó với đề tài chiến tranh, nay đã chuyển hướng sang khám phá tâm lý xã hội và những số phận con người trong đời sống thường nhật sau chiến tranh Ma Văn Kháng cũng phản ánh những bi kịch gia đình và xã hội, trước nguy cơ sụp đổ các giá trị đạo đức truyền thống do tác động của nền kinh tế hàng hóa và cơ chế thị trường đang hình thành.
Lê Ngọc Trà nhận xét rằng văn xuôi của Nguyễn Khải, từ "Thời gian của ng-ời" đến những tác phẩm gần đây như "Một thời gió bụi" và "Ông đại tá về h-u", vẫn giữ được giọng kể thông minh, lôi cuốn, nhưng ngày càng mềm mại, uyển chuyển hơn Sự tự tin trong lời kể đi kèm với sự tự chế giễu bản thân, cho thấy cái nhìn đa chiều về cuộc sống Nhân vật của Nguyễn Khải thường là những người đang sống, qua đó nhà văn quan sát và nghiên cứu những biến chuyển xã hội Mặc dù các nhân vật vẫn đầy tâm huyết và hoài bão, nhưng họ thường ít thành công và mềm yếu hơn so với các nhân vật trước đây Lời kể cũng giàu chất suy tư, thể hiện nỗi buồn của những người nhận ra ý nghĩa của thời gian và quy luật của đời sống.
Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp lại là một tr-ờng hợp khác Ngay từ
Bài viết "10 truyện ngắn đầu tiên - truyện T-ớng về h-u" khắc họa một hiện thực đa chiều, sắc lạnh và tinh tế qua lăng kính phân tích của tác giả Nhà văn không giới thiệu hiện thực từ một quan điểm duy nhất, mà từ nhiều góc nhìn khác nhau, khiến người đọc phải đối diện với một cuộc sống phức tạp và không được tỉa gọt Điều này buộc người đọc không thể rút ra những kết luận đơn giản, mà phải tự nhận thức và suy ngẫm dựa trên những gợi ý của tác giả.
Theo Trần C-ơng, hai chủ đề mới về số phận con người và hạnh phúc cá nhân lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Trong các tác phẩm, hai chủ đề này có thể tách biệt hoặc được thể hiện đồng thời, tạo ra sự tương tác và "thuyết minh" lẫn nhau Điều đáng chú ý là các tác giả hiện nay thể hiện sự đồng tình với những vấn đề này, không còn giữ thái độ "dửng dưng" như trước đây.
Trong tác phẩm "Thời xa vắng," Giang Minh Sài thể hiện nỗi buồn và sự chua chát của một người đã mất đi tình yêu và hạnh phúc thời trai trẻ Sự trải nghiệm của nhân vật không chỉ là nỗi đau cá nhân mà còn phản ánh sự so sánh với chính bản thân người đọc Hình ảnh của Vạn trong "Bến không chồng" cho thấy cái giá quá đắt của những định kiến và nhận thức ấu trĩ, dẫn đến cái chết bi thảm sau một phút lầm lỡ Sự trả giá này vừa đáng kính trọng vì lòng tự trọng, vừa đáng thương vì phải chịu đựng những định kiến khắc nghiệt Cuối cùng, hình ảnh Hạnh bế con chạy đuổi theo Vạn đang chìm dần xuống dòng nước khắc họa rõ nét chủ đề tình yêu và số phận trong tác phẩm.
Nguyễn Văn L-u thì cho rằng Lê Lựu trong Thời xa vắng khác hẳn Lê
Lê Lựu đã có sự chuyển hướng rõ rệt trong phong cách nghệ thuật của mình, thể hiện qua cái nhìn hiện thực sâu sắc và nhuần nhị hơn Sự thay đổi này mang lại cảm hứng mới và giọng điệu khác biệt cho tác giả Văn phong của ông trở nên giản dị, hồn nhiên, sinh động và chân thực, tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ cho người đọc.
Bích Thu khi đọc các tác phẩm như "Phiên chợ Giát", "Cỏ lau", và "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành" của Nguyễn Minh Châu, cùng với "Bước qua lời nguyền" của Tạ Duy Anh, đã nhận thấy một đặc điểm nổi bật của truyện ngắn sau 1985: đó là sự hướng tới hiện thực về con người thông qua từng số phận cá nhân Các nhà văn đã phản ánh những vấn đề nhức nhối và bức xúc của con người trong xã hội đương đại Nhân vật trong các truyện ngắn hiện nay không còn là "những đời người rất nhạt" mà là những con người "đầy những vết đập" cả về thể xác lẫn tâm hồn Nhà văn thể hiện những kinh nghiệm sống được chắt lọc qua từng câu chữ, tạo ra một cái nhìn khách quan và bình đẳng về sự vận động tự thân của nhân vật.
Phạm Vĩnh C- đã khám phá sự xuất hiện của "nhân vật tiểu thuyết đích thực" trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, đặc biệt qua các tác phẩm như Phiên chợ Giát và Khách ở quê Nhân vật được miêu tả là một con người đa diện, thể hiện tính cách vừa tuần hoàn vừa mâu thuẫn, vừa cá biệt vừa tiêu biểu Họ là sản phẩm của một quá khứ lịch sử tối tăm nhưng cũng tỏa sáng với những giá trị đạo đức vĩnh hằng Nhân vật nông dân, với đôi tay lấm bùn, đồng thời mang trong mình tâm hồn của một "nhà tư tưởng" có thế giới riêng, tiếng nói của họ vang xa trong tác phẩm, hòa quyện và đối lập với tiếng nói của tác giả.
Mùa lá rụng trong v-ờn của tác giả Vân Thanh thể hiện tiếng nói sâu sắc về mối quan hệ giữa cá nhân, gia đình và xã hội Tác phẩm nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi người đối với cuộc sống và những biến động trong thời đại hiện nay.
Trong tác phẩm "12 sống dành cho mỗi người," những yếu tố cũ và mới đan xen nhau, tạo nên những mâu thuẫn sâu sắc trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cụ Bằng Những xung đột này không chỉ phản ánh thực trạng của gia đình mà còn là hình ảnh thu nhỏ của những xung đột xã hội đang diễn ra.
Nhiệm vụ, phạm vi, ph-ơng pháp nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.1 Tái hiện lại bối cảnh mới của nền văn học Việt Nam sau chiến tranh Từ đó nêu ra những tiền đề đổi mới của lý luận và sáng tác văn học trong giai đoạn sau 1985 Khẳng định rằng trong khoảng thời gian 15 năm trở lại nay trong sáng tác văn học, ở khu vực hẹp là văn xuôi đang trên đà đổi mới mang những tố chất mới so với văn học giai đoạn tr-ớc
3.1.2 Từ hệ thống các truyện ngắn và tiểu thuyết đã chọn lựa, chúng tôi phân tích, mổ xẻ tìm ra những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật Qua đó chỉ ra những cảm hứng sáng tạo mới và một số đặc điểm trong phong cách nghệ thuật chi phối dòng mạch chính của văn xuôi sau 1985
3.1.3 Khái quát lên những đặc điểm của văn xuôi sau 1985 Chỉ ra những điểm mới trong đặc điểm của văn xuôi ở giai đoạn này so với giai đoạn tr-ớc đó và những đóng góp của văn xuôi cho nền văn học của chúng ta từ ngày có chủ tr-ơng đổi mới.
Phạm vi nghiên cứu
Trong nền văn học Việt Nam, văn xuôi giữ một vị trí quan trọng bên cạnh thể loại thơ ca Luận văn này tập trung nghiên cứu một số truyện ngắn và tiểu thuyết tiêu biểu sau 1985, đặc biệt chú trọng đến những tác phẩm giàu cảm hứng sáng tạo và mang phong cách đặc trưng của giai đoạn này Chúng tôi cũng tham khảo các tác phẩm đã nhận giải thưởng hàng năm, được dịch ra nhiều thứ tiếng, cùng với các truyện ngắn được tuyển chọn từ báo Văn nghệ và tạp chí Văn nghệ quân đội Việc nghiên cứu này nhằm làm nổi bật những tác phẩm tiêu biểu của nhiều thế hệ nhà văn, qua đó khẳng định giá trị của văn xuôi trong văn học hiện đại.
Bài viết đề cập đến 14 tác giả nổi bật với những phong cách sáng tạo nghệ thuật đa dạng, họ đã có những thành công và đóng góp quan trọng cho văn xuôi Việt Nam sau năm 1985.
3.3 Ph-ơng pháp nghiên cứu Để giải quyết tốt mục đích, yêu cầu đặt ra, luận văn của chúng tôi sẽ thực hiện bằng việc kết hợp nhiều ph-ơng pháp nghiên cứu
3.3.1 Ph-ơng pháp phân tích - tổng hợp
3.3.2 Ph-ơng pháp so sánh - đối chiếu
3.3.3 Ph-ơng pháp phân loại - thống kê
Gồm 3 phần: Mở đầu, Nội dung, Kết luận
1 Mục đích, ý nghĩa của đề tài
3 Nhiệm vụ, phạm vi, ph-ơng pháp nghiên cứu
4 CÊu tróc luËn v¨n néi dung
Ch-ơng I: Một thời kỳ mới của văn học Việt Nam
1 Bối cảnh mới của nền văn học Việt Nam sau chiến tranh
2 Những tiền đề đổi mới của lý luận và sáng tác văn học
Ch-ơng II: Những cảm hứng sáng tạo mới
2 Cảm hứng chiêm nghiệm quá khứ
3 Cảm hứng thân phận con ng-ời cá nhân
Ch-ơng III: Những đặc điểm của phong cách nghệ thuật
1 Sự biến đổi của ý thức nghệ thuật
3 Không gian, thời gian, nghệ thuật
Ch-ơng I Một thời kỳ mới của văn học Việt Nam 1.1 Bối cảnh mới của nền văn học Việt Nam sau chiến tranh
Sau cuộc chiến tranh thần thánh, văn học Việt Nam, đặc biệt là văn xuôi, đang trải qua một giai đoạn chuyển biến tích cực Đánh giá văn học luôn là một thách thức, và điều này cũng đúng với văn xuôi sau 1985 Văn xuôi trong thời kỳ đổi mới đang hướng tới một nền tảng cao hơn, điều chỉnh để gần gũi hơn với cuộc sống Từ sau Đại hội VI của Đảng vào năm 1986, đất nước đã bước vào thời kỳ đổi mới, dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực, trong đó có văn học Nhiều tác giả và tác phẩm mới xuất hiện với cách nhìn và thể hiện độc đáo, thu hút sự quan tâm của xã hội Thời kỳ đổi mới đã mang lại sức sống mới cho đất nước và con người, làm cho cuộc sống trở nên phong phú và sâu sắc hơn Văn học, như một phần của nhân học, cũng hồi sinh với những biểu hiện đa dạng và phức tạp, đánh dấu một giai đoạn mới trong văn học Đây là nhu cầu phát triển nội tại của văn học, khẳng định rằng văn học cần phải đổi mới để đạt được những kiểm nghiệm lạc quan và tự tin trong việc tiếp cận chân lý.
Văn học Việt Nam trong 30 năm chiến tranh là nguồn tự hào lớn lao, với những tác phẩm xúc động đã chạm đến trái tim của hàng triệu người đang chiến đấu Những tác phẩm này không chỉ ghi lại cuộc sống khắc nghiệt mà còn tạo ra những giá trị tinh thần bền vững cho dân tộc.
Văn xuôi cách mạng đã đóng vai trò quan trọng trong hai cuộc kháng chiến, ghi lại những hình ảnh không thể phai mờ của một thời kỳ lịch sử đầy gian lao và thử thách Văn học thời kỳ 1945-1975 đã phản ánh sâu sắc tinh thần yêu nước và nhân đạo, thể hiện tình cảm dân tộc và ý thức cộng đồng phong phú Sự phát triển của văn học đã tạo ra một công chúng mới, rộng rãi và dân chủ hơn, đồng thời hình thành đội ngũ nhà văn - chiến sĩ, đáp ứng những yêu cầu của thời đại cách mạng Thành tựu này không chỉ thể hiện sự kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc mà còn khẳng định vai trò của văn học như một chứng nhân của lịch sử hào hùng.
Thể loại văn học giai đoạn 1945 - 1975 đã phát triển toàn diện, đặc biệt là truyện ngắn và tiểu thuyết với sự phong phú và đa dạng về bút pháp, phong cách Truyện ngắn nổi bật như một thể loại chính, mặc dù chưa có những tên tuổi lớn như Nam Cao trước cách mạng, nhưng đã xuất hiện nhiều tác giả có dấu ấn riêng như Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn Thi, Anh Đức và Nguyễn Quang.
Vào những năm 60, tiểu thuyết Việt Nam mặc dù gặp nhiều khó khăn trong thời kỳ chiến tranh, nhưng đã chứng kiến sự ra đời của nhiều bộ tiểu thuyết nhiều tập mang đậm tính sử thi Những tác phẩm như "Sống mãi với thủ đô" của Nguyễn Huy Tưởng, "Vỡ bờ" của Nguyễn Đình Thi, và "Bão biển" của Chu Văn, cùng với bộ "Cửa biển" dài hơn hai nghìn trang, đã thể hiện sự phát triển mạnh mẽ của thể loại này trong bối cảnh lịch sử đặc biệt.
Trong giai đoạn văn học 1945 - 1975, tồn tại nhiều tác phẩm còn non yếu, sơ lược và công thức, chưa phản ánh đầy đủ những thực tế phức tạp của chiến tranh Các tác giả chưa đi sâu vào mâu thuẫn xã hội, vấn đề trong cuộc sống hàng ngày và số phận cá nhân Những hạn chế này xuất phát từ điều kiện lịch sử, trình độ nhận thức thời đại, cùng với nguyên nhân chủ quan từ quản lý, lý luận phê bình và khả năng sáng tác của người viết.
Mặc dù vậy văn xuôi Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến
Năm 1975 đánh dấu sự kết thúc 30 năm phát triển của nền văn học mới, gắn liền với cách mạng và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ Văn xuôi, với ưu thế của thể loại này, đã phản ánh chân thực những biến cố lịch sử và xã hội, ghi lại những gian lao, hy sinh nhưng cũng rất hào hùng của dân tộc Dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của khuynh hướng sử thi, các nhân vật trong tác phẩm thường mang hình ảnh của những người anh hùng, thể hiện khát vọng và ý chí mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đầy thử thách.
Nguyên Hồng thể hiện chất sống thực và thơ bi tráng, hòa quyện nhân đạo Cơ đốc giáo, trong khi Tô Hoài mang đến cái nhìn phong tục sinh hoạt cùng lối kể chuyện sinh động Nguyên Ngọc nổi bật với chất sử thi hào hùng và trữ tình đậm đà, còn Phan Tứ bám sát hiện thực đời sống miền Trung Anh Đức lãng mạn và trữ tình, trong khi Nguyễn Quang Sáng kể chuyện dân dã với cốt truyện bất ngờ Nguyễn Khải phát triển phong cách hiện thực nghiêm ngặt, sắc sảo trong việc khám phá vấn đề xã hội, và Nguyễn Thi tổng hợp nhiều sắc thái thẩm mỹ, kết hợp hiện thực cách mạng với chất trữ tình trong cái nhìn tổng hợp về cuộc sống.
Cuộc kháng chiến kéo dài hàng chục năm của dân tộc Việt Nam chính thức kết thúc vào ngày 30/04/1975, nhưng tiếng súng chiến tranh vẫn kéo dài đến cuối năm 1979 và đầu năm 1980 mới ngừng hẳn Đề tài chiến tranh vẫn được các nhà văn quan tâm, mặc dù cảm giác sống trong thời kỳ đó dần phai nhạt Các tác phẩm như "Đất trắng" của Nguyễn Trọng Oánh (1979 - 1984), "Kí sự miền đất lửa" của Vũ Kỳ Lân và Nguyễn Sinh, cùng "Đất nước" (1981) của Hữu Mai, đều phản ánh giá trị của chiến tranh Tuy nhiên, với khoảng cách thời gian, những gì mà các tác giả thể hiện đã có sự thay đổi trong nhận thức.
20 thức và cách nhìn về chiến tranh đã được các tác giả mô tả một cách toàn diện và sâu sắc, không chỉ tập trung vào những thuận lợi mà còn cả những mất mát, hy sinh Họ không chỉ khắc họa chiến hào và mặt trận, mà còn tái hiện các cuộc họp tướng lĩnh tại Bộ chỉ huy và những cuộc đấu tranh trên trường ngoại giao quốc tế Văn học giai đoạn này bắt đầu có dấu hiệu đổi mới về tư duy nghệ thuật và cách thể hiện con người Trong tác phẩm Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh, người đọc cảm nhận được sự dữ dội của cuộc chiến tranh, những thất bại nặng nề và vùng đất trắng hoang vu, thể hiện một cách chân thực mà không né tránh Tương tự, Ký sự miền đất lửa của Xuân Đức phản ánh cuộc sống căng thẳng và những thử thách lớn lao ở mảnh đất tuyến đầu, giúp người đọc hình dung rõ nét về sự khốc liệt của cuộc chiến và niềm kiêu hãnh cùng nỗi thương đau của con người nơi đây.
Trong những năm đầu thập kỷ 80, bên cạnh các tác phẩm viết về chiến tranh, nhiều tác phẩm phản ánh các vấn đề hiện đại trong đời sống xã hội đã ra đời Một trong số đó là tác phẩm "Cù lao tràm" của Nguyễn Mạnh.
Tuấn, Ng-ời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê của Nguyễn Minh
Châu, Sao đổi ngôi của Chu Văn, M-a mùa hạ và Mùa lá rụng trong v-ờn của
Ma Văn Kháng, Thời xa vắng của Lê Lựu, Thời gian của ng-ời và Gặp gỡ
Văn học Việt Nam cuối năm của Nguyễn Khải đã khắc họa nhiều vấn đề của đời sống xã hội, đánh dấu sự xuất hiện của cảm hứng thế sự - đời thường Các tác phẩm như "Mùa lá rụng trong vườn" của Ma Văn Kháng và "Gặp gỡ cuối năm" của Nguyễn Khải phản ánh mối quan hệ giữa con người, gia đình và xã hội, cũng như những biến động của tầng lớp trí thức sau 30/4/1975 Tác phẩm "Đứng trước biển" của Nguyễn Mạnh Tuấn thể hiện cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ chuyển giao, mang đến cái nhìn chân thực và sinh động về đời sống Trong khi đó, "Những bông bần ly" của Dương Thu Hương khám phá nhiều khía cạnh của cuộc sống thường nhật, với hai chủ đề chính là những vấn đề đời sống hàng ngày và các biến cố trọng đại, tạo sự gần gũi và hấp dẫn cho độc giả.
Bối cảnh mới của nền văn học Việt Nam sau chiến tranh
Cuộc chiến tranh thần thánh đã lùi vào dĩ vãng, và văn học, đặc biệt là văn xuôi, đang trải qua sự chuyển biến tích cực từ sau năm 1985 Đánh giá văn học luôn là một thách thức, nhưng văn xuôi Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong bối cảnh đổi mới Kể từ Đại hội VI của Đảng vào năm 1986, đất nước đã bước vào thời kỳ đổi mới, mang lại sự chuyển biến mạnh mẽ cho tất cả các lĩnh vực, trong đó có văn học Nhiều tác giả và tác phẩm mới đã xuất hiện với cách nhìn và thể hiện khác biệt, phản ánh sự phong phú, đa dạng và sâu sắc của cuộc sống xã hội Văn học, như một phần của nhân học, cũng đã hồi sinh, thể hiện sự phức tạp của con người và xã hội Giai đoạn này đánh dấu một nhu cầu phát triển nội tại của văn học, khẳng định rằng văn học cần đổi mới để tiếp cận chân lý một cách lạc quan và tự tin.
Văn học Việt Nam trong 30 năm chiến tranh là nguồn tự hào lớn, với những tác phẩm đầy xúc động đã chạm đến trái tim triệu người lính Những giá trị tinh thần bền vững từ thời kỳ này không chỉ ghi dấu ấn trong tâm hồn người dân mà còn phản ánh sức mạnh của văn hóa và lòng yêu nước.
Văn xuôi cách mạng đã đóng vai trò quan trọng trong hai cuộc kháng chiến, ghi lại những hình ảnh lịch sử đầy gian lao và thử thách của dân tộc Việt Nam Thời kỳ này, văn học không chỉ phản ánh tình cảm dân tộc, ý thức cộng đồng, mà còn thể hiện tinh thần yêu nước và nhân đạo sâu sắc Sự phát triển của văn học giai đoạn 1945-1975 đã tạo ra một công chúng rộng rãi và dân chủ hơn, với một đội ngũ nhà văn đa dạng, được đào tạo qua thực tiễn cách mạng Đặc biệt, hình ảnh nhà văn - chiến sĩ đã trở thành biểu tượng cho sự sáng tạo nghệ thuật đáp ứng nhu cầu của thời đại, khẳng định vai trò của văn học như một chứng nhân của lịch sử hào hùng.
Thể loại văn học giai đoạn 1945 - 1975 phát triển toàn diện, với truyện ngắn và tiểu thuyết ngày càng phong phú và đa dạng về bút pháp, phong cách Truyện ngắn nổi bật nhất trong thời kỳ này, mặc dù chưa có tên tuổi lớn như Nam Cao trước cách mạng, nhưng đã xuất hiện nhiều tác giả truyện ngắn có dấu ấn riêng, như Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn Thi, Anh Đức và Nguyễn Quang.
Vào những năm 60, tiểu thuyết Việt Nam mặc dù gặp nhiều khó khăn trong bối cảnh chiến tranh, nhưng đã có sự phát triển đáng kể với sự ra đời của các bộ tiểu thuyết nhiều tập theo khuynh hướng sử thi Những tác phẩm tiêu biểu như "Sống mãi với thủ đô" của Nguyễn Huy Tưởng, "Vỡ bờ" của Nguyễn Đình Thi, "Bão biển" của Chu Văn, và bộ tiểu thuyết "Cửa biển" với hơn hai nghìn trang đã thể hiện rõ nét sự phát triển của thể loại này trong thời kỳ khó khăn.
Trong văn học giai đoạn 1945 - 1975, tồn tại nhiều phần non yếu, sơ lược và công thức, không đủ sức phản ánh toàn diện những hiện thực phức tạp của chiến tranh Thời kỳ này chưa đi sâu vào mâu thuẫn xã hội và các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày, cũng như số phận và hạnh phúc cá nhân Những hạn chế này phần lớn xuất phát từ điều kiện lịch sử, trình độ nhận thức của thời đại, cùng với các nguyên nhân chủ quan từ công tác quản lý, lý luận và phê bình, cũng như sự hạn chế trong tài năng của người sáng tác.
Mặc dù vậy văn xuôi Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến
Năm 1975 đánh dấu sự kết thúc 30 năm phát triển của nền văn học mới, gắn liền với cách mạng và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ Văn xuôi đã ghi lại những bức tranh chân thực về giai đoạn lịch sử đầy biến động, gian lao và hy sinh nhưng cũng rất hào hùng của dân tộc Sự chi phối của khuynh hướng sử thi đã tạo ra những nhân vật mang đậm dấu ấn của thời đại, thể hiện khát vọng và ý chí của dân tộc, cũng như sức mạnh và phẩm chất của con người Việt Nam.
Nguyên Hồng thể hiện sự sống động của đời sống lao động và chất thơ bi tráng với ảnh hưởng nhân đạo Cơ đốc giáo Tô Hoài nổi bật với nhãn quan phong tục và ngòi bút miêu tả sinh động, trong khi Nguyên Ngọc mang đậm chất sử thi kết hợp với tình cảm sâu lắng Phan Tứ bám sát hiện thực miền Trung, còn Anh Đức lãng mạn với những tình huống lý tưởng Nguyễn Quang Sáng kể chuyện dân dã hấp dẫn với những bất ngờ tự nhiên Nguyễn Khải phát triển phong cách hiện thực nghiêm ngặt, sắc sảo trong việc phân tích vấn đề xã hội, trong khi Nguyễn Thi hòa quyện nhiều sắc thái thẩm mỹ, từ hiện thực cách mạng đến sự trong sáng và hồn nhiên của đời sống hàng ngày.
Mốc son 30/04/1975 đánh dấu sự kết thúc của cuộc kháng chiến ác liệt của dân tộc Việt Nam, nhưng tiếng súng thực sự chỉ ngừng hẳn vào cuối năm 1979, đầu 1980 Đề tài chiến tranh vẫn thu hút sự quan tâm của các nhà văn, mặc dù cảm giác sống cùng thời với những sự kiện đó dần phai nhạt Các tác phẩm như "Đất trắng" của Nguyễn Trọng Oánh (1979 - 1984), "Kí sự miền đất lửa" của Vũ Kỳ Lân và Nguyễn Sinh, cùng "Đất nước" (1981) của Hữu Mai, đều mang giá trị văn học quan trọng Tuy nhiên, với sự lùi lại về thời gian, những gì các tác giả thể hiện đã có sự thay đổi trong nhận thức.
Cuộc chiến tranh được mô tả một cách toàn diện và sâu sắc qua nhiều tác phẩm văn học, không chỉ tập trung vào những thuận lợi mà còn thể hiện rõ những mất mát, hy sinh Các tác giả không ngần ngại phản ánh hiện thực khắc nghiệt, từ chiến hào đến những cuộc họp ở Bộ chỉ huy, và cả những đấu tranh trên trường ngoại giao Văn học giai đoạn này đánh dấu sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật, thể hiện qua tác phẩm "Đất trắng" của Nguyễn Trọng Oánh, nơi người đọc cảm nhận được sự dữ dội và tàn khốc của cuộc chiến, cùng những vùng đất hoang vu Tương tự, "Cửa gió" của Xuân Đức và "Ký sự miền đất lửa" cũng mang đến cái nhìn chân thực về cuộc sống nơi tuyến đầu, với những thử thách lớn lao và niềm kiêu hãnh xen lẫn nỗi thương đau của con người trong bối cảnh chiến tranh.
Trong những năm đầu thập kỷ 80, bên cạnh các tác phẩm viết về chiến tranh, đã xuất hiện nhiều tác phẩm phản ánh những vấn đề đương đại trong đời sống xã hội, điển hình là "Cù lao tràm" của Nguyễn Mạnh.
Tuấn, Ng-ời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê của Nguyễn Minh
Châu, Sao đổi ngôi của Chu Văn, M-a mùa hạ và Mùa lá rụng trong v-ờn của
Ma Văn Kháng, Thời xa vắng của Lê Lựu, Thời gian của ng-ời và Gặp gỡ
Nguyễn Khải trong tác phẩm "Gặp gỡ cuối năm" đã khéo léo phản ánh những vấn đề xã hội và con người trong bối cảnh lịch sử, đặc biệt là tầng lớp trí thức cũ ở Sài Gòn sau 30/4/1975 Cảm hứng thế sự - đời sống mới được thể hiện qua các tác phẩm như "Mùa lá rụng trong vườn" của Ma Văn Kháng, khám phá mối quan hệ giữa con người, gia đình và xã hội Nguyễn Mạnh Tuấn với "Đứng trước biển" thể hiện cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ một cách sinh động và chân thực Dương Thu Hương trong "Những bông bần ly" mang đến cái nhìn sâu sắc về cuộc sống thường nhật, với các chủ đề gần gũi và thời sự, thu hút độc giả bởi sự mới mẻ và quen thuộc.
Văn xuôi thời kỳ đầu những năm 80 đã chứng kiến sự chuyển mình trong tư duy nghệ thuật, từ thể đơn thanh sang thể đa thanh, đa giọng điệu Sự thay đổi này đã thu hẹp khoảng cách giữa tác giả và nhân vật, cũng như giữa nhà văn và bạn đọc, tạo ra một không gian trao đổi trực tiếp về cuộc sống Đặc biệt, sự đa dạng trong giọng điệu và âm sắc này được thể hiện rõ nét qua các tác phẩm của những nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Dương Thu Hương và Ma Văn Kháng.
Vào đầu những năm 80, khi chiến tranh đã hoàn toàn kết thúc tại đất nước chúng ta, nhu cầu phát triển trở thành nền tảng cho sự đổi mới.
Trong văn học nói chung và văn xuôi nói riêng, có thể nhận thấy những dấu hiệu cách tân và đổi mới trong sáng tác của các nhà văn thời kỳ này Những dấu hiệu đổi mới, mặc dù còn manh nha và ít ỏi, đã được thể hiện rõ ràng trên nhiều phương diện như quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người, sự chuyển động của ngôn ngữ, và giọng điệu Đây chính là khúc dạo đầu cho một giai đoạn văn học mới, là sự chuẩn bị công phu và tích cực, tạo đà quan trọng cho công cuộc đổi mới văn học sẽ được ấn định vào tháng 12.
Những tiền đề đổi mới của lý luận và sáng tác văn học
Mốc lịch sử 1975 đánh dấu sự chuyển h-ớng của cách mạng Việt Nam
Sau giải phóng, xã hội Việt Nam trải qua nhiều xáo động, kéo theo sự biến đổi trong văn học như một hình thái ý thức xã hội Mặc dù có những dao động trong văn học vào những năm 80, nhưng xu hướng chính từ sau 1975 vẫn là sự phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là thể loại văn xuôi Các tác giả nổi bật như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Xuân Thiều, và Lê Lựu tiếp tục khẳng định tài năng qua những tác phẩm mới Đồng thời, sự xuất hiện của nhiều cây bút trẻ như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Lập, Tạ Duy Anh, Dương Thu Hương, và Khuất Quang Thụy đã góp phần quan trọng vào sự thăng hoa của văn xuôi Việt Nam từ năm 1975 đến nay.
Từ sau hòa bình đến trước đổi mới, lý luận và sáng tác văn học đã có sự thay đổi đáng kể Việc nhìn nhận lại văn học quá khứ dựa trên việc minh giải các vấn đề lý luận cơ bản như mối quan hệ giữa văn học với hiện thực và chính trị trở nên cấp thiết Đặc biệt, hai bài viết của Hoàng Ngọc Hiến đã gây "chấn động mạnh" trong giới nghiên cứu lý luận phê bình, khi ông xem nhẹ những đóng góp của nền văn học cho cuộc kháng chiến Những tác giả như Chính Hữu, Hà Xuân Trường, Trần Độ, Đông Hoài, Kiều Vân và Hoàng Trinh đã có những phản biện sắc bén đối với quan điểm của Hoàng Ngọc Hiến, thể hiện sự đa dạng trong tư tưởng và phương pháp tiếp cận văn học.
Sau đổi mới, đời sống lý luận văn học trở nên phong phú và sôi động nhờ vào những cuộc tranh luận Lê Ngọc Trà là người khởi xướng cho những cuộc thảo luận kéo dài về vấn đề văn học phản ánh hiện thực qua bài viết "Về vấn đề văn học phản ánh hiện thực" đăng trên tạp chí Văn nghệ, số 20, năm 1998.
Lê Ngọc Trà khẳng định rằng "phản ánh hiện thực chỉ là thuộc tính chứ không phải là nhiệm vụ của văn học", cho rằng văn học không chỉ phản ánh đời sống xã hội mà còn là quá trình nghiền ngẫm về hiện thực Quan điểm này đã gây ra nhiều phản ứng khác nhau; một số người như Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Đăng Hạnh, Nguyễn Huệ Chi và Trương Đăng Dung đồng tình, trong khi những người khác như Phan Cự Đệ, Phương Lựu và Phong lại không đồng ý, nhấn mạnh rằng không nên đồng nhất phản ánh hiện thực với mô tả hay ghi chép, cũng như không thể phủ nhận nhiệm vụ hàng đầu của văn học là phản ánh hiện thực.
Nền tảng lý luận của sự đổi mới trong văn học thời kỳ này xuất phát từ sự tự ý thức của văn học về vai trò của nó trong xã hội, đặc biệt là mối quan hệ giữa văn học và chính trị Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (1987) đã tạo điều kiện cho văn học phát triển với những đặc trưng mới, không còn chỉ đơn thuần là công cụ chính trị mà trở thành một phần quan trọng của cách mạng tư tưởng văn hóa Văn học hiện nay có tác dụng bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn và nhân cách của công dân, đồng thời xây dựng môi trường đạo đức trong sáng Mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị được nhìn nhận một cách sâu sắc hơn, với các vấn đề phức tạp trong cuộc sống được thảo luận công khai, giúp người cầm bút tự tin hơn trong sáng tác.
Trong bối cảnh lịch sử, văn học từng phục vụ chính trị một cách cấp bách, dẫn đến sự đồng nhất giữa văn nghệ và chính trị Tuy nhiên, thời kỳ đổi mới đã thay đổi cách nhìn nhận về mối quan hệ này, với nhiều ý kiến trái chiều từ giới nghiên cứu Các nhà lý luận văn học cho rằng giữa văn học và chính trị có sự thống nhất nhưng không đồng nhất Lê Ngọc Trà nhận định rằng văn nghệ và chính trị là "những người bạn đồng hành trên con đường nhân loại đi tìm hạnh phúc", nhưng cũng chỉ ra sự mâu thuẫn giữa văn nghệ cách mạng và chính trị lạc hậu Mặc dù văn học không từ chối nhiệm vụ tuyên truyền, việc coi văn học chỉ là công cụ tuyên truyền sẽ dẫn đến sự hiểu lầm về bản chất của nghệ thuật.
Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn và thử thách sau chiến tranh, tạo ra những biến đổi lớn lao và sâu sắc, đặc biệt từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới Nền văn học Việt Nam phản ánh tinh thần của cuộc sống đất nước và gắn liền với vận mệnh chung của xã hội.
Trong suốt 28 năm, văn học Việt Nam đã đồng hành cùng dân tộc, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử Kể từ sau năm 1975, văn học đối mặt với nhiều thách thức và đã có những biến đổi sâu rộng Trong 25 năm qua, con đường phát triển của văn học Việt Nam được chia thành hai giai đoạn liên tiếp: giai đoạn đầu là quá trình chuyển tiếp, tìm kiếm con đường đổi mới.
Từ năm 1986, văn học Việt Nam đã trải qua một giai đoạn đổi mới mạnh mẽ và toàn diện Mặc dù vẫn đang trong quá trình phát triển và khó có thể dự đoán tương lai, nhưng nửa thế kỷ vừa qua là thời gian đủ để nhìn nhận và đánh giá những bước tiến của văn học dân tộc.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong việc đánh giá một giai đoạn văn học là xác định những đặc điểm cơ bản của nó Văn học Việt Nam từ sau 1975 đã phát triển trong bối cảnh lịch sử xã hội khác biệt so với thời kỳ chiến tranh, với nhiều biến đổi trong môi trường tinh thần Những yếu tố này đã tác động mạnh mẽ đến xu hướng và đặc điểm phát triển của văn học Trong hơn một phần tư thế kỷ qua, đời sống văn học rất đa dạng và phức tạp, nhưng vẫn có thể nhận thấy những khuynh hướng chủ đạo và đặc điểm cơ bản chi phối mọi mặt của nền văn học Mặc dù đã có nhiều ý kiến từ các nhà nghiên cứu và tác giả về các đặc điểm của văn học thời kỳ đổi mới, vẫn chưa có ai hệ thống hóa một cách rõ ràng những đặc điểm cơ bản của giai đoạn văn xuôi từ sau 1985 Hội thảo khoa học "50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám" đã chỉ ra rằng văn học Việt Nam từ sau tháng 4 năm 1975, đặc biệt từ giữa những năm 80 đến nay, cần được nghiên cứu sâu hơn.
Vào thế kỷ XX, văn học Việt Nam đã trải qua ba xu hướng phát triển chính, phản ánh quá trình hiện đại hóa và hòa nhập vào văn học thế giới Từ đầu thế kỷ XX, nền văn học dân tộc đã có những bước tiến quan trọng, mở ra hướng đi mới cho sự sáng tạo và giao thoa văn hóa Những biến chuyển này không chỉ tạo nên dấu ấn riêng cho văn học Việt Nam mà còn góp phần vào bức tranh chung của văn học toàn cầu.
Từ năm 1945, văn học Việt Nam đã chuyển mình theo hướng hiện đại hoá, đánh dấu sự thay đổi căn bản từ trung đại sang hiện đại Trong ba thập kỷ tiếp theo (1945 - 1975), đại chúng hoá và cách mạng hoá trở thành xu hướng chủ đạo trong văn học cách mạng giữa bối cảnh chiến tranh Sau năm 1975, đặc biệt là từ sau đổi mới, dân chủ hoá đã trở thành xu thế lớn trong xã hội và đời sống tinh thần, ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền văn học Đại hội VI của Đảng (1986) đã kêu gọi đổi mới tư duy, tạo điều kiện cho sự phát triển của xu hướng dân chủ hoá trong văn học Dân chủ hoá đã thấm nhuần vào nhiều cấp độ của đời sống văn học, dẫn đến những biến đổi quan trọng trong quan niệm về vai trò và chức năng của văn học cũng như vị trí của nhà văn Văn học trước đây được xem như vũ khí tư tưởng phục vụ cho cách mạng, nhưng hiện nay, ngoài việc giữ vai trò vũ khí tinh thần, nó còn nhấn mạnh sức mạnh khám phá thực tại và thức tỉnh ý thức về sự thật, đồng thời là phương tiện tự biểu hiện và phát triển tư tưởng.
Văn học không chỉ là tiếng nói chung của dân tộc và thời đại, mà còn phản ánh quan điểm cá nhân của mỗi nghệ sĩ Trong một nền văn học dân chủ, việc thừa nhận tư tưởng và cái nhìn riêng của từng cá nhân là rất quan trọng Nhà văn Nguyễn Khải đã nhận ra rằng trong quá khứ, ông quá tự tin và hăm hở khi thể hiện quan điểm của mình, trong khi hiện tại, ông cẩn trọng hơn, vừa phát biểu vừa suy ngẫm, không dám khẳng định mọi điều mình nói đều đúng.
Cùng với sự thay đổi trong quan niệm về nhà văn, khái niệm về hiện thực trong văn học cũng được mở rộng và trở nên toàn diện hơn Hiện thực không chỉ bao gồm các sự kiện cách mạng và lịch sử, mà còn phản ánh đời sống hàng ngày với những mối quan hệ phức tạp Nó còn thể hiện cuộc sống cá nhân của mỗi con người, với những vấn đề riêng tư, số phận và khát vọng đa dạng, từ hạnh phúc đến bi kịch Tính toàn vẹn của hiện thực đời sống đã mở ra không gian vô tận cho văn học khám phá và sáng tạo.
Xu hướng dân chủ hóa và đổi mới trong văn học sau 1985 không chỉ thể hiện qua các quan niệm mà còn thâm nhập vào nhiều khía cạnh của sáng tác, bao gồm hệ đề tài, kết cấu, mô típ chủ đề, cốt truyện, nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ Trong khi văn học giai đoạn trước thường mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng với những sắc thái hào hùng, tráng lệ hay trữ tình ngọt ngào, thì tính độc thoại là đặc điểm nổi bật của khuynh hướng sử thi Khi văn học chuyển hướng tới tinh thần dân chủ, tính chất đơn thanh sẽ dần nhường chỗ cho sự đa dạng và phong phú hơn trong biểu đạt.
31 tính đa thanh, phức điệu, độc thoại sẽ chuyển sang đối thoại
Cảm hứng phê phán
Cuộc cách mạng kỳ diệu đã giải phóng hàng triệu nông dân, đưa họ vào cuộc tranh đấu và trưởng thành trong bối cảnh lịch sử vĩ đại của dân tộc Tuy nhiên, nhiều nông dân vẫn mang theo di sản văn hóa cũ, điều này không thể phủ nhận Sau hàng ngàn năm bị tước quyền, tâm lý làm thuê đã ăn sâu vào nhân dân Việt Nam, gây ra tình trạng non yếu trong khả năng tổ chức và tư duy kinh tế Chúng ta vẫn chưa khắc phục được thói quen chờ phân việc, làm việc theo lương, và điều này không chỉ do khó khăn đời sống mà còn do nhận thức yếu kém Cần phải nhận thức sâu sắc để cải tạo hiện thực, không phủ nhận những thành quả trí tuệ đã đạt được mà yêu cầu sự khám phá sâu hơn vào những vùng hiện thực chưa được chú ý đúng mức Những vùng hiện thực này hiện nay trở nên sôi động và cấp thiết Mặc dù dân tộc có truyền thống về đấu tranh và cách mạng, nhưng nhận thức về cách mạng xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ ở Việt Nam vẫn còn mới mẻ.
Xã hội hiện nay vẫn còn nhiều sai sót và hạn chế, ảnh hưởng đến sự tiến bộ chung Văn học đã phản ánh tính cách và phẩm chất tinh thần của con người mới trong xã hội, nhưng thường chỉ tập trung vào những vấn đề tức thời, xung đột giữa thiện và ác, mà chưa chú trọng đến căn nguyên sâu xa của các hành vi trong đời sống xã hội Tuy nhiên, thực tế cách mạng đã thúc đẩy con người phải nhìn nhận lại và hiểu sâu hơn về cuộc sống Gần đây, các nhà văn đã chú ý lắng nghe và thể hiện sinh động hơn những vấn đề của cuộc sống trong tác phẩm của mình Chúng ta đang tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng người công nhân vẫn mang trong mình ảnh hưởng của nền sản xuất tiểu nông, phản ánh mối quan hệ phức tạp của một đất nước nông nghiệp Những người nông dân đã trở thành chiến sĩ yêu nước, nhưng vẫn còn mang theo những quan hệ phong kiến và tâm lý làm thuê, điều này ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng xã hội mới Giờ đây, khi cuộc chiến đã thắng lợi, chúng ta cần nhìn nhận lại những quan hệ đời sống để đáp ứng nhu cầu cấp bách của xã hội.
40 thức nó với một tinh thần biện chứng năng động
Văn học sau 1985, đặc biệt là văn xuôi sau đổi mới, phải đối mặt với trách nhiệm lớn lao trong việc giải quyết những vấn đề cấp bách của cuộc sống Để tìm ra hướng đi đúng đắn, các nhà văn cần phải không ngừng đổi mới và tự nhìn nhận lại bản thân Họ cần phê phán những hạn chế của văn học trước đó và tìm cách khắc phục để phù hợp với quá trình đổi mới, từ đó mang lại sức sống mới cho văn học Đây chính là nội dung cốt lõi của cảm hứng phê phán trong văn xuôi sau 1985.
Hiện nay, bên cạnh việc ca ngợi cái mới và cái tốt, nhà văn được khuyến khích viết về những mặt trái của xã hội và chỉ ra các hiện tượng tiêu cực cản trở việc xây dựng chủ nghĩa xã hội Chủ trương này của Đảng phù hợp với tâm trạng quần chúng và nguyện vọng của nhà văn, khi mà nhiều hiện tượng tiêu cực đã bị che giấu trong thời gian chiến tranh Trong thời kỳ hòa bình, những vấn đề này lại bùng nổ, gây bất mãn trong nhân dân Văn học trở thành tiếng nói của xã hội, phản ánh nỗi đau và sự bất công Như nhà văn Nga từng nói, khi còn nhiều điều ác trong cuộc sống, vẫn còn lý do để viết Tác phẩm "Mùa lá rụng trong vườn" nhấn mạnh sự thay đổi giữa mới cũ, tốt xấu là điều tự nhiên, và khuyến khích mọi người nhìn thẳng vào sự thật, phân tích và tìm giải pháp cho những vấn đề tồn tại.
Sau năm 1985, các tác phẩm văn xuôi đã phản ánh sâu sắc nỗi đau và xót xa của con người khi phải đối mặt với cái ác và những thói tục tàn nhẫn trong xã hội Tác giả như Nguyễn Khắc Trường và Tạ Duy Anh đã khắc họa rõ nét sự hiện diện của cái ác và những mối thù truyền kiếp giữa các dòng họ trong các tác phẩm như "Mảnh đất lắm người nhiều ma" và "Vòng trầm luân trần ai" Ngoài ra, các nhà văn cũng đã khai thác sự tha hóa nhân cách trong môi trường trí thức qua tác phẩm "Đám cưới không có giấy giá thú" của Ma Văn Kháng Sự truy đuổi quá khứ để tìm hiểu nguyên nhân của cái ác là một chủ đề quan trọng, bởi chỉ khi đối diện với quá khứ, con người mới có thể tránh được những thảm họa do cái ác gây ra, thực hiện sự trừng phạt cần thiết để sống thanh thản với hiện tại, hướng tới lẽ phải và điều thiện, như trong "Ăn mày dĩ vãng" của Chu Lai.
Với trách nhiệm và lương tâm, những người cầm bút không thể làm ngơ trước cuộc sống của đồng loại và thực trạng xã hội hiện nay.
"Viết về cái ác cũng là một cách thức tỉnh nhân tính" (Lê Minh Khuê)
Với ph-ơng châm "Nhìn thẳng vào sự thật" trong sáng tác văn xuôi sau
Năm 1985, cảm hứng về sự thật trong đời sống liên quan mật thiết đến nhân cách con người, đặc biệt khi đề cập đến cái ác và cái xấu, nhằm khẳng định phẩm chất con người Văn học hiện đại đã xây dựng những nhân vật tự phán xét hành động của mình, tự đối thoại và cảnh tỉnh chính mình, phản ánh những biến động nội tâm trước sức ép của lương tâm và bổn phận Chủ đề "sám hối" trong văn xuôi cho phép nhân vật tự lên án và biện hộ, vừa là bị cáo vừa là chánh án trước tòa án lương tâm Các nhà văn đã công nhận bản ngã như một chất liệu quan trọng trong sáng tạo, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc những khoảnh khắc tự thức tỉnh và hoàn thiện nhân cách, cân bằng giữa lương tâm và trách nhiệm, giữa cá nhân và xã hội.
Trong tác phẩm "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành" của Nguyễn Minh Châu, nhân vật Quỳ thể hiện sự mạnh mẽ và quyết đoán trong hành động, hoàn toàn theo suy nghĩ và cảm xúc của bản thân Giữa bối cảnh chiến tranh, chị tìm kiếm những giá trị tuyệt đối và con người hoàn hảo, nhưng cuộc tìm kiếm này không thành công Chỉ khi nhận thức được phẩm chất nữ tính trong mình, Quỳ mới dám đưa ra quyết định táo bạo: gắn bó với một người chưa quen biết nhằm cứu sống anh ta, người có khả năng thực hiện hoài bão của những người đã hy sinh, bao gồm cả người chị từng yêu Chị nhận ra rằng để cuộc sống tốt đẹp hơn, con người cần có những hành động cao cả, và trong quá trình tìm kiếm thánh nhân, chị đã vô tình trở nên vô tâm với tình cảm của đồng đội Cuối cùng, để đạt được mục tiêu, Quỳ đã phải hành động như một "thánh nhân" để vượt qua nhiều khó khăn.
"Thời xa vắng" của Lê Lựu phê phán mạnh mẽ thói quen bảo thủ và là lời cảnh tỉnh cho xã hội Nhân vật Sài, "đứa con khổ sở" của thói quen gia trưởng và tâm lý nô lệ, thể hiện sự đau khổ do tình yêu thương sai lầm Để thay đổi, cần xây dựng một môi trường nhân đạo, xác lập cơ chế sống công bằng và nhân văn hơn, đáp ứng nhu cầu và phẩm chất mới của thời đại, đồng thời đấu tranh với những hoàn cảnh chưa tốt và các vấn đề tiêu cực trong xã hội.
Nguyễn Huy Thiệp trong các tác phẩm của mình thể hiện một cuộc vật lộn nội tâm, nơi mà con người dần bị tước bỏ những ảo tưởng cần thiết để sống trong một thế giới tẻ nhạt Văn học trước đây thường thiên về cái chung, với những nhân vật rõ ràng tốt xấu, nhưng gần đây đã có sự chuyển biến khi nhiều tác phẩm tập trung vào cá thể và đời sống nội tâm, phản ánh sự phức tạp của con người Cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác không còn rõ ràng mà trở thành sự giằng xé trong từng cá nhân, cho thấy rằng trong cái cao cả vẫn tồn tại sự yếu kém, và trong cái thấp hèn đôi khi lại nảy sinh những giá trị đáng trân trọng.
Trong truyện ngắn "T-ớng về h-u" của Nguyễn Huy Thiệp, các nhân vật được khắc họa với sự đa dạng và phức tạp Nhân vật chính là một vị tướng về hưu, người đã có nhiều cống hiến nhưng lại sống trong cảnh nghèo khó Hành trang của ông sau gần nửa thế kỷ phục vụ đất nước chỉ là một bộ xa lông và vài mét vải bộ đội, phản ánh thực tế cuộc sống đầy gian truân.
Ông sống giữa những khí tranh giành, đối trá và thực dụng, nhưng vẫn toát lên bản chất trong sáng và tấm lòng nhân hậu Nguyên tắc sống của ông, dựa trên nhân sinh quan cộng sản, đã trở thành lẽ sống bất diệt Tuy nhiên, có thể phàn nàn về sự quan liêu của ông trước những biến động trong đời sống hiện nay Ngược lại, cô Thuỷ, một hình mẫu của lối sống thực dụng và sa đoạ, lại rất lãng mạn, coi đồng tiền là cứu cánh và vụ lợi trên mọi phương diện, được xem như một "mốt" sống hiện đại.
Nguyễn Huy Thiệp viết ra nhằm phê phán hiện thực xã hội một cách trần trụi, phản ánh sự cay đắng mà nhiều người phải đối mặt Tác giả khẳng định rằng việc xác định rõ vị trí và thực trạng xã hội là cần thiết để dự báo và giải quyết các vấn đề hiện tại Việc vạch trần những hiện tượng tiêu cực không phải là bôi đen hay bóp méo, mà là chấp nhận thực tế để loại trừ chúng Hành động này, dù đau đớn, còn tốt hơn là để những vấn đề tiếp tục gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Chính chủ trương chống tiêu cực của Đảng đã tác động mạnh mẽ đến sáng tác của nhiều nhà văn sau đổi mới Mặc dù đối mặt với khó khăn và lo âu trong cuộc sống, họ vẫn cho ra đời những tác phẩm phong phú, với nội dung mới mẻ và phong cách viết sáng tạo, khơi gợi nhiều suy nghĩ và bàn luận.
Trong tác phẩm văn học, nhân vật không chỉ là biểu tượng cho khả năng chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật mà còn phản ánh tư tưởng nghệ thuật và lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con người Vì vai trò quan trọng của nhân vật, nhiều nhà văn đã chú trọng đến việc xây dựng nhân vật trong quá trình sáng tác của mình.
"Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân
Cảm hứng chiêm nghiệm quá khứ
Mặc dù cuộc kháng chiến chống Mỹ đã kết thúc hơn một phần thế kỷ, nhưng di sản của nó vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc đến văn xuôi Việt Nam Thời kỳ văn xuôi sau chiến tranh, trước đổi mới, phản ánh sự khủng hoảng xã hội nghiêm trọng và bế tắc trong đường lối phát triển Kinh tế chậm phát triển khiến quần chúng mất niềm tin và rơi vào bi quan trước thực trạng xã hội Chính sách bao cấp kéo dài cũng đã kìm hãm sự phát triển văn hóa và tinh thần của người dân.
Nạn tham ô và tâm lý ỷ lại ngày càng gia tăng trong xã hội, khiến nhiều tác phẩm viết về chiến tranh, mặc dù sâu sắc, không thu hút được sự chú ý Xuất phát từ nhu cầu tìm hiểu nguyên nhân của sự yếu kém và xuống cấp, văn xuôi, đặc biệt là truyện ngắn và tiểu thuyết, đã cho ra đời nhiều tác phẩm phản ánh thực tế này, thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội.
Gần nh- cùng một lúc với những sự kiện lịch sử, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh giải phóng Miền Nam, thống nhất đất n-ớc vào tháng t- năm
1975, nhà văn Nguyễn Khải đặt bút viết kí sự Tháng ba ở Tây Nguyên, còn
Nguyễn Minh Châu bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết "Miền cháy," phản ánh những ngày chuyển tiếp từ chiến tranh sang hòa bình ở vùng bị tàn phá nặng nề Dòng văn học về chiến tranh giải phóng vẫn không ngừng phát triển trong suốt mấy chục năm qua, được khích lệ bởi cuộc toàn thắng của dân tộc và đạt được nhiều thành tựu mới Trong những năm chống Mỹ, văn học, đặc biệt là văn xuôi, đã nỗ lực bám sát cuộc sống chiến đấu, với các nhà văn muốn tham gia vào những sự kiện lớn của dân tộc qua tác phẩm của mình Đây là kết quả của ý thức trách nhiệm, trở thành thói quen làm việc của nhiều người cầm bút Các tác phẩm ra đời ngay sau chiến tranh, như hai ví dụ tiêu biểu được đề cập, cũng được viết theo cách tiếp cận này.
Cách làm việc này có những điểm mạnh và hạn chế, nhưng cần nhận thức rằng nó đã góp phần quan trọng vào sự ra đời của nhiều tác phẩm văn học nổi bật trong những năm chiến tranh Những tác phẩm này không chỉ giàu tính thời sự mà còn phản ánh kịp thời các vấn đề cấp bách của cuộc chiến đấu, tạo sức động viên và cổ vũ lớn lao cho người dân.
Sau đại thắng 1975, nhìn lại những gì đã đạt đ-ợc của văn học Việt Nam trong những năm chiến tranh, cùng với niềm tự hào rất chính đáng,
Cuộc chiến tranh của dân tộc là một chủ đề vô cùng phức tạp, và những gì được ghi chép trên sách chỉ là một phần nhỏ trong tổng thể Mỗi tác giả chỉ có thể chia sẻ một phần trải nghiệm và hiểu biết của mình, nhưng không thể đại diện cho toàn bộ chiều sâu của cuộc chiến Sau chiến tranh, nhu cầu về việc tổng hợp và làm phong phú thêm các hiểu biết cá nhân trở nên cần thiết, nhằm tạo ra một cái nhìn toàn diện hơn Việc tái hiện lịch sử không chỉ đơn thuần là ghi lại sự kiện, mà còn phải liên kết với những yêu cầu và thực tiễn của cuộc sống hiện tại, để hiểu rõ hơn về số phận con người trong bối cảnh lịch sử.
Sau năm 1975, trong bối cảnh hòa bình và phong trào đổi mới, các nhà văn đã có cơ hội suy ngẫm lại về công việc sáng tác của mình, nhất là về chiến tranh và lịch sử Nhu cầu ghi chép thực tế không còn cấp bách như trong những năm chiến tranh, khi cuộc sống bộc lộ nhiều khía cạnh phức tạp mà những lời giải thích đơn giản không còn đủ sức thuyết phục Các tác giả nhận ra rằng sức mạnh của văn học không chỉ nằm ở việc phản ánh thực tế mà còn phụ thuộc vào sự chiêm nghiệm và chiều sâu tư tưởng, tình cảm mà họ gửi gắm trong tác phẩm Từ đó, nhiều tác phẩm ra đời không chỉ ghi chép tính cách và sự kiện mà còn soi sáng chúng từ nhiều góc độ khác nhau.
Từ góc độ thể loại, văn xuôi viết về chiến tranh đã phát triển mạnh mẽ ngay sau cuộc chiến, với sự xuất hiện của nhiều tác phẩm như kí sự của nhà văn, hồi kí của các tướng lĩnh và kỉ niệm của người lính Nhiều tác phẩm kí sự tập trung vào giai đoạn kết thúc của cuộc chiến tranh Điển hình là Nguyễn Khải với tác phẩm "Tháng ba ở Tây Nguyên" và Nam Hà với "Mặt trận đông bắc".
Sài Gòn, Xuân Thiều, Bắc Hải Vân và Hồ Phương vào Xuân 1975 đã phản ánh các mảng khác nhau của cuộc tổng tiến công chiến lược qua hoạt động của các đơn vị trên từng địa bàn và hướng tiến công Đại thắng mùa xuân của Đại tướng Văn Tiến Dũng mang đến cái nhìn tổng quát về cuộc tổng công kích, đồng thời cho thấy xu hướng tư liệu lịch sử về đề tài chiến tranh đang dần hình thành.
Các tập ký sự - lịch sử của các đơn vị quân đội từ s- đoàn, binh đoàn đến các binh chủng và địa phương trên toàn quốc là tài liệu quý giá cho những ai muốn tìm hiểu sâu về lịch sử cuộc chiến tranh giải phóng Bên cạnh đó, thông tin về chiến tranh từ phía kẻ thù cũng đang được khai thác, tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở những nét sơ sài và hình ảnh biếm họa của một số tướng lĩnh nguỵ.
Cuốn "Kí sự miền đất lửa" của Vũ Kì Lân và Nguyễn Sinh không chỉ phản ánh trung thực hiện thực khốc liệt tại Vĩnh Linh mà còn đưa ra phương hướng làm việc có ý nghĩa, phối hợp giữa quan sát của phóng viên mặt trận và hiểu biết của cán bộ chỉ huy Đây là cách xây dựng tác phẩm có ưu thế, trình bày chiến tranh một cách toàn cục nhưng vẫn cụ thể Trong những năm chiến tranh, tiểu thuyết đã phát triển phong phú với nhiều bộ tiểu thuyết đa tập, như "Vùng trời" của Hữu Mai, "Những tầm cao" của Hồ Phương, và "Dòng sông phẳng lặng" của Tô Nhuận Vỹ Các tập cuối của những bộ sách này, viết sau chiến tranh, thể hiện sự đổi mới nhưng vẫn giữ được hình thức đã được định hình từ trước.
Những tác phẩm văn học được sáng tác ngay sau chiến tranh thường thu hút sự chú ý lớn, nhờ vào những ấn tượng mạnh mẽ và những trải nghiệm sâu sắc của tác giả.
Tiểu thuyết "Miền cháy" của Nguyễn Minh Châu phản ánh những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống và con người trong bối cảnh năm 75 Mặc dù nội dung chưa hoàn toàn được chín muồi, nhưng tác phẩm vẫn mang lại sự sinh động và kịp thời, giúp người đọc cảm nhận rõ nét những trải nghiệm và cảm xúc của nhân vật trong thời kỳ lịch sử đầy biến động.
Sau năm 75 lịch sử, nhiều tác giả như Nguyễn Trí Huân và Khuất Quang Thụy đã tìm về những trải nghiệm chiến tranh qua các tác phẩm tiểu thuyết Họ khai thác những "vốn sống" quý báu được chắt lọc từ ký ức, mang đến cái nhìn rõ ràng và cô đọng về hiện thực chiến tranh Những tác phẩm này thường tập trung vào những giai đoạn trước của cuộc chiến, đặc biệt là những năm tháng quyết liệt nhất, như trong tác phẩm "Sao mai".
Các tác phẩm như "Dũng Hà" của Hồ Phương, "Đất miền Đông" của Trọng Oánh, "Nắng đồng bằng" của Chu Lai, "Họ cùng thời với những ai" và "Thung lũng thử thách" của Thái Bá Lợi, cùng "Người lính mặc thường phục" của Mai Ngữ, đã khắc họa rõ nét cuộc chiến tranh với những vùng đất nóng bỏng, nơi diễn ra các cuộc chiến giành giật giữa ta và địch Những trang tiểu thuyết này không chỉ phản ánh các chiến dịch lớn mà còn nêu bật những mặt trận thầm lặng nhưng quyết liệt trong cuộc chiến.
Truyện ngắn đã có sự khởi sắc đáng chú ý sau những năm đầu sau chiến tranh, với những cuộc thi truyện ngắn của báo Văn nghệ và tạp chí Văn nghệ Quân đội cho thấy sự tăng trưởng về cả số lượng và chất lượng Các tác phẩm hiện nay tập trung vào những khoảnh khắc thường nhật của chiến tranh, khai thác sâu tâm lý nhân vật, cũng như những cảnh ngộ và xung đột nội tâm Đồng thời, truyện ngắn cũng thể hiện mối tương quan giữa quá khứ và hiện tại, làm nổi bật các vấn đề đạo đức và nhân sinh.
Sự biến đổi của ý thức nghệ thuật
Sự biến đổi của ý thức nghệ thuật trong văn học Việt Nam từ quan niệm giáo dục tuyên truyền sang hoạt động sáng tạo đã tạo ra những vấn đề thi pháp mới Biến chuyển này rõ nét nhất vào những năm 30 của thế kỷ XX, thể hiện qua các tác phẩm văn học hiện thực và trong sáng tác của các tác giả như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Thạch Lam, và Nguyên Hồng Văn học giờ đây không chỉ là công cụ truyền tải thông điệp mà còn là phương tiện khám phá và tác động đến cuộc sống, mang lại niềm thích thú cho con người.
Vũ Trọng Phụng, giống như một số nhà văn khác, đã sáng tác những tác phẩm khác biệt so với nguyên tắc "Văn dĩ tải đạo" truyền thống của Hồ Biểu Chánh và tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh, Khái Hưng Các tiểu thuyết luận đề này vẫn giữ quan niệm coi văn học như một hình thức giáo huấn đạo đức và phương tiện cải tạo xã hội Trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân, Nam Cao, Thạch Lam, Nguyên Hồng, và Vũ Trọng Phụng, tác giả chủ yếu kể lại những câu chuyện về cuộc sống, phản ánh hiện thực mà họ chứng kiến, từ đó giúp độc giả hiểu thêm về con người và những cảnh sống xung quanh Ý tưởng giáo huấn trong các tác phẩm này không được thể hiện một cách rõ nét.
Vào thời điểm đó, sự chuyển biến trong văn học chưa được nhận thức rõ ràng về lý luận, và các biện chứng cho cách viết mới vẫn chưa được hình thành Các nhà văn kiên trì phát triển một lối viết mang tính thời sự, phản ánh những vấn đề xã hội và đạo đức hiện tại Họ không ngừng chạy đua với cuộc sống, luôn hướng tới những thách thức của hôm nay và tương lai gần Mỗi tác phẩm đều mang đến những giải thích kịp thời, khơi gợi suy nghĩ về những vấn đề quan trọng mà xã hội đang đối mặt.
Tác phẩm văn học thời kỳ sau đổi mới thể hiện tính thời sự và tính luận đề rõ ràng, với nhà văn chủ động bày tỏ quan điểm của mình mà không chờ đợi sự "chính" từ nhân vật Họ tự đặt mình vào vai trò người hoạt động xã hội, chấp nhận những khó khăn và trách nhiệm mà không phải ai cũng sẵn sàng đảm nhận Để làm được điều này, người viết cần kiên định trong tư tưởng và niềm tin, đồng thời phải có tầm nhìn xa để tránh lệch lạc khi thảo luận về các vấn đề tư tưởng và đời sống hiện tại Họ cũng cần có sự nhạy cảm không chỉ của nghệ sĩ mà còn cả nhạy cảm chính trị.
Sự biến đổi trong ý thức nghệ thuật đã dẫn đến việc các nhân vật trong tác phẩm thời kỳ đổi mới thường được coi là những bức vẽ chưa hoàn thiện, với những phác thảo sắc nét nhưng chưa được hoàn mỹ Điều này không phải do thiếu thời gian, mà phản ánh quan niệm của người viết, khi mà các tác giả tập trung vào việc đưa ra vấn đề hơn là sự hoàn chỉnh của cốt truyện Họ không chú trọng đến việc "nhân vật sai khiến nhà văn", mà thường để nhân vật phục vụ cho mục đích bày tỏ ý tưởng.
Sau năm 1985, các nhà văn thường đứng ở vị trí cao hơn để phân tích và miêu tả nhân vật của mình như một nhà khoa học nghiên cứu đối tượng, với tư duy nhạy bén và sắc lạnh Mặc dù có sự nhất quán trong khuynh hướng sáng tác, họ luôn tìm cách đổi mới cách thể hiện và mở rộng tầm nhìn Những lý giải của họ không phải lúc nào cũng chính xác và thuyết phục, nhưng vẫn thể hiện ý thức trách nhiệm và sự dũng cảm của ngòi bút Đây là những biến đổi đặc trưng trong ý thức sáng tạo của các tác giả trong giai đoạn này.
Cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc ta đã kết thúc với thắng lợi rực rỡ, nhưng văn học, đặc biệt là tiểu thuyết, mới chỉ bắt đầu ghi lại hành trình này Những giá trị đạt được trong tiểu thuyết về cuộc chiến tranh không hề ít ỏi; nó đã phản ánh kịp thời và động viên tinh thần đấu tranh của nhân dân Trên bức tranh rộng lớn của cuộc chiến, tiểu thuyết đã phác họa những mảng hiện thực tiêu biểu từ tiền tuyến miền Nam đến miền Bắc và đường Trường Sơn lịch sử, thể hiện những thử thách và hy sinh lớn lao của nhiều thế hệ Chiến tranh cách mạng đã sàng lọc và đào tạo nhân cách con người, với tiểu thuyết ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng như một lối sống cao đẹp Không chỉ ngợi ca, tiểu thuyết còn thể hiện sự biến đổi và trưởng thành của con người qua những hy sinh và mất mát, đồng thời khẳng định giá trị phẩm cách con người Nhiều nhân vật tiểu thuyết đã trở thành hình ảnh đẹp của con người Việt Nam trong những năm tháng khó khăn, được độc giả yêu mến và ghi nhận.
Mặc dù đã có những thành tựu đáng ghi nhận, nhưng nhiều vấn đề quan trọng vẫn là điểm yếu trong tiểu thuyết và truyện ngắn Một trong những điểm yếu này là sự phản ánh cuộc sống phong phú và mãnh liệt của dân tộc còn chưa đầy đủ và nghèo nàn trên trang sách Nhận định của Đảng tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ tư (1968) vẫn còn phù hợp với tình hình sáng tác hiện nay: "Cuộc sống của nhân dân ta vô cùng anh dũng và phong phú, nhưng việc phản ánh cuộc sống vào văn học, nghệ thuật của ta còn sơ lược".
Nhiều người cho rằng sự hạn chế về vốn sống của nhà văn là nguyên nhân chính dẫn đến chất lượng tiểu thuyết chưa cao Tiểu thuyết yêu cầu tác giả không chỉ có kiến thức sâu rộng trong lĩnh vực mô tả mà còn phải có khả năng phân tích tâm lý đa dạng của nhân vật Tuy nhiên, nhiều cây bút hiện nay chỉ mới tiếp cận thể loại này qua một vài tác phẩm đầu tay, hoặc chỉ viết vội vàng sau những chuyến đi ngắn Điều này dễ dẫn đến tác phẩm thiếu chiều sâu và sự chân thật Dù vậy, cũng cần công nhận rằng hiện nay có nhiều nhà văn có năng lực và tài năng, với kỹ thuật mô tả nhân vật và cảnh vật đã có những tiến bộ đáng kể Thêm vào đó, áp lực viết nhanh và tình hình phức tạp của cuộc sống hiện tại cũng khiến nhiều tác giả không thể diễn đạt hết những điều cần nói Một số ý kiến cho rằng trình độ nghệ thuật của nhà văn còn yếu, với khả năng khắc họa tính cách và mô tả sự chuyển biến của nhân vật chưa đạt yêu cầu.
Mặc dù những lý do đã nêu đều có tính chính xác, nhưng vẫn chưa phải là nguyên nhân chủ yếu Có thể, nguồn gốc của bệnh sơ l-ợc còn nằm ở một khía cạnh khác.
Hạn chế trong tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của người viết có thể dẫn đến những trang sách nhiều tiếng nổ đạn bom nhưng thiếu tính chiến đấu, hay có nhiều sự việc mà vẫn thiếu tính hiện thực Những tác phẩm này giống như "cây cảnh chỉ cốt bày trong mấy ngày Tết", với nhiều hoa lá nhưng yểu mệnh, vì tư tưởng và vấn đề được đề cập hời hợt và nông cạn Độc giả chỉ thấy sự khác biệt về đề tài, trong khi chủ đề lại na ná nhau, không thoát ra khỏi một số nguyên lý chung Những trang sách này tự giới hạn ở mục đích minh hoạ mà không nhằm phát hiện hay lý giải những vấn đề đáng quan tâm trong đời sống.
Một điểm mạnh của văn xuôi giai đoạn này là chất trữ tình trong sáng, tuy nhiên, điều này đôi khi trở thành hạn chế Niềm tin và phẩm chất tốt đẹp có thể bị biến thành sự "thi vị hoá" ngọt ngào, khiến cho trang sách trở nên nhẹ bổng và ru ngủ người đọc vào một thế giới âm đẹp, tĩnh lặng Sự khác biệt rõ rệt giữa niềm tin sâu sắc, khoa học và cái lạc quan giả tạo hời hợt thường là dấu hiệu của sự thiếu hụt niềm tin.
Không chỉ có nỗi đau và mất mát mới phản ánh hiện thực, mà những chiến thắng và kỳ tích anh hùng cũng cần được ghi nhận Mỗi chiến công của chúng ta là kết quả của sự nỗ lực và hy sinh của từng cá nhân, thể hiện qua từng suy nghĩ và hành động Như Nguyễn Khải đã chỉ ra trong một cuốn sách gần đây, việc viết về chiến thắng không chỉ đơn thuần là ca ngợi kết quả, mà còn cần tập trung vào quá trình chuẩn bị đã dẫn đến thành công đó.
Trong chặng đường văn xuôi những năm kháng chiến, có nhiều vấn đề đáng chú ý như đội ngũ người viết và qui luật phát triển của họ, cũng như mối quan hệ giữa truyền thống và cách tân Tất cả những vấn đề này đều xuất phát từ ý thức nghệ thuật của các nhà văn trong giai đoạn này.
91 này Đó là một nền văn học phục vụ quần chúng và cổ vũ chiến đấu
Văn xuôi từng có thời kỳ hoàng kim, khi tiểu thuyết chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền văn học Tuy nhiên, hiện nay tại phương Tây, có nhiều tiếng than phiền về "khủng hoảng" và "cáo chung" của tiểu thuyết Số phận của thể loại này đang trở thành chủ đề tranh luận nghiêm túc giữa các nhà văn và triết học Nhiều khuynh hướng và trường phái mới đã xuất hiện, khám phá những hình thức sáng tạo độc đáo, từ việc xáo trộn không gian và thời gian đến việc "giết" nhân vật, chỉ để lại những "đồ vật" trong tác phẩm.
Nh-ng chính trong những năm mà ở Việt Nam, hàng triệu tấn bom đạn
Giọng điệu trần thuật
Giọng điệu là yếu tố cấu thành phong cách sáng tạo của nhà văn Trong
Giọng điệu trong văn học được định nghĩa là thái độ, tình cảm và lập trường của nhà văn đối với hiện tượng miêu tả, thể hiện qua cách sử dụng ngôn ngữ, từ ngữ và sắc thái cảm xúc Đây là yếu tố quan trọng giúp nhận diện hình tượng tác giả trong tác phẩm Giọng điệu không chỉ đơn thuần là âm thanh mà còn chứa đựng nội dung tình cảm và thái độ ứng xử với thực tại Theo M.Khrapchencô, "hệ số tình cảm của lời văn được biểu hiện trước hết ở giọng điệu cơ bản".
Văn học giai đoạn 1945 - 1975, đặc biệt là các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, thường mang giọng điệu ngợi ca tự hào, phản ánh cảm hứng sử thi về đề tài chiến tranh Giọng điệu này không chỉ thể hiện nỗi xúc động trước những chiến công của quân và dân ta, mà còn nhằm động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân dân Những sáng tác của ông thường xuyên lồng ghép chất trữ tình ấm áp, làm nổi bật phẩm chất anh hùng của người lính, như trong tác phẩm "Dấu chân người lính", nơi ông miêu tả cuộc hành quân gian khổ với thiên nhiên và sự tàn phá của địch Mục đích chính của tác giả là tôn vinh những phẩm chất cao đẹp của người lính hơn là chỉ đơn thuần truyền tải cảm giác chịu đựng, hy sinh.
Văn học là một loại hình nghệ thuật ngôn từ, trong đó ngôn ngữ đóng vai trò là chất liệu cơ bản Giọng điệu, với ý nghĩa thẩm mỹ, giúp nhà văn tạo ra hình tượng văn học và phản ánh thế giới tư tưởng của con người Mỗi thể loại văn học mang những sắc thái giọng điệu khác nhau: giọng điệu sử thi truyền thống thường dài dòng và giáo huấn, trong khi giọng điệu tiểu thuyết gần gũi với đời sống và đa thanh Từ năm 1945 đến 1975, giọng điệu trong truyện ngắn chủ yếu là đơn thanh, thể hiện sự nhất quán trong cách diễn đạt.
Từ sau 1975, truyện ngắn đã chuyển biến từ ngôn ngữ một giọng sang ngôn ngữ đối thoại với nhiều giọng khác nhau Sự tác động và hòa trộn giữa ngôn ngữ của tác giả, người kể chuyện và nhân vật tạo nên sự phong phú cho tác phẩm Ngôn ngữ truyện ngắn có những đặc trưng riêng so với tiểu thuyết, yêu cầu sự hàm súc và cô đọng do khuôn khổ thể loại Điều này khiến cho ngôn ngữ trong truyện ngắn phải tiết kiệm lời, tạo nên sự súc tích và giọng điệu ấn tượng cho mỗi tác phẩm.
Trong hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, truyện ngắn nổi bật với nghệ thuật trần thuật, là yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo của tác giả Giọng điệu người kể chuyện và ngôn ngữ trần thuật tạo nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm Các nhà văn chú trọng đến việc truyền đạt giọng điệu cá nhân, thường sử dụng hình thức kể chuyện ở ngôi thứ nhất với nhân vật người kể chuyện xưng "tôi" Nhân vật này đóng vai trò quyết định trong cấu trúc văn bản, trong khi những nhân vật khác chỉ được miêu tả từ góc nhìn của người kể.
Trong truyện ngắn, nhà văn thường sử dụng cách kể ở ngôi thứ nhất, giao nhiệm vụ trần thuật cho nhân vật hoặc để người kể chuyện đứng ngoài quá trình diễn biến Sự kết hợp này làm cho giọng điệu và ngôn ngữ của người kể trở nên phong phú và hấp dẫn hơn Thay vì sử dụng giọng điệu quyền uy hay trang nghiêm, người kể chuyện thường dùng ngôn ngữ đời thường, phản ánh lời ăn tiếng nói của người bình thường.
Sau năm 1985, đặc biệt là từ khi phong trào đổi mới trong văn học diễn ra, quan niệm về hiện thực con người đã có sự thay đổi rõ rệt, dẫn đến những biến chuyển trong đề tài, kết cấu và ngôn ngữ Các nhà văn hiện đại như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, và Lê Minh Khuê đã chọn cách tiếp cận bình đẳng với nhân vật, cho phép họ thể hiện tiếng nói riêng Sự giao thoa giữa giọng tác giả và giọng nhân vật tạo nên một bức tranh đa sắc trong văn xuôi, với nhiều âm điệu khác nhau, từ mỉa mai đến triết lý, từ đanh thép đến thâm trầm Họ đã xây dựng một lối viết tiểu thuyết hiện đại và đa thanh, phản ánh sự phong phú của bối cảnh và cảm xúc trong việc lý giải các hiện tượng và khía cạnh của đối tượng sáng tác.
Quan niệm về hiện thực và con người đã có những thay đổi đáng kể, kéo theo sự thay đổi trong các biện pháp nghệ thuật, tư tưởng và thẩm mỹ Điều này mang đến cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về hiện thực chưa được khai thác, giúp khám phá mối quan hệ giữa ý thức và vô thức, cũng như giữa nội dung và hình thức Trước đây, con người, đặc biệt là những người cách mạng, được coi là bất khả chiến bại, nhưng hiện tại, những nhân vật này đang được nhìn nhận một cách khác.
Trong nhiều tác phẩm, chúng ta thấy sự pha trộn giữa người tốt và kẻ xấu, tạo nên những nghịch lý trong nhân cách con người, khi họ vừa phạm sai lầm lại vừa biết ăn năn, đau khổ Sự đa dạng trong giọng điệu này đánh dấu một thời kỳ mới cho văn học Việt Nam và mở ra giai đoạn sáng tác mới cho các tác giả Bên cạnh tính đa thanh của hình tượng và sự phong phú của chủ đề, giọng điệu mới trong tác phẩm không mang tính răn dạy mà chỉ đơn giản là thuật lại, có vẻ "không nghiêm túc" và đôi khi hài hước Tính chất "nửa đùa nửa thật" này không chỉ làm tăng sự phong phú và hấp dẫn của giọng kể mà còn làm mờ đi những đối lập triệt để về nghĩa và tư tưởng, từ đó làm giàu thêm nội dung tinh thần của tác phẩm.
Cấu trúc hình tượng và sự thay đổi giọng điệu trong văn học hiện đại chi phối mọi yếu tố của tác phẩm, tạo ra một cách kể chuyện mới mẻ Cách kể này phản ánh quan niệm văn học như một hoạt động sáng tạo, thể hiện mối quan hệ giữa con người và thế giới Một đặc điểm nổi bật trong văn xuôi sau đổi mới là sự phong phú trong lời thoại của nhân vật, cho thấy họ không chỉ suy nghĩ và hành động mà còn giao tiếp một cách sinh động Ngôn ngữ đối thoại đã được cá thể hóa sâu sắc, phản ánh dấu vết thời đại và tạo ra nhiều lớp từ mới, bổ sung sắc thái biểu cảm Giọng điệu và đối thoại làm cho các trạng thái tâm lý trở nên sâu sắc và cụ thể hơn, mang lại sự sống động cho hiện thực cuộc sống Trong truyện ngắn của một số tác giả lớn, giọng điệu trần thuật chiếm ưu thế, thể hiện sự linh hoạt, sắc gọn và bộc lộ cá tính mạnh mẽ.
Sau đổi mới, các tác giả đã phát triển câu chuyện theo logic nội tại, thể hiện tính cách nhân vật qua ngôn ngữ độc đáo và riêng biệt Khác với giai đoạn 1945 - 1975, văn học sau 1985 chuyển sang giọng điệu đời thường, chú trọng đến con người trong mối quan hệ xã hội, từ đó giảm bớt sự trau chuốt và trở nên gần gũi, thô mộc hơn.
Trong tác phẩm "T-ớng về h-u" của Nguyễn Huy Thiệp, ngôn ngữ được sử dụng một cách thẳng thắn, đôi khi thô lỗ, nhưng lại rất súc tích và không thừa một chữ nào Tác phẩm này phản ánh sự chán ngán của độc giả đối với những loại văn học giáo huấn về đạo đức, và thay vào đó, nó mang đến một lối viết hiện thực mới mẻ, chỉ tập trung vào việc nêu lên sự vật và sự kiện mà không cần phải suy diễn ý đồ ngầm.
Trong sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng, ông đã dành một phần lớn cho đề tài miền núi, thể hiện giọng điệu ngợi ca tự hào Cảm hứng sử thi trong các tác phẩm như "Vùng biên ải" và "Đồng bạc trắng hoa xoè" đã tạo nên một bút pháp lãng mạn, bay bổng, thể hiện sự hòa hợp mạnh mẽ giữa ngòi bút của ông.
Văn Kháng thể hiện lòng mong muốn thay đổi tích cực cho miền núi qua niềm tự hào về những bước đầu thắng lợi của cách mạng ở Pha Linh Trấn nhỏ biên giới này, dù bề ngoài bình dị, vẫn chứa đựng những biến động sâu xa Hình ảnh ngọn cờ đỏ sao vàng bay nhẹ nhàng như cánh chim lớn trên bầu trời xanh, biểu trưng cho sức mạnh mới mẻ có khả năng làm chuyển biến những gốc rễ lâu đời của cuộc sống nơi đây.
Giọng điệu ngợi ca và cảm hứng sử thi trong các tác phẩm của Ma Văn Kháng chủ yếu thể hiện qua đề tài miền núi Tuy nhiên, khi trở lại miền xuôi, sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực và con người đã dẫn đến những biến chuyển trong tư tưởng thẩm mỹ và biện pháp nghệ thuật, tạo ra một giọng điệu mới trong sáng tác của ông.
Không gian, thời gian nghệ thuật
Không gian và thời gian nghệ thuật là hai phạm trù quan trọng trong thi pháp học, thể hiện bản chất sáng tạo của nghệ sĩ Chúng đóng vai trò là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, vì không có hình tượng nghệ thuật nào không gắn liền với không gian và thời gian cụ thể Vậy, không gian và thời gian nghệ thuật thực sự là gì?
Trong triết học, thời gian được xem là hình thức tồn tại của vật chất, không có vật chất nào tồn tại ngoài thời gian Nghệ thuật, như một dạng tồn tại đặc thù, cũng có thời gian riêng Tác phẩm nghệ thuật, từ thơ đến phim, đều cần thời gian để thưởng thức, và không thể tồn tại nếu thiếu thời gian vật chất Tuy nhiên, thời gian khách quan chưa hẳn là thời gian nghệ thuật, vì qua tác phẩm, người xem có thể trải qua nhiều trải nghiệm khác nhau, từ quá khứ đến tương lai Thời gian nghệ thuật là cảm nhận mà người thưởng thức trải nghiệm qua độ dài, nhịp độ, và chiều hướng thời gian của tác phẩm, tạo ra những cảm xúc như hồi hộp, thanh thản hay đắm chìm vào kỷ niệm.
Thời gian nghệ thuật không phải là một hiện tượng tâm lý cá nhân của người đọc mà là một sáng tạo khách quan trong tác phẩm Nó không xuất hiện đồng nhất với cảm nhận của từng người, mà có thể tạo ra hiệu ứng hồi hộp chờ đợi cho tất cả mọi người Khi cảm thụ tác phẩm, thời gian nghệ thuật sẽ luôn hiện hữu, bất kể ai hay lúc nào.
Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, không thể tách rời khỏi hình tượng nghệ thuật Mỗi nhân vật đều gắn liền với một bối cảnh nhất định, và người kể chuyện hay nhà thơ cũng nhìn nhận sự vật từ một góc độ cụ thể Đây là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ, phản ánh con người và quan niệm về cuộc sống, không chỉ đơn thuần là không gian vật chất Trong tác phẩm, sự miêu tả như con đường, căn nhà hay dòng sông chỉ trở thành không gian nghệ thuật khi chúng thể hiện mô hình thế giới của con người.
Không gian nghệ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với thời gian nghệ thuật Khi nhà văn tập trung vào việc phác hoạ không gian, thời gian có thể bị ngừng lại hoặc chậm lại Người ta có thể không gian hoá thời gian thông qua việc miêu tả các sự kiện và biến đổi theo trật tự liên tưởng, tạo ra sự kết nối giữa các yếu tố.
Sau năm 1985, văn xuôi Việt Nam đã có sự chuyển mình rõ rệt nhờ vào phương thức phản ánh mới, mang đến những cách biểu hiện độc đáo về không gian và thời gian nghệ thuật, khác biệt so với giai đoạn trước.
Văn học kháng chiến phản ánh sâu sắc đời sống xã hội và lịch sử, đồng thời thể hiện cuộc sống của quần chúng nhân dân Những biến đổi này đã dẫn đến sự thay đổi đáng kể trong việc xây dựng không gian và thời gian cho tác phẩm văn học Thi pháp thể loại của văn xuôi kháng chiến tập trung vào việc khắc họa con người trong bối cảnh cụ thể, tạo nên sự gắn kết giữa nhân vật và môi trường xung quanh.
Con người trong văn học cách mạng không chỉ là những cá thể riêng lẻ mà là những phần tử gắn bó chặt chẽ với cộng đồng và lịch sử Họ sống trong nhịp điệu chung của dân tộc, tìm thấy sức mạnh từ sự đoàn kết và tình yêu quê hương Nhân vật trong các tác phẩm như ông lão Hai hay những anh bộ đội trong Xung kích thể hiện rõ mối liên hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa tình yêu gia đình và nghĩa vụ với đất nước Những câu chuyện về nỗi đau và sự trưởng thành trong đấu tranh, như của L-ợng và Chi hay Mỵ và A Phủ, phản ánh số phận chung của quần chúng lao động Cuộc sống của họ chủ yếu xoay quanh những biến cố lịch sử, ít khi nhìn lại quá khứ đau thương dưới ách thống trị Khi hòa nhập vào đời sống cộng đồng, con người không chỉ vượt ra khỏi không gian chật hẹp mà còn mở rộng tầm nhìn về một tương lai tốt đẹp hơn.
Trong thời kỳ kháng chiến, nhiều thanh niên đã rời bỏ ruộng vườn để tham gia dân công tiếp vận và phá đường cản của giặc Những người trai làng hăng hái gia nhập Vệ quốc quân không chỉ mở rộng tầm mắt mà còn làm phong phú tâm hồn và tình cảm của họ Không gian đặc trưng trong văn học thời kỳ này là những con đường, mặt trận và chiến khu, nơi mà dù câu chuyện diễn ra ở một làng hay xóm núi hẻo lánh, vẫn luôn có mối liên hệ chặt chẽ với dòng chảy lịch sử của cả đất nước.
Trước 1985, nhiều tác phẩm văn xuôi đã khám phá mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại, cho thấy cách mà ký ức được hiểu và lý giải từ góc nhìn của hiện tại Dù cuộc sống có bộn bề, ánh sáng của quá khứ vẫn chiếu rọi vào đời sống hàng ngày của con người Một số tác phẩm đã khéo léo kết hợp các chiều thời gian, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, nhằm làm nổi bật đời sống tinh thần và số phận của mỗi cá nhân Những khoảnh khắc rực rỡ trong lịch sử, đặc biệt là trong chiến tranh, tiếp tục ảnh hưởng đến tâm hồn con người, mặc cho những lo toan thường nhật Ý tưởng này mang lại cho độc giả niềm hứng khởi và niềm tin vào giá trị tinh thần và đạo đức, đồng thời giúp họ tìm thấy những lời giải đáp sâu sắc cho các vấn đề của cuộc sống qua các thời đại.
Thành công trong truyện ngắn Có một đêm nh- thế của Phạm Thị Minh
Th-, phần quan trọng là nhờ việc tìm ra giải pháp nghệ thuật thích hợp bằng lối kể "đồng hiện" thời gian
Nh- vậy có thể thấy rằng trong các tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1945 -
Từ năm 1975 đến 1985, văn xuôi Việt Nam trải qua sự chuyển đổi mạnh mẽ từ việc miêu tả hiện thực sang biểu hiện hiện thực Không gian và thời gian trong tác phẩm được thể hiện như một chiều lịch sử, tập trung vào các sự kiện Các tác phẩm này không chỉ tái hiện hiện thực theo chiều rộng và chiều dài mà còn khái quát và triết luận về xã hội, nhân sinh, từ đó khám phá bản chất của cuộc sống xã hội và con người.
Không gian và thời gian trong văn xuôi sau 1985 mang tính đa chiều, từ những thành phố sôi động đến những bến nước yên bình, hay những góc vườn, ngôi nhà, và lại trở về thành phố Các tác phẩm phản ánh sự chuyển động nhanh chóng giữa hiện tại và quá khứ, giữa thời chiến và thời bình, với những cảnh tượng lạnh lẽo của chiến tranh và không khí náo nhiệt của hòa bình Nhiều tác giả đã áp dụng những cách viết mới, như chuyển đổi liên tục không gian và thời gian, kết hợp giữa thực và ảo, cùng với sự đan xen giữa ý thức và tiềm thức Sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, hồi ức và tưởng tượng được thể hiện qua thời gian đồng hiện và các mạch phát triển của tâm trạng, như trong "Thân phận tình yêu" của Bảo Ninh và "Bến không chồng" của Dương Hướng.
Thân phận tình yêu hòa quyện giữa "Nỗi buồn tình yêu" và "Nỗi buồn chiến tranh" tạo thành "Nỗi buồn sáng tạo", thể hiện một triết lý sâu sắc về ký ức và quá khứ Triết lý này sống dậy như tư tưởng của Proust về thời gian, với nhiều hình ảnh như "Trường hấp dẫn của quá khứ" và "Cõi không cùng của quá khứ" Mối liên hệ giữa m-a (biểu tượng của chiến tranh) và Đêm (biểu tượng của ánh sáng và tình yêu) phản ánh hành động văn chương, là quá trình viết lại và làm sống dậy những kỷ niệm đã phai nhạt Nhà văn tạo dựng một thế giới qua quá khứ và ảo giác, mang lại ánh sáng cho những giấc mộng đã lùi xa, thể hiện con đường cứu rỗi của Kiên.
113 ảnh ng-ời đọc, ám ảnh con ng-ời, bám riết thời gian và không gian
Trong tác phẩm "Ăn mày dĩ vãng," không gian chuyển đổi từ thành phố sôi động đến những hẻm rừng tĩnh lặng và những chiếc hầm nhỏ, phản ánh sự giao thoa giữa hiện tại và quá khứ, thời chiến và thời bình Cảnh tượng chiến tranh lạnh lẽo và cuộc sống hòa bình náo nhiệt diễn ra một cách hối hả, đồng thời cũng chìm đắm trong những suy tư sâu sắc Nhiều tiểu thuyết hiện đại, như "Kẻ mắc chứng điên" của Trần Thị H-ờng, đã áp dụng cách viết mới để liên tục chuyển đổi không gian và thời gian, tạo nên một trải nghiệm độc đáo cho độc giả.
Bến không chồng của D-ơng H-ớng thể hiện lối viết kết hợp giữa thực tại và ảo mộng, đồng thời cho thấy sự quản lý của ý thức, khơi gợi những nguồn cội giản dị từ tiềm thức Điều này có thể nhận thấy trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, cũng như một phần trong sáng tác của Chu Lai và Tạ Duy Anh.
Kết cấu tác phẩm
Kết cấu của tác phẩm là tổ chức phức tạp và độc đáo, đảm nhiệm nhiều chức năng như bộc lộ chủ đề, triển khai cốt truyện hấp dẫn, tổ chức nhân vật, điểm nhìn trần thuật, không gian và thời gian Tất cả các phương diện tổ chức, từ ví von, ẩn dụ, mỉa mai đến hệ thống hình tượng và thể loại, đều thuộc về kết cấu, kết hợp để tạo ra hình ảnh và chiều sâu nội dung của tác phẩm.
Kết cấu là phương tiện cơ bản trong sáng tác nghệ thuật, có thể coi sáng tác chính là kết cấu Khi nói đến việc xây dựng tác phẩm, cốt truyện hay tính cách, ta xem tác phẩm như một công trình kiến trúc Thuật ngữ kết cấu được mượn từ kiến trúc và hội họa, cho thấy rằng từ những vật liệu khác nhau, trong một không gian nhất định, con người có thể tạo ra những công trình hợp mục đích và hợp lý tối đa.
Nhiệm vụ của nhà văn là biến đổi vốn sống thành những tác phẩm nghệ thuật, tái hiện bức tranh đời sống với tính khái quát cao Điều này đòi hỏi nhà văn phải tổ chức lại chất liệu sống, loại bỏ những yếu tố thừa, phát triển những điều chưa có, và kết nối những phần rời rạc để tạo ra một chỉnh thể nghệ thuật Kết cấu tác phẩm được hiểu là sự thống nhất giữa các yếu tố khác nhau về thời gian và không gian, cũng như sự kết hợp giữa yếu tố tinh thần và vật chất, yếu tố vận động và đứng im, hữu hạn và vô hạn, chủ quan và khách quan Kết cấu không thể tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm, mà phải phục vụ cho mục đích nghệ thuật mà nhà văn đặt ra.
Kết cấu văn xuôi giai đoạn 1945 - 1975 mang tính lịch sử - sự kiện, với cốt truyện chặt chẽ và tình huống căng thẳng, thường xoay quanh hai tuyến mâu thuẫn chính: địch - ta và tốt - xấu Thực tế của chiến tranh và cách mạng, cũng như vấn đề lịch sử và dân tộc, đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn học thời kỳ này, định hình phương thức biểu hiện của các nhà văn Cốt truyện không chỉ là công cụ thể hiện cuộc sống và tính cách con người mà còn chịu "áp lực sử thi", với âm hưởng chủ đạo là sự ngợi ca và khẳng định Việc mô tả các khía cạnh rộng lớn của hiện thực như sản xuất và chiến đấu đã tạo nên cốt truyện, cho phép nhân vật minh họa cho ý đồ của tác giả trong mối quan hệ chính trị và xã hội Ngoài ra, thể loại văn xuôi này cũng hướng tới cốt truyện tâm lý, với "truyện ngắn biểu cảm" phản ánh vẻ đẹp nội tâm của con người, mặc dù chưa có nhiều tác phẩm thể hiện sâu sắc diễn biến tâm lý và nội tại của nhân vật.
Trong giai đoạn này, tiểu thuyết không chỉ dừng lại ở những cấu trúc truyền thống của tiểu thuyết hiện thực thế kỷ XIX, mà còn phản ánh những nỗ lực sáng tạo của một số tác giả nhằm đổi mới nội dung và hình thức, khám phá sâu sắc hơn về cuộc sống và số phận của nhân vật chính.
Tiểu thuyết sử thi, với quy mô rộng lớn, đã khắc họa chân thực bức tranh lịch sử của một giai đoạn quan trọng Xu hướng này đã dẫn đến sự ra đời của nhiều tác phẩm và bộ tiểu thuyết nhiều tập, mang đến cái nhìn sâu sắc về quá khứ.
Trong các tác phẩm như "Sống mãi với thủ đô" của Nguyễn Huy Tưởng, "Vỡ bờ" của Nguyễn Đình Thi và đặc biệt là bộ "Cửa biển" của Nguyên Hồng, các tác giả đã khắc họa bức tranh xã hội - lịch sử với nhiều biến cố và sự kiện có thật, ảnh hưởng đến số phận các nhân vật Mặc dù có hàng chục nhân vật thuộc nhiều tầng lớp xã hội, các nhà phê bình nhận định rằng các tác giả vẫn quen thuộc với tiểu thuyết cỡ vừa, thường gặp khó khăn trong việc điều khiển nhiều nhân vật và tổ chức cốt truyện phức tạp Hiện tượng thường thấy là tập đầu mở ra với nhiều hứa hẹn nhưng các phần sau thường bị hụt hơi, khiến nhiều nhân vật không được phát triển trọn vẹn Cuộc chiến tranh đã làm thay đổi nhiều tính cách con người, và sự tìm tòi trong kết cấu tác phẩm là một quá trình lâu dài Các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, chẳng hạn như "Cửa sông" với kết cấu gọn gàng và "Dấu chân người lính" mở rộng quy mô nhưng lại thiếu sự chặt chẽ, cho thấy sự tìm kiếm một bề sâu mới trong văn học.
Kết thúc truyện, Lữ hy sinh, nhưng Kinh - người cha chính ủy - đã nhận ra rằng con trai mình chỉ trong vài tháng chiến dịch đã hiểu biết sâu sắc về những người chiến sĩ trẻ tuổi, như thể bằng cả một đời người Ông cảm thấy không thể đánh giá hết lòng hy sinh, sức lực và tài trí của từng người đã cùng ông trải qua gian khổ trên mảnh đất này Sự hy sinh của con trai ông khiến ông tự hỏi những gì ông đã biết và chưa biết về nó Giai đoạn 1945-1975 vẫn còn nhiều tác phẩm chưa thoát khỏi việc ghi chép vội vàng những câu chuyện và tình huống quen thuộc của chiến tranh.
Văn xuôi sau 1985 đã có sự đổi mới trong kết cấu, trở nên tự do và uyển chuyển hơn Ngoài lối kết cấu truyền thống, văn xuôi hiện nay sử dụng những cấu trúc phức tạp, kết hợp thời gian đa chiều và phụ thuộc vào tâm lý nhân vật Sức hấp dẫn của văn xuôi giai đoạn này không chỉ đến từ cốt truyện rõ ràng hay sự kiện quan trọng, mà còn từ những tình huống đời thường và tâm trạng phong phú của nhân vật Truyện ngắn và tiểu thuyết ngày càng đa dạng trong cách diễn đạt, với nhiều loại cốt truyện khác nhau, từ kịch tính đến phi kết cấu, phản ánh hiện thực đương đại hoặc mang tính ảo mộng Đặc biệt, các đoạn kết thường tạo ra khoảng trống, khuyến khích độc giả tham gia vào việc khám phá và giải mã câu chuyện, như trong "Mùa hoa cải bên sông" của Nguyễn Quang Thiều hay "Vàng lửa" của Nguyễn Huy Thiệp, thể hiện nhu cầu hiện thực và tâm lý của con người hiện đại.
Thế giới nhân vật trong văn xuôi Việt Nam rất phong phú và đa dạng, phản ánh đầy đủ các loại hình nhân vật trong cuộc sống Trong giai đoạn 1945 – 1975, nhân vật thường được phân chia rõ ràng giữa các mặt đối lập, nhưng từ sau 1985, trong thời kỳ đổi mới văn học, sự phân tuyến này gần như bị xóa bỏ Nhân vật trở nên đa tính cách, thể hiện cả mặt tốt lẫn xấu, nhưng lại thiếu vắng những nhân vật hoàn toàn tích cực Hiện nay, văn xuôi đã trở lại với những mẫu nhân vật thực, đặc biệt là những nhân vật thuần phác, trong trẻo, mang tính thiện toàn vẹn, mang lại vẻ đẹp nhân văn giản dị và sâu sắc Thế giới nhân vật này không chỉ phong phú mà còn có đời sống và số phận riêng, tạo nên sức cảm hóa mạnh mẽ đối với người đọc.
Từ sau 1985, nhiều kiểu kết cấu cốt truyện theo hướng lắp ghép "Liên văn bản" đã xuất hiện, cho phép nghệ thuật kể chuyện vượt ra ngoài giới hạn thể loại Bố cục câu chuyện không còn diễn biến theo trình tự thời gian và không gian, mà thường đảo lộn, tạo ra sự xê dịch của các điểm nhìn Kết cấu văn xuôi hiện nay phản ánh thực tế phức tạp, đa chiều và biến động của cuộc sống Trước đây, văn học nghệ thuật thường thiên về cái chung, với những nhân vật rõ ràng tốt xấu và kết thúc bên thiện thắng, khiến độc giả không còn gì để suy ngẫm sau khi đọc hoặc xem Hiện nay, nhiều tác phẩm đã điều chỉnh để tập trung vào cái cá thể, khai thác sâu vào đời sống thực tế và đời sống nội tâm.
Cuộc đấu tranh giữa cái ác và cái thiện không chỉ diễn ra trên chiến tuyến mà còn trong chính tâm hồn mỗi con người, nơi cao cả và yếu kém đan xen Chúng ta thường quên đi vị trí hiện tại trong hành trình hướng tới lý tưởng dài hạn, mà con đường phía trước đầy thử thách gian nan Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trong suốt mấy chục năm qua đã tạo ra những thành quả vĩ đại, nhưng chỉ là bước khởi đầu cho sự phát triển, chứ không phải điều kiện đủ để cải tạo xã hội cũ Mơ ước về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc và công bằng vẫn còn nhiều việc phải làm trong bối cảnh khó khăn Việc loại bỏ những di sản lạc hậu và ngăn chặn sự tha hóa mới là một quá trình dài hơi và kiên quyết Thế hệ hiện tại chỉ có thể đặt nền móng cho một phương thức sản xuất mới, thể hiện qua việc sáng tạo các tác phẩm văn học mang phong cách nghệ thuật của thời đại mới, một mục tiêu quan trọng của văn xuôi sau 1985.
Thế kỷ XXI mang đến cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mạnh mẽ, yêu cầu chúng ta nhìn nhận thực trạng một cách tỉnh táo và thực tế Để đạt được mục tiêu đề ra, cần nhận diện đúng thực trạng, bao gồm cả những điều tốt đẹp cần được ca ngợi và những khía cạnh xấu xa cần loại bỏ Việc xác định từng bước đi lên phù hợp là rất quan trọng trong bối cảnh hiện nay, tránh sự bi quan và dao động.
121 hoặc tự an ủi, thoả mãn với những gì đã đạt đ-ợc, hay tự huyễn hoặc, đều là sự cản trở
1 Có thể nói văn xuôi sau 1985 đã và đang là trung tâm thu hút sức sáng tạo của thế hệ cầm bút Đội ngũ tác giả, sự tiếp nối của thế hệ nhà văn đã góp phần không nhỏ trong việc kế thừa và cách tân với nhiều ph-ơng thức thể hiện đa dạng vừa truyền thống vừa hiện đại làm cho văn xuôi ngày càng mới mẻ và phong phú hơn Xét trong hệ thống chung của các loại hình nghệ thuật, văn xuôi giai đoạn này đã đạt đ-ợc những thành tựu đáng kể và ngày càng khẳng định vị trí của mình trên văn đàn Chặng đ-ờng hơn 15 năm qua cũng đã hình thành khá rõ một số khuynh h-ớng và những phong cách văn xuôi có giá trị, đồng thời có những b-ớc tiến trong quan niệm nghệ thuật về con ng-ời và mở ra một khả năng bao quát những bức tranh toàn cảnh của đời sống xã hội Việt Nam sau đổi mới
2 Để có đ-ợc những thành tựu này văn học đã phải trải qua những b-ớc thăng trầm trong việc tạo nên những tiền đề, lý luận về t- duy nghệ thuật và quan điểm sáng tác thông qua những cuộc tranh luận này nhiều t- t-ởng khoa học mới đã thực sự ra đời, nhiều vấn đề học thuật tr-ớc đây đã đ-ợc xem lại hay nói đúng hơn là đã đ-ợc nhìn nhận lại một cách đúng đắn hơn, góp vào cho đời sống lý luận những tiếng nói dân chủ Yêu cầu đổi mới văn học đòi hỏi những đổi mới cấp thiết trong đời sống lý luận văn học Các nhà lý luận, phê bình phải là những ng-ời soi đ-ờng, chỉ lối, tìm ra những -u điểm, nh-ợc điểm để kế thừa, đế sửa đổi Dù vẫn còn nhiều hạn chế song nhìn chung so với các chặng đ-ờng lý luận văn học tr-ớc đây, lý luận văn học sau đổi mới đã có một tầm nhìn cao hơn và ngày càng khẳng định đ-ợc vị trí và chức năng của mình đối với văn học nói chung và văn xuôi nói riêng Điều cơ bản là nhờ có những tiền đề, lý luận ấy mà sáng tác văn xuôi sau 1985 đã có một nền móng vững chắc trong t- duy nghệ thuật để thực sự sáng tạo đ-ợc những tác phẩm văn xuôi nghệ thuật có giá trị đích thực