1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

(Luận văn thạc sĩ) đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai trên địa bàn huyện mê linh, thành phố hà nội

128 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 128
Dung lượng 0,99 MB

Cấu trúc

  • Phần 1. Mở đầu (14)
    • 1.1. Tính cấp thiết của đề tài (14)
    • 1.2. Mục tiêu nghiên cứu (15)
    • 1.3. Phạm vi nghiên cứu (16)
    • 1.4. Những đóng góp mới, ý nghĩa (16)
  • Phần 2. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu (17)
    • 2.1. Cơ sở lý luận các vấn đề liên quan đến khiếu nại, tố cáo về đất đai (17)
      • 2.1.1. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai (17)
      • 2.1.2. Tố cáo và giải quyết tố cáo về đất đai (19)
      • 2.1.3. Một số khái niệm liên quan đến đất đai và nội dung khiếu nại, tố cáo (21)
    • 2.2. Cơ sở thực tiễn về giải quyết khiếu nại, tố cáo ở một số nước trên thế giới (27)
      • 2.2.1. Nhật Bản (28)
      • 2.2.2. Cộng hòa Liên bang Đức (31)
      • 2.2.3. Hàn Quốc (32)
    • 2.3. Cơ sở thực tiễn và tính pháp lý về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai ở Việt Nam (34)
      • 2.3.1. Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong công tác chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai (34)
      • 2.3.2. Các văn bản pháp luật của Nhà nước quy định về việc giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai (37)
      • 2.3.3. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai hiện nay (42)
      • 2.3.4. Khái quát thực trạng tình hình khiếu nại tố cáo và công tác giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai hiện nay (47)
      • 4.4.2. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về đất đai (116)
      • 4.4.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật (116)
      • 4.4.4. Tăng cường phối kết hợp với các cơ quan có liên quan (117)
      • 4.4.5. Một số giải pháp bổ sung nhằm hạn chế phát sinh khiếu nại, tố cáo (118)
  • Phần 5. Kết luận và kiến nghị (120)
    • 5.1. Kết luận (120)
    • 5.2. Kiến nghị (121)
  • Tài liệu tham khảo (122)

Nội dung

Tổng quan các vấn đề nghiên cứu

Cơ sở lý luận các vấn đề liên quan đến khiếu nại, tố cáo về đất đai

2.1.1 Khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai

Theo Điều 2 Khoản 1 Luật Khiếu nại 2011, khiếu nại đất đai là hành động của người sử dụng đất hoặc người có quyền lợi liên quan yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính liên quan đến quản lý đất đai Khi có lý do cho rằng quyết định hoặc hành vi đó vi phạm pháp luật và xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của họ, người khiếu nại có quyền yêu cầu xem xét.

Khái niệm khiếu nại của Nhà nước Việt Nam lần đầu được đề cập trong Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, quy định rằng Ban Thanh tra đặc biệt có quyền nhận các đơn khiếu nại của nhân dân Khiếu nại này phản ánh sự không hài lòng của công dân đối với hành vi vi phạm pháp luật hoặc quyền lợi của họ bởi cán bộ, nhân viên nhà nước Đây thực chất là phản ánh những hành vi phát sinh trong bộ máy hành chính nhà nước do những người làm việc trong các cơ quan này thực hiện.

Trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất, việc giải quyết khiếu nại là cần thiết để đảm bảo các quan hệ giữa Nhà nước và người sử dụng đất, cũng như giữa những người sử dụng đất với nhau, tuân thủ đúng chính sách và pháp luật đất đai Theo Khoản 2 Điều 264 của Luật Tố tụng Hành chính số 64/2010/QH12, người sử dụng đất có quyền khiếu nại các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính liên quan đến quản lý đất đai, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Quyết định hành chính (QĐHC) là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành để giải quyết vấn đề cụ thể trong quản lý hành chính, áp dụng cho một hoặc một số đối tượng nhất định Hành vi hành chính (HVHC) là hành vi của cơ quan hoặc người có thẩm quyền thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ theo quy định pháp luật Các QĐHC và HVHC có thể bị khiếu nại theo Điều 162 Nghị định 181/2004/NĐ-CP, bao gồm các quyết định liên quan đến quản lý đất đai như giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

HVHC trong quản lý đất đai là hành vi của cán bộ công chức nhà nước liên quan đến các quyết định hành chính như giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, và chuyển mục đích sử dụng đất Theo Luật Khiếu nại 2011, những hành vi này, bao gồm cấp và thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, cũng như gia hạn thời hạn sử dụng đất, có thể bị khiếu nại và sẽ được giải quyết theo quy định của Luật Đất đai Do đó, mọi khiếu nại liên quan đến các quyết định và hành vi này sẽ tuân thủ theo pháp luật hiện hành.

Giải quyết khiếu nại bao gồm các bước thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định Người giải quyết khiếu nại là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, cụ thể là Khoản 6 và Khoản 11, Điều 2, Luật Khiếu nại 2011.

Giải quyết khiếu nại về đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước là quá trình kiểm tra và xác minh tính hợp pháp, hợp lý của quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai Hoạt động này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, cũng như lợi ích chung của nhà nước và xã hội, theo quy định của pháp luật.

Cơ quan hành chính nhà nước (HCNN) có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đất đai, thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm của mình trong việc xem xét, đánh giá tính hợp pháp và hợp lý của các quyết định hành chính (QĐHC) và hành vi hành chính (HVHC) liên quan đến quản lý và sử dụng đất Quy trình này được thực hiện theo các thủ tục pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.

Các bước khiếu nại hành chính, giải quyết khiếu nại hành chính theo quy định hiện hành như sau:

Hình 2.1 Sơ đồ Các bước khiếu nại hành chính, giải quyết khiếu nại hành chính 2.1.2 Tố cáo và giải quyết tố cáo về đất đai

Khoản 1 Điều 30 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân” Theo đó, Hiến pháp năm 2013 đã có điểm mới so với Hiến pháp năm 1992 trong đó quy định quyền tố cáo là quyền con người chứ không chỉ dừng lại ở quyền công dân; đồng thời đề cao vấn đề thực thi quyền con người, quyền công dân… Mặt khác, những sửa đổi, bổ sung về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng liên quan đến việc xác định trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết tố cáo của người dân trong Luật Tố cáo.

Tố cáo là hành động mà cá nhân thông báo cho các cơ quan, tổ chức, hoặc cá nhân có thẩm quyền về các hành vi vi phạm pháp luật, có thể gây thiệt hại hoặc đe dọa đến lợi ích của Nhà nước, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân Điều này bao gồm việc tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và công vụ.

Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực.

Tố cáo là hành động mà công dân thông báo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại hoặc đe dọa đến lợi ích của Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức Điều này được quy định rõ trong Khoản 1, Điều 2 của Luật Tố cáo năm 2018.

Theo quy định của pháp luật, mọi công dân có quyền báo cáo hành vi vi phạm pháp luật (VPPL) liên quan đến quản lý và sử dụng đất, nếu những hành vi này gây thiệt hại hoặc đe dọa đến lợi ích của Nhà nước, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức Việc tố cáo hành vi VPPL của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ là quyền lợi của công dân nhằm thông báo cho cơ quan có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật.

Giải quyết tố cáo là quá trình tiếp nhận, xác minh và kết luận về nội dung tố cáo, liên quan đến quyền của công dân trong việc tố cáo hành vi vi phạm pháp luật Theo Luật Tố cáo năm 2018, người tố cáo là công dân, còn người bị tố cáo là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có hành vi bị tố cáo Điều 139 của Luật Đất đai năm 2003 (nay là Điều 205 Luật Đất đai 2013) quy định rằng cá nhân có quyền tố cáo các vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai, và việc giải quyết tố cáo này sẽ tuân theo quy định của Luật Tố cáo.

Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật (VPPL) trong quản lý nhà nước về đất đai là hành động mà công dân thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các hành vi VPPL của tổ chức, cá nhân liên quan đến việc tuân thủ các quy định pháp luật trong lĩnh vực này.

Giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước là quá trình kiểm tra và xác minh tính hợp pháp của hành vi bị tố cáo Mục tiêu là đưa ra kết luận và biện pháp giải quyết theo quy định pháp luật, nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, các tổ chức, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

2.1.3 Một số khái niệm liên quan đến đất đai và nội dung khiếu nại, tố cáo

Cơ sở thực tiễn về giải quyết khiếu nại, tố cáo ở một số nước trên thế giới

SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

Giải quyết khiếu nại tố cáo là vấn đề được nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, đặc biệt quan tâm và nghiên cứu Các nước đều chú trọng đến mô hình giải quyết của cơ quan hành chính nhà nước, cũng như cơ chế, trình tự và thủ tục để đảm bảo rằng việc giải quyết khiếu nại tố cáo diễn ra một cách khách quan, dân chủ và công khai, đúng theo quy định của pháp luật.

Trên toàn cầu, việc giải quyết khiếu nại tố cáo hành chính đã tồn tại từ lâu và hiện nay đã trở thành một quy trình có tổ chức Tuy nhiên, vẫn cần xác định rõ thẩm quyền giải quyết các vấn đề này để đảm bảo hiệu quả trong công tác quản lý hành chính.

Tòa án ở nhiều quốc gia vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc giải quyết khiếu nại hành chính, với một số nước yêu cầu phải thực hiện thủ tục khiếu nại qua cấp hành chính trước khi khởi kiện tại Tòa án hành chính hoặc tòa án tư pháp Công dân có quyền lựa chọn khiếu nại đến cơ quan hành chính đã ban hành quyết định hoặc thực hiện hành vi hành chính Đặc biệt, ngay cả khi khiếu nại đã được giải quyết bởi cơ quan hành chính, đương sự vẫn có quyền khởi kiện tại Tòa án Việc nghiên cứu cách tổ chức và thực hiện hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính ở một số nước trên thế giới giúp hiểu rõ hơn về vấn đề này.

2.2.1 Nhật Bản Ở Nhật Bản, để giải quyết KNHC, năm 1962 Nhật Bản ban hành Luật Thẩm tra hành chính, từ đó đến nay đã sửa đổi, bổ sung, song không nhiều Theo đó, giải quyết KNHC chủ yếu được thông qua hoạt động tư vấn hành chính do các chuyên gia tư vấn hành chính thực hiện Hiến pháp của Nhật Bản cho phép người dân có quyền biểu thị chính kiến của mình bằng phương pháp trưng cầu dân ý về mọi lĩnh vực và đặc biệt là về sự tồn tại của chính quyền Công dân có quyền khiếu nại bất cứ hành vi và quyết định nào của Nhà nước kể cả các văn bản qui phạm pháp luật, các chính sách của Nhà nước nếu như họ cho rằng những hoạt động đó ảnh hưởng bất lợi đến quyền và lợi ích của họ Hệ thống các cơ quan tiếp nhận và giải quyết KNHC của Nhật Bản được tổ chức thực sự đầy đủ, toàn diện và linh hoạt ở cả hệ thống hành pháp, tư pháp và lập pháp đảm bảo bất cứ một khiếu nại nào của người dân cũng được xem xét thấu đáo và thoả đáng.

Tại Nhật Bản, hệ thống thanh tra được thành lập tùy theo từng địa phương, hiện có khoảng 32 địa phương có cơ quan Thanh tra để tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại Ngoài ra, các cơ quan Trung ương cũng thiết lập bộ phận tiếp nhận đơn thư tại hầu hết các cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp.

Bộ Nội vụ và Truyền thông có Cục Đánh giá hành chính, chuyên trách tiếp nhận đơn khiếu nại từ công dân gửi đến các cơ quan hành chính ở Trung ương và địa phương Đơn thư được phân tích và chuyển đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền để giải quyết Để nâng cao hiệu quả, Bộ đã thành lập 50 Văn phòng đại diện tại hầu hết các tỉnh, thành phố nhằm tiếp nhận và giải quyết khiếu nại của công dân Ngoài ra, Bộ còn có Hội cứu trợ hành chính để tư vấn cho các vụ việc phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực Khoảng 5000 người, chủ yếu là cán bộ về hưu, tự nguyện tham gia tiếp nhận khiếu nại mà không hưởng lương, được ủy quyền bởi Bộ trưởng Chức năng chính của Cục Đánh giá hành chính là tiếp nhận, tư vấn và chuyển đơn đến các cơ quan hành chính, đồng thời thông báo kết quả cho người dân Nếu thông báo không được thực hiện, cần nêu rõ lý do và báo cáo lên cấp trên để xem xét hiệu quả hoạt động.

Công dân có quyền khiếu nại tới cơ quan hành chính nhà nước cấp trên hoặc ủy quyền cho luật sư Trong quá trình giải quyết, cơ quan có thẩm quyền sẽ thẩm tra nội dung khiếu nại và tổ chức buổi làm việc để công dân trình bày yêu cầu, đồng thời yêu cầu cơ quan có quyết định hành chính bị khiếu nại biện minh cho quyết định đó Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng được tham gia Cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định bãi khiếu nại nếu có đủ căn cứ vi phạm thủ tục, hoặc chấm dứt khiếu nại nếu không có cơ sở Công dân có quyền yêu cầu cơ quan cấp dưới hủy bỏ hoặc sửa đổi quyết định hành chính vi phạm pháp luật và khắc phục hậu quả Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, công dân có quyền khởi kiện tại Tòa án.

Nhật Bản hiện có 50 Chi nhánh tư vấn hành chính với khoảng 5000 chuyên gia tư vấn, bao gồm những người đã nghỉ hưu, luật sư và giáo sư, tham gia tự nguyện Công chức nhà nước không được phép làm chuyên gia tư vấn hành chính, và danh sách ứng viên phải được Bộ Quản lý công cộng, Nội vụ, Bưu điện và Viễn thông phê duyệt Nhiệm vụ của các chuyên gia này là tiếp nhận và xử lý khiếu nại từ người dân; nếu khiếu nại không có cơ sở, họ sẽ giải thích và trả lời, còn nếu có cơ sở hoặc phức tạp, họ sẽ chuyển tiếp vụ việc.

Cơ quan Đánh giá hành chính tại địa phương và Trung ương yêu cầu các CQHC giải quyết các quyết định quản lý và phản hồi công dân thông qua chuyên gia tư vấn Chuyên gia tư vấn có thẩm quyền kiến nghị cải cách hành chính, đóng vai trò quan trọng trong việc giảm 50% vụ việc KNHC ở Nhật Bản Kinh phí cho hoạt động tư vấn chủ yếu từ hội phí và ngân sách Nhà nước, với tư cách trung lập giữa CQHCNN và công dân Dịch vụ tư vấn hoàn toàn miễn phí, nhưng chuyên gia được Nhà nước chi trả chi phí thực tế Nghị viện cũng đóng vai trò trong việc giải quyết KNHC; công dân cần có sự giới thiệu của Nghị sĩ để đệ trình khiếu nại Thượng viện chỉ tiếp nhận khiếu nại trong thời gian họp và xử lý qua hình thức bỏ phiếu Những khiếu nại được chấp thuận sẽ được gửi tới Nội các để giải quyết, trong khi những khiếu nại không phù hợp sẽ bị hủy bỏ Nghị sĩ giới thiệu sẽ thông báo kết quả cho công dân.

2.2.2 Cộng hòa Liên bang Đức

Tại Đức, công dân có quyền khiếu nại để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các hoạt động của cơ quan nhà nước Pháp luật Đức công nhận khiếu nại liên quan đến hoạt động của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó khiếu nại đối với quyết định hành chính và hành vi hành chính chiếm phần lớn Ngoài cơ chế giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước, còn có cơ chế giải quyết thông qua Tòa hành chính độc lập, nhằm mang lại sự khách quan và hiệu quả cho người dân Tòa hành chính được tổ chức thành ba cấp: Tòa hành chính sơ thẩm tại quận, huyện; Tòa hành chính phúc thẩm tại tỉnh; và Tòa hành chính tối cao thuộc Nhà nước Liên bang.

Tòa hành chính có thẩm quyền xét xử các khiếu kiện của công dân liên quan đến quyết định hành chính cá biệt và hành vi hành chính của nhân viên cơ quan công quyền, nhưng không xem xét khiếu kiện đối với văn bản quy phạm pháp luật Ngoài ra, Tòa còn giải quyết các vụ việc bồi thường thiệt hại do quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính gây ra Nói tóm lại, Tòa án hành chính xử lý các khiếu kiện thuộc lĩnh vực Luật Công không liên quan đến Hiến pháp và không nằm trong thẩm quyền của các đạo luật liên bang.

Trình tự và thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính (KNHC) bắt đầu từ việc người khiếu nại gửi đơn đến cơ quan hành chính nhà nước (CQHCNN) có quyết định hành chính (QĐHC) hoặc hành vi hành chính (HVHC) vi phạm pháp luật Nếu CQHCNN nhận thấy QĐHC hoặc HVHC là trái pháp luật, họ phải thu hồi, sửa đổi hoặc chấm dứt quyết định/hành vi đó và bồi thường cho người khiếu nại nếu có thiệt hại Quy định pháp luật cho phép người khiếu nại gặp gỡ, trình bày và thương thảo với CQHCNN để đạt được thỏa thuận giải quyết Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết, người khiếu nại có quyền khiếu nại lên CQHCNN cấp trên và tiếp tục khởi kiện tại Tòa án hành chính, với quyền kháng cáo lên các cấp tòa án cao hơn, bao gồm Tòa án Hiến pháp, nơi có thẩm quyền xét xử chung thẩm các vụ kiện hành chính.

Cộng hòa Liên bang Đức sở hữu một hệ thống cơ quan tài phán hành chính độc lập hoàn toàn với Tòa án tư pháp Đặc biệt, các cơ quan này không đảm nhận chức năng tư vấn pháp lý Trong cấu trúc của Tòa án hành chính, các quy định và quy trình được xác định rõ ràng.

Việt Nam có 52 Tòa án hành chính khu vực, 16 Tòa án hành chính liên khu vực và một Tòa án hành chính liên bang, đảm bảo quyền bảo vệ pháp luật triệt để của công dân theo Khoản 4 Điều 19 của Hiến pháp Quyền này cho phép công dân được bảo vệ trước mọi văn bản hành chính, với nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ pháp luật chống lại các hành vi vi phạm của cơ quan hành pháp Các thẩm phán hành chính có trách nhiệm nghiên cứu nội dung vụ việc và có thể đưa ra ý kiến về cách giải quyết tranh chấp Tòa án không bị ràng buộc bởi các bằng chứng và giải trình của các bên, từ đó giúp cân bằng quyền lợi giữa công dân và cơ quan hành chính, hỗ trợ công dân trong quá trình tố tụng (Mạnh Hùng, 2016).

Giải quyết KNHC ở Hàn Quốc do nhiều cơ quan thực hiện: các cơ quan hành chính, cơ quan Chống tham nhũng và Bảo vệ quyền công dân (ACRC) và

Cơ quan thanh tra và kiểm toán Hàn Quốc không phân định rõ ràng giữa khiếu nại, tố cáo hay phản ánh, kiến nghị Khi người dân có vấn đề không hài lòng, các cơ quan nhà nước xử lý linh hoạt và hiệu quả tùy theo từng trường hợp Hàn Quốc áp dụng nhiều hình thức tiếp nhận và xử lý khiếu nại, trong đó khiếu nại qua mạng ngày càng phổ biến Ngoài ra, các cơ quan còn tổ chức tiếp nhận khiếu nại lưu động tại các vùng sâu, xa, chú trọng lắng nghe và giải quyết tại chỗ thông qua việc trao đổi trực tiếp với các bên liên quan Công việc này mang tính chất hòa giải và được thực hiện ngay tại địa phương.

Cơ sở thực tiễn và tính pháp lý về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai ở Việt Nam

2.3.1 Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong công tác chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai

Khiếu nại, tố cáo là quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp, giúp bảo vệ quyền lợi của họ và thể hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Đây là kênh thông tin phản ánh việc thực thi quyền lực nhà nước và tình hình thực hiện công vụ của cán bộ, công chức Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo không chỉ quan trọng trong quản lý nhà nước mà còn thể hiện mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân Qua đó, Đảng và Nhà nước kiểm tra tính đúng đắn của chính sách, pháp luật, từ đó hoàn thiện lãnh đạo và nâng cao hiệu quả quản lý Do vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là vấn đề được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm.

Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt chú trọng, thể hiện qua các Hiến pháp từ năm 1959 đến năm 2013 cùng với các văn bản pháp luật khác Đường lối của Đảng nhấn mạnh trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng và chính quyền trong việc tiếp công dân và xử lý khiếu nại, tố cáo.

Thời gian qua, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân trên toàn quốc diễn ra phức tạp, chủ yếu liên quan đến đất đai, đền bù và giải phóng mặt bằng Mặc dù nhiều vụ việc đã được giải quyết, công dân vẫn tiếp tục khiếu kiện, với một số đoàn đông người mang theo băng rôn, khẩu hiệu và có hành vi quá khích tại Trụ sở Tiếp công dân Trung ương Nhiều công dân đơn lẻ cũng đã có hành vi vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự Ban Tiếp công dân Trung ương đã tích cực phối hợp với các lực lượng chức năng để tuyên truyền, vận động công dân chấp hành pháp luật, nhưng tình trạng khiếu kiện vẫn tiếp diễn, đặc biệt là việc tụ tập đông người trước nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các cơ quan Trung ương Các vụ việc khiếu nại phức tạp chủ yếu liên quan đến bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư, tranh chấp đất đai giữa người dân với doanh nghiệp và các vấn đề liên quan đến chuyển đổi chợ truyền thống thành trung tâm thương mại.

Ngày 23/11/2012, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 39/2012/QH13, nhấn mạnh việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân về quyết định hành chính liên quan đến đất đai Nghị quyết yêu cầu thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước chủ động xem xét và giải quyết kịp thời các vụ việc khiếu nại, công khai kết quả giải quyết nhằm ngăn chặn tình trạng khiếu kiện vượt cấp và phức tạp, đồng thời chịu trách nhiệm về việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo này.

Năm 2012, Chính phủ ban hành Chỉ thị số 14/CT-TTg nhằm nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo (KNTC), tập trung vào việc chấn chỉnh quản lý nhà nước về đất đai, giải quyết kịp thời các vụ việc KNTC ngay từ khi phát sinh để tránh trở thành điểm nóng Chỉ thị cũng yêu cầu tăng cường thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Chủ tịch UBND các cấp trong công tác này, đặc biệt tại các địa bàn trọng điểm Đến năm 2014, Bộ Chính trị tiếp tục ra Chỉ thị số 35-CT/TW nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác tiếp công dân và giải quyết KNTC.

Khiếu nại và tố cáo về đất đai đang trở thành thách thức lớn đối với Đảng và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị và an toàn xã hội Việc giải quyết hiệu quả vấn đề này là rất quan trọng để duy trì trật tự an ninh trong cả nước và từng địa phương Các cơ quan nhà nước cần đổi mới phương thức giải quyết khiếu nại, thường xuyên tiếp nhận phản hồi từ người dân để điều chỉnh công tác quản lý đất đai, chú trọng đến lợi ích chính đáng của người dân Điều này không chỉ đảm bảo công bằng xã hội mà còn góp phần ổn định tình hình an ninh và trật tự xã hội, một vấn đề cấp bách hiện nay đối với Đảng và Nhà nước.

2.3.2 Các văn bản pháp luật của Nhà nước quy định về việc giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai

Dựa trên các chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan hành chính nhà nước, cũng như trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo Mặc dù một số quy định vẫn còn thiếu hợp lý, nhưng nhìn chung, các văn bản này đã phản ánh sự phù hợp với thực tiễn từng giai đoạn, thể hiện sự thay đổi hướng tới cơ chế chính sách minh bạch và có lợi cho người dân Các văn bản pháp luật mới cũng đã khắc phục được những mâu thuẫn và bất cập của các quy định trước đó.

Trong giai đoạn từ 01/01/2009 đến 31/12/2013, các văn bản về giải quyết khiếu nại, tố cáo do Nhà nước ban hành cho thấy hệ thống pháp luật còn thiếu sự đồng bộ Nhiều vấn đề mâu thuẫn và chưa thống nhất giữa các văn bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam về giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005) hiện đã hết hiệu lực và có nhiều quy định không thống nhất với Luật Đất đai năm 2003 Những mâu thuẫn này bao gồm trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại về đất đai và quyền khởi kiện tại Tòa án, làm hạn chế quyền lợi của người khiếu nại so với quy định trong Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 Sự khác biệt về thời hạn, thời hiệu và các quy định khác cũng góp phần gây khó khăn trong việc áp dụng luật để giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Luật Đất đai năm 2003 ra đời vào thời điểm Luật Khiếu nại, tố cáo năm

Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 mặc dù có một số quy định về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai nhưng đã trở nên lạc hậu sau khi sửa đổi Cần thiết phải cập nhật các quy định, đặc biệt là liên quan đến “quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng” Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị nhấn mạnh việc hoàn thiện pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhằm nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan liên quan Từ những yêu cầu thực tiễn này, Luật Tố cáo 2018 đã được ban hành.

Luật Tố tụng hành chính năm 2010, Luật Khiếu nại (2011) và Luật Tố cáo năm 2018 đã tạo ra khung pháp lý thống nhất hơn cho việc giải quyết khiếu nại và tố cáo Đặc biệt, Luật Đất đai số 45/2013/QH13, có hiệu lực từ ngày 01/7/2014, quy định rõ về quản lý và sử dụng đất, đồng thời tại Chương XIII, Mục 2, Điều 204 và Điều 205 đã thiết lập cơ chế giải quyết khiếu nại và tố cáo liên quan đến đất đai, góp phần khắc phục những mâu thuẫn trước đó.

Bảng 2.1 Danh mục các văn bản pháp luật quy định về giải quyết khiếu nại,

I Một số Luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo

4 31/2019/NĐ-CP ngày 10/04/2019 thành tích trong tố cáo Đang có hiệu lực thi hành

2.3.3 Thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai hiện nay

Luận văn tốt nghiệp này tập trung vào việc giải quyết khiếu nại tố cáo liên quan đến lĩnh vực đất đai tại các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội, theo quy định của Luật Đất đai.

Năm 2003, Luật đất đai 2013, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và Điều 264 của Luật Tố tụng hành chính cùng các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan đã tạo ra khung pháp lý cho việc khiếu nại và tố cáo Mặc dù không đi sâu vào nghiên cứu, bài viết sẽ đề cập đến các vấn đề này như một kết quả tất yếu nhằm bổ sung và làm rõ hơn về quy trình giải quyết khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực của Tòa án.

27 nhà nước về đất đai được quy định tại Mục 2, Chương VI, Điều 6, Luật Đất đai năm 2003 nay là mục 2, Điều 204, 205 Luật đất đai năm 2013.

* Về giải quyết khiếu nại:

Theo quy định pháp luật, một vụ việc khiếu nại có thể được giải quyết hai lần tại cơ quan hành chính Người khiếu nại có quyền khởi kiện ra toà án nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính, bất kể đó là lần giải quyết thứ nhất hay thứ hai.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính và hành vi hành chính của chính mình cũng như của cán bộ, công chức dưới quyền Đồng thời, họ cũng có trách nhiệm giải quyết khiếu nại lần hai đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính đã được giải quyết lần đầu bởi thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới, nhưng vẫn còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn mà chưa được xử lý (Mục 1 Chương III, Luật Khiếu nại 2011).

Ngày đăng: 17/07/2021, 06:43

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2009). Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 06/3/2009 về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay Khác
3. Bộ Chính trị (2009). Thông báo Kết luận số 130/TB-TW về tình hình kết quả giải quyết khiếu nại tố cáo và giải pháp trong thời gian tới Khác
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011). Báo cáo tổng kết thi hành Luật Đất đai năm 2003, Hà Nội Khác
5. Chính phủ (2004a). Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai Khác
6. Chính phủ (2004b). Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trơ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất Khác
7. Chính phủ (2006). Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần Khác
9. Chính phủ (2009a). Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Khác
10.Chính phủ (2009b). Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 quy định bổ sung về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất Khác
11. Chính phủ (2010). Báo cáo số 2333/BC-TTCP ngày 09/8/2010 về tổng kết công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đông người Khác
12. Chính phủ (2012a). Báo cáo công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc do Thủ tướng Chính phủ chủ trì vào ngày 02/5/2012 Khác
13.Chính phủ (2012b). Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 18/5/2012 về chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo Khác
14.Chính phủ (2012c). Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại Khác
15.Chính phủ (2012d). Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 quy định chi tiết một số điều của Luật Tố cáo Khác
16.Chính phủ (2012e). Báo cáo số 280/BC-CP ngày 17/10/2012 về công tác giải quyết KNTC năm 2012 Khác
17.Chính phủ (2012g). Báo cáo số 304/BC-CP ngày 26/10/2012 về thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai Khác
18.Chính phủ (2013). Nghị định số 34/2013/NĐ-CP ngày 22/4/2013 về quản lý sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước Khác
19.Chính phủ (2014a). Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 quy định chi tiết một số điều của Luật tiếp công dân Khác
20.Chính phủ (2014b). Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai Khác
21.Chính phủ (2014c). Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất Khác
22.Mạnh Hùng (2016). Giải quyết khiếu nại hành chính kinh nghiệm của một số nước trên thê giới, Thanh tra Bộ tài chính Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w