Phương pháp nghiên cứu
Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Quận Long Biên nằm ở cửa ngõ phía Đông Bắc của Thủ đô Hà Nội với vị trí như sau:
- Phía Bắc giáp huyện Đông Anh, huyện Gia Lâm
- Phía Đông giáp huyện Gia Lâm
- Phía Nam giáp quận Hoàng Mai
- Phía Tây giáp quận Hoàn Kiếm
Quận nằm giữa sông Hồng và sông Đuống, có nhiều đầu mối giao thông quan trọng như đường sắt và quốc lộ, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp cảng sông hiện đại Những yếu tố này không chỉ đáp ứng nhu cầu của các cụm công nghiệp kỹ thuật cao mà còn thúc đẩy quá trình đô thị hóa và giao lưu kinh tế Điều này giúp quận liên kết hiệu quả với các tỉnh và thành phố lân cận, mở rộng thị trường và phát triển sản xuất kinh doanh.
3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội
3.1.2.1 Tình hình sử dụng đất đai
Quận Long Biên gồm có 14 phường và 302 tổ dân phố Tình hình sử dụng đất đai của Quận Long Biên (2013-2015) được thể hiện qua bảng 3.1 dưới đây:
Quận có tổng diện tích đất tự nhiên là 5.993,01 ha, không thay đổi trong 3 năm qua Đất nông nghiệp giảm từ 1.517,59 ha (25,32%) năm 2013 xuống còn 1.398,66 ha (23,34%) năm 2015, giảm 1,98% Nguyên nhân chính là do ảnh hưởng mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, cùng với tốc độ tăng dân số cao, dẫn đến nhu cầu xây dựng nhà ở, cơ sở hạ tầng, trung tâm thương mại và khu công nghiệp gia tăng Sự phát triển nhiều khu đô thị lớn như Khu đô thị Việt Hưng và Vinhomes Riverside đã làm tăng đáng kể diện tích đất phi nông nghiệp trong quận.
Bảng 3.1 Tình hình sử dụng đất đai quận Long Biên (2013 – 2015)
Tổng diện tích đất tự nhiên
1.1 Đất sản xuất nông nghiệp
– Đất trồng cây hàng năm
+ Đất trồng cây hàng năm khác
– Đất trồng cây lâu năm
1.2 Đất nuôi trồng thủy sản
II Đất phi nông nghiệp
III Đất chưa sử dụng
Theo UBND quận Long Biên (2015), diện tích phi nông nghiệp đã tăng từ 4.340,74 ha vào năm 2013, chiếm 72,43%, lên 4.459,67 ha vào năm 2015, chiếm 74,41%, với mức tăng trung bình 1,36% mỗi năm.
3.1.2.2 Tình hình dân số - xã hội
Theo thống kê của quận Long Biên, tính đến 31/12/2015 dân số trung bình quận Long Biên là 276.137 người trong đó nữ là 133.122 người (chiếm 48,2%) và nam là 137.165 người (chiếm 51,8%)
Tính đến cuối năm 2015, dân số quận Long Biên đã tăng thêm 5.850 người, tương đương với tỷ lệ tăng 1,08% so với năm 2013 Mặc dù tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ 14,9 o/oo năm 2013 xuống còn 13,5 o/oo năm 2015, nhưng vẫn ở mức cao Mật độ dân số quận Long Biên đã tăng thêm 98 người/km², với mức tăng bình quân 1,08%/năm Là cửa ngõ phía đông của thủ đô, quận Long Biên có nhiều khu công nghiệp, trung tâm thương mại và dự án phát triển đô thị, dẫn đến tốc độ đô thị hóa nhanh chóng Sự gần gũi với các cơ sở nghiên cứu, trường đại học và nhà máy cũng thu hút ngày càng nhiều người chuyển đến, tạo áp lực lớn về dân số.
Bảng 3.2 Một số chỉ tiêu về dân số - xã hội quận Long Biên (2013-2015) STT
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ĐVT
Người Người Người Hộ Ng/km 2 o / oo
3.1.2.3 Thực trạng hệ thống cơ sở hạ tầng
Quận Long Biên sở hữu hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh, bao gồm giao thông, cấp thoát nước, phục vụ cho sự phát triển của các khu công nghiệp và thương mại Địa phương đã đầu tư xây dựng nhiều cụm công nghiệp nhỏ như Phúc Lợi và Sài Đồng, đồng thời phát triển các chợ, trung tâm thương mại, khu giải trí, và tuyến phố văn minh đô thị Ba tuyến đường giao thông quan trọng quốc lộ 1A, 1B và quốc lộ 5 kết nối quận với các tỉnh phía Bắc, tạo thành tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Lạng Sơn Hệ thống giao thông tại quận có hơn 323 km đường, trong đó 243 km là đường nhựa và bê tông Hệ thống điện có 97 trạm biến áp, với 100% hộ dân sử dụng điện lưới quốc gia Ngoài ra, hệ thống cấp thoát nước gồm hơn 100 km đường ống cấp nước, phục vụ cho hơn 50% hộ gia đình sử dụng nước sạch với mức tiêu thụ trung bình 106 lít/ngày đêm.
Quận có hệ thống giáo dục đa dạng với 6 trường trung học phổ thông, 15 trường phổ thông cơ sở, 16 trường tiểu học và 32 trường mẫu giáo Trong những năm qua, quận đã nỗ lực duy trì và nâng cao chất lượng dạy và học ở tất cả các cấp học Mạng lưới giáo dục từ mẫu giáo đến trung học phổ thông đã đáp ứng tốt nhu cầu và quy mô học sinh trong khu vực.
Quận có hệ thống y tế phát triển với 1 bệnh viện hạng I (Bệnh viện đa khoa Đức Giang), 1 trung tâm y tế và 14 trạm y tế đạt tiêu chuẩn quốc gia Cơ sở vật chất tại các cơ sở y tế này đều đáp ứng các tiêu chí quy định.
Quận có một trường Năng khiếu TDTT cùng với 20 sân tennis và 8 bãi bóng, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia thể dục thể thao Mỗi phường đều được trang bị từ 1 đến 2 điểm dụng cụ luyện tập thể thao ngoài trời, góp phần phát triển phong trào thể dục thể thao rộng rãi, thu hút mọi đối tượng tham gia.
Quận có 72 di tích lịch sử văn hóa, trong đó nhiều di tích đã trở thành điểm đến trong tour du lịch sông Hồng Để phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa và vui chơi giải trí, quận có 50 nhà văn hóa cơ sở và 1 công viên vườn hoa Ngoài ra, đất quốc phòng và an ninh chiếm tỷ lệ đáng kể trong cơ cấu sử dụng đất của quận, bao gồm khu sân bay Gia Lâm và khu trại pháo quân đội.
Bảng 3.3 Giá trị sản xuất các ngành kinh tế của quận
Nguồn: UBND quận Long Biên (2015)
3.1.2.4 Thực trạng phát triển kinh tế
Quận Long Biên hiện có hơn 200 cơ quan, đơn vị của Trung ương và thành phố, cùng với hơn 700 doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã Tỷ lệ hộ làm nông nghiệp trong quận chỉ còn 13,45%.
Giá trị tổng sản lượng các ngành kinh tế trên địa bàn đạt hơn 6.012 tỷ đồng, với cơ cấu từng ngành được chi tiết trong bảng 3.3.
Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tại quận có ba khu công nghiệp chính: Sài Đồng A, Hanel và Hà Nội - Đài Tư, với gần 300 doanh nghiệp sản xuất phân bố rộng rãi Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2015 đạt 3.988,6 tỷ đồng, tăng 0,64% so với năm 2014.
Giá trị sản xuất công nghiệp tại quận hàng năm tăng trưởng nhanh chóng, chủ yếu đến từ kinh tế cá thể và kinh tế hỗn hợp Ngành sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh ở đây rất đa dạng, nhưng chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực chế biến như sản xuất thực phẩm, đồ uống, may mặc, hóa chất, đồ gỗ và các sản phẩm kim loại.
Ngành thương mại và dịch vụ giữ vai trò thiết yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của quận Long Biên, với tổng số lao động lên tới 11.342 người Trong số đó, 4.521 người làm việc tại các công ty, 135 người tại các hợp tác xã, và 6.686 người làm việc trong các hộ cá thể Năm 2015, các doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại, khách sạn và dịch vụ tại quận đã đạt doanh thu trên 200 tỷ đồng.
Ngành nông nghiệp quận Long Biên đã trải qua những biến đổi đáng kể do sự phát triển công nghiệp và đô thị, dẫn đến nhu cầu vật chất và tinh thần của người dân ngày càng cao Tuy nhiên, diện tích đất nông nghiệp đang bị thu hẹp Thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, quận đã sử dụng đất trũng để phát triển nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn quả và chăn nuôi kết hợp Hiện nay, quận có một số trang trại lớn như Khu Hồ Miễu, Hồ Thạch Bàn và Tầm Dâu, trong đó trang trại có diện tích lớn hơn 3 ha chiếm tỷ lệ nhỏ (20,5%), còn lại chủ yếu có diện tích từ 1 đến 2,5 ha, tập trung tại các phường có ao hồ lớn thuộc vùng trũng như Thạch Bàn, Phúc Lợi, Cự Khối và Ngọc Thụy.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu quản lý nhà nước về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) là vấn đề có tính chất kinh tế và xã hội, đòi hỏi phải xem xét đặc thù của địa bàn nghiên cứu cũng như tình hình kinh tế xã hội hiện tại Để đạt được hiệu quả, nghiên cứu này áp dụng kết hợp giữa phương pháp luận xã hội và phương pháp luận kinh tế, bao gồm nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau.
Nghiên cứu quản lý nhà nước về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) cần được thực hiện trong mối quan hệ tương tác giữa các thành viên gia đình và cộng đồng Việc tìm hiểu và điều tra các nội dung nghiên cứu phải có sự tham gia, hợp tác và chia sẻ của cộng đồng, từ đó đảm bảo kết quả chính xác và xây dựng các kế hoạch hành động phù hợp với nhu cầu của người dân trong cộng đồng.
Vấn đề dân số và kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) ảnh hưởng trực tiếp đến từng cá nhân và là yếu tố then chốt trong mọi quá trình phát triển Chất lượng quản lý DS-KHHGĐ không chỉ tác động đến sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước mà còn ảnh hưởng đến đời sống của người dân Do đó, nghiên cứu quản lý nhà nước về công tác DS-KHHGĐ cần được tiếp cận từ nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau, đồng thời liên kết với các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và an ninh trong quá trình phát triển kinh tế tại địa phương.
Công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) là một lĩnh vực quan trọng được Đảng và Nhà nước chú trọng, thể hiện qua việc ban hành các chính sách và pháp luật liên quan Quản lý hiệu quả lĩnh vực này yêu cầu sự tham gia của một hệ thống cán bộ tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương Nghiên cứu này tiếp cận một cách hệ thống, bắt đầu từ việc khảo sát đội ngũ cán bộ quản lý cho đến những người trực tiếp thực hiện công tác dân số tại cơ sở và từng cá nhân trong cộng đồng.
3.2.2 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
Chúng tôi chọn các phường Giang Biên, Phúc Đồng, Thạch Bàn làm địa bàn nghiên cứu vì những lý do cơ bản sau:
Các phường này nổi bật với những đặc trưng riêng, phản ánh rõ nét tình hình nghiên cứu, đặc biệt là sự gia tăng dân số cơ học cao do quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ.
Thứ hai, đây là các phường làm tốt và chưa tốt công tác DSKHHGĐ trong những năm vừa qua trên địa bàn Quận Long Biên
Thứ ba, chọn phường có dân số tương đối đồng đều
Phường Giang Biên nổi bật với tốc độ gia tăng dân số cơ học cao, trong khi phường Thạch Bàn được chọn là đại diện cho nhóm các phường thực hiện tốt công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình Đối với nhóm các phường có dân số đồng đều, phường Phúc Đồng là lựa chọn tiêu biểu.
3.2.3 Phương pháp thu thập số liệu
3.2.3.1 Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Các thông tin và số liệu đã công bố sẽ cung cấp nền tảng quan trọng cho việc xây dựng cơ sở lý thuyết và phương pháp luận, đồng thời tạo ra bức tranh tổng thể về tình hình kinh tế - xã hội của các phường nghiên cứu điểm và quận Long Biên Quy trình thu thập thông tin và số liệu đã công bố được thực hiện theo trình tự cụ thể.
1) Liệt kê các số liệu thông tin cần thiết có thể thu thập, hệ thống hóa theo nội dung hay địa điểm thu thập và dự kiến cơ quan cung cấp thông tin.
2) Liên hệ với các cơ quan cung cấp thông tin
3) Tiến hành thu thập bằng ghi chép, sao chụp
Các thông tin, số liệu đã được công bố bao gồm:
Các tài liệu và bài báo liên quan đến đề tài dân số và kế hoạch hóa gia đình được thu thập từ nhiều nguồn, bao gồm Học viện Nông Nghiệp Việt Nam, Viện Dân số và các vấn đề xã hội (Trường Đại học Kinh tế quốc dân), Tổng cục DS-KHHGĐ Việt Nam, và UBND quận Long Biên, cùng với các phường Giang Biên, Phúc Đồng, Thạch Bàn Ngoài ra, thông tin cũng được lấy từ các trang web trên internet và các văn bản, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình.
3.2.3.2 Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
Trong nghiên cứu này chúng tôi tiến hành chọn mẫu điều tra như sau:
* Nhóm cán bộ: Tổng số 25 người gồm: cán bộ liên quan đến quản lý công tác DS-KHHGĐ cấp quận và cấp phường
Trong cuộc điều tra tại quận Long Biên, 10 cán bộ đại diện từ các phòng, ban chính quyền đã được phỏng vấn, bao gồm lãnh đạo Trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, lãnh đạo Phòng Y tế, lãnh đạo Hội Phụ nữ, lãnh đạo Ban Tuyên giáo, lãnh đạo Phòng Văn hóa - Thông tin, lãnh đạo Phòng Tài chính - Kế hoạch, và lãnh đạo Trung tâm Phát triển Quỹ đất.
3 cán bộ công chức, viên chức Trung tâm DS-KHHGĐ quận
- Cấp phường: Tổng số 15 cán bộ (5 người/phường)
Ba phường được chọn điều tra: Giang Biên, Phúc Đồng, Thạch Bàn.
Mỗi phường sẽ chọn đại diện bao gồm: một lãnh đạo chính quyền cấp phường, một lãnh đạo Ban Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, một lãnh đạo Hội Phụ nữ, một cán bộ văn phòng Thống kê và một Trưởng Trạm Y tế.
* Nhóm cộng tác viên dân số: 30 người (10 người/phường)
Nghiên cứu đã được thực hiện với 90 người dân từ 3 phường, mỗi phường có 30 người, được phân chia theo nhóm tuổi, giới tính, trình độ học vấn và nghề nghiệp Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá nhận thức và ý thức của cộng đồng đối với công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ), đồng thời thu thập ý kiến về những thuận lợi, khó khăn và mong muốn trong quá trình triển khai các hoạt động DS-KHHGĐ.
Chúng tôi thiết kế bảng câu hỏi để điều tra các hộ dân và đơn vị liên quan đến quản lý nhà nước về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGD) Chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu các đối tượng thụ hưởng chính sách về DS-KHHGD, cùng với cán bộ lãnh đạo và chuyên gia từ các cơ quan quản lý Ngoài ra, chúng tôi áp dụng phương pháp thảo luận nhóm để tập hợp ý kiến từ cán bộ và người dân, đồng thời thực hiện phỏng vấn không chính thức nhằm thu thập thông tin về nhận thức của người dân về hiệu quả của các hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực này, giúp so sánh và đối chiếu tính trung thực của thông tin đã thu thập.
3.2.4 Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
+ Kết hợp các phương pháp lập bảng, phương pháp phân tổ và dãy số song song nhằm tổng hợp các số liệu cần thiết cho nghiên cứu đề tài.
+ Thủ công: Đọc và phân loại số liệu thô
3.2.5.1 Phương pháp thống kê mô tả
Phương pháp sử dụng các chỉ tiêu tổng hợp như số tuyệt đối, số tương đối và số bình quân nhằm mô tả và phân tích thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình tại quận Long Biên trong giai đoạn 2013 - 2015.
So sánh các chỉ tiêu đo lường số lượng và chất lượng quản lý nhà nước trong công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình qua các năm nhằm đưa ra nhận xét và đánh giá hiệu quả quản lý hoạt động này tại quận, đồng thời phân tích tác động của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
3.2.6 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
* Chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động DS-KHHGĐ, cụ thể: + Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên;
+ Tỷ suất sinh, tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên;
+ Tỷ số giới tính khi sinh (bé trai/bé gái);
+ Tỷ lệ bà mẹ được sàng lọc trước sinh và tỷ lệ trẻ em được sàng lọc sau sinh ( Tỷ lệ sàng lọc trước sinh và sơ sinh );
+ Tỷ lệ người sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại;
+ Số con bình quân/1 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ *
Chỉ tiêu về tổ chức quản lý công tác DS-KHHGĐ
+ Trình độ học vấn của cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ;
+ Tỷ lệ cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ được đào tạo chuyên ngành dân số, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ hàng năm;
+ Độ tuổi của cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ
* Chỉ tiêu phản ánh kết quả công tác truyền thông về
DS-KHHGĐ + Số buổi (lớp) tuyên truyền, tập huấn;
+ Tỷ lệ số người tham gia các buổi truyền thông về
DS-KHHGĐ; + Số lượng các loại hình truyền thông
* Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xã hội của công tác DS-KHHGĐ
+ Tỷ lệ thôn, tổ dân phố được công nhận danh hiệu văn hóa;
+ Tỷ lệ hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa;
+ Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi;
+ Tỷ lệ tử vong trẻ dưới 1 tuổi.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Thực trạng QLNN về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn quận Long Biên
4.1.1 Khái quát tình hình dân số quận Long Biên
4.1.1.1 Về quy mô dân số
Theo số liệu điều tra Dân số, từ 1/1/2004 đến 1/1/2015, dân số quận Long Biên tăng từ 174.680 lên 276.137 người, trung bình tăng 9.000 người mỗi năm, trong đó có 2.700 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ Sự gia tăng dân số chủ yếu tập trung ở các phường như Ngọc Thụy, Ngọc Lâm, Bồ Đề, Thượng Thanh, Đức Giang, Gia Thụy, và Sài Đồng, với khoảng 5.000 người chuyển đến mỗi năm Đặc biệt, sự phát triển của các khu đô thị mới và nhà ở xã hội như Giang Biên, Việt Hưng, Sài Đồng, và Phúc Đồng đã thu hút hàng ngàn cư dân mới, với mức tăng khoảng 1.500 người/năm tại Việt Hưng và 1.000 người/năm tại Sài Đồng.
Dự báo dân số quận sẽ gia tăng trong những năm tới, điều này sẽ ảnh hưởng đáng kể đến công tác quản lý di biến động dân số, đặc biệt trong bối cảnh cơ sở hạ tầng hiện tại còn hạn chế.
4.1.1.2 Về cơ cấu dân số
Theo số liệu điều tra, quận Long Biên đang chứng kiến sự gia tăng đáng kể về số trẻ em, thanh niên, vị thành niên và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ Cụ thể, tổng số sinh năm 2004 là 3.091 trẻ, ước tính đến năm 2015 sẽ đạt 4.699 trẻ Số thanh niên, vị thành niên từ 10-28 tuổi tăng từ 42.010 người (23,6% dân số) năm 2004 lên 66.664 người (24,1% dân số) năm 2015 Số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ cũng tăng từ 43.388 người (24,3% dân số) lên 74.903 người (27,1% dân số) trong cùng thời gian Điều này cho thấy quận Long Biên có dân số trẻ và tốc độ tăng dân số cao, với 30% trong số người chuyển đến hàng năm là phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ.
Bảng 4.1 Tình hình dân số quận Long Biên từ 2010 - 2015
Nguồn: Trung tâm DSKHHGĐ quận Long Biên (2015)
Bảng 4.2 Một số chỉ tiêu về dân số - kế hoạch hóa gia đình từ năm 2004 – 2015
Bà mẹ có con từ 0 -3 tuổi
Theo Trung tâm DS-KHHGĐ quận Long Biên (2015), số lượng người di cư đến các khu đô thị trong quận dự kiến sẽ gia tăng, mang theo nhiều phong tục và tập quán đa dạng từ các vùng miền khác nhau Sự thay đổi này sẽ ảnh hưởng đáng kể đến cơ cấu dân số, môi trường và điều kiện sống của cư dân trong quận.
Theo thống kê năm 2015 của phòng Lao động Thương binh và Xã hội quận Long Biên, quận có hơn 93.000 lao động, tạo thành lực lượng lao động trực tiếp, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Vào năm 2015, quận ghi nhận gần 19.000 người thất nghiệp, chủ yếu trong tình trạng thất nghiệp tạm thời Trong tổng số lao động của quận, 74% là lao động phổ thông, trong khi tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ đạt 26% Trong nhóm lao động qua đào tạo, cơ cấu trình độ bao gồm 1% đại học, 0,78% trung học và 1,67% là công nhân kỹ thuật.
4.1.2 Công tác xây dựng kế hoạch QLNN về công tác DS-KHHGĐ của quận Long Biên a) Công tác tham mưu ban hành các văn bản
Công tác tham mưu ban hành văn bản và chỉ đạo về dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) tại quận Long Biên luôn được chú trọng Hàng năm, Trung tâm DS-KHHGĐ chủ động tham mưu UBND quận phê duyệt các kế hoạch hoạt động chuyên môn, triển khai kịp thời đến các ban, ngành, đoàn thể và UBND các phường với nhiệm vụ, giải pháp cụ thể Đặc biệt, Trung tâm đã tham mưu ký cam kết không vi phạm chính sách DS-KHHGĐ với cán bộ, công chức và các hộ gia đình có nguy cơ cao vi phạm tại cộng đồng Năm 2015, Trung tâm đã tham mưu phê duyệt Đề án “Nâng cao chất lượng dân số quận Long Biên giai đoạn 2016-2020” và tiếp tục đẩy mạnh công tác DS-KHHGĐ theo Thông tri số 07-TTr/QU ban hành ngày 12/5/2016.
Bên cạnh đó, hàng năm Trung tâm DS-KHHGĐ còn tham mưu
UBND quận đã thành lập tổ kiểm tra nhằm đánh giá tình hình triển khai công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) tại các phường và một số cơ quan, đơn vị trên địa bàn Bên cạnh đó, tổ cũng sẽ theo dõi tiến độ xây dựng kế hoạch cho công tác DS-KHHGĐ, đảm bảo các mục tiêu đề ra được thực hiện hiệu quả.
Lập kế hoạch là chức năng cơ bản nhất trong quản lý, đóng vai trò quyết định đến hiệu quả công việc và việc đạt được mục tiêu Đặc biệt trong công tác quản lý nhà nước về dân số và kế hoạch hóa gia đình, kế hoạch cụ thể và thực tiễn là yếu tố then chốt để đảm bảo sự hiệu quả trong quản lý dân số.
Căn cứ để lập Kế hoạch:
Hàng năm, căn cứ vào Nghị quyết của HĐND thành phố và quận về chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, Trung tâm DS-KHHGĐ tham mưu các chỉ tiêu về pháp lệnh dân số, bao gồm giảm sinh và giảm sinh con thứ 3 trở lên, dựa trên kết quả thực hiện công tác quản lý nhà nước về dân số - kế hoạch hóa gia đình của năm trước.
UBND quận Long Biên xây dựng và triển kế hoạch nhằm thực hiện các hoạt động và hoàn thành các chỉ tiêu về DS-KHHGĐ hàng năm
Vào năm 2013, chỉ tiêu giảm sinh của thành phố là 0,06%o và của quận là 0,07%o Sang năm 2014, chỉ tiêu giảm sinh lần lượt giảm xuống còn 0,05%o cho thành phố và 0,06%o cho quận Đến năm 2015, các chỉ tiêu về giảm sinh của thành phố và quận đều được thống nhất.
Chỉ tiêu giảm sinh con thứ 3 tại thành phố và quận đã có sự thay đổi qua các năm, cụ thể năm 2013 lần lượt là 0,06% và 0,07% Đến năm 2014 và 2015, chỉ tiêu này giữ nguyên ở mức 0,06% cho cả thành phố và quận (Bảng 4.3).
Bảng 4.3 Các chỉ tiêu pháp lệnh dân số của quận Long Biên (2013 – 2015)
Năm Chỉ tiêu giảm sinh (%o)
Nguồn: Trung tâm DS-KHHGĐ quận Long Biên (2013-2015)
Tình hình thực hiện kế hoạch:
Trung tâm DS-KHHGĐ quận Long Biên thực hiện kế hoạch hàng năm theo chỉ đạo của UBND quận nhằm triển khai công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình Mỗi năm, trung tâm lập kế hoạch cụ thể và tổng kết kết quả thực hiện so với mục tiêu đã đề ra Mục tiêu chính của các kế hoạch bao gồm ổn định và kiện toàn bộ máy DS-KHHGĐ tại quận và các phường, thực hiện chính sách mỗi cặp vợ chồng chỉ có một đến hai con, và nâng cao chất lượng nguồn dân số để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Kế hoạch cụ thể và việc thực hiện các kế hoạch trong giai đoạn nghiên cứu của trung tâm DS-KHHGĐ quận Long Biên được thể hiện qua bảng 4.4.
Về thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh:
- Dân số đến ngày 31/12/2013: 270.287 người
- Tổng số trẻ sinh ra năm 2013: 4.927 trẻ giảm 409 trẻ so với cùng kỳ năm
2012 Tỷ suất sinh năm 2013: 18.42 %o, giảm 2.16 %o so với kết quả thực hiện năm 2012, giảm 0,02 %o so với kế hoạch giao – Hoàn thành kế hoạch được giao.
Năm 2013, số trẻ sinh ra là con thứ 3 trở lên ghi nhận là 116 trẻ, giảm 14 trẻ so với cùng kỳ năm 2012 Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên đạt 2.35%, giảm 0.09% so với năm trước và giảm 0.03% so với kế hoạch giao, cho thấy việc hoàn thành kế hoạch được giao đã đạt được.
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên:1.49 %
- Dân số đến ngày 31/12/2014: 274.073 người
- Tổng số trẻ sinh ra năm 2014: 4.682 trẻ giảm 245 trẻ so với cùng kỳ năm
2013 Tỷ suất sinh năm 2014: 17.20%o, giảm 1.22 %o so với kết quả thực hiện năm 2013, giảm 1.16 %o so với kế hoạch giao – Hoàn thành kế hoạch được giao.
Năm 2014, số trẻ sinh ra là con thứ 3 trở lên đạt 153 trẻ, tăng 37 trẻ so với cùng kỳ năm 2013 Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là 3.27%, tăng 0.92% so với năm 2013 và 0.98% so với kế hoạch giao, tuy nhiên vẫn không hoàn thành kế hoạch đề ra.
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên: 1.36 %
- Dân số đến ngày 31/12/2015: 279.188 người
Bảng 4.4 Tình hình thực hiện kế hoạch công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn quận Long Biên (2013 – 2015)
1 Tổ dân phố không có người sinh con thứ 3
2 Tỷ lệ phát triển DS tự nhiên
8 Số phụ nữ tham gia sàng lọc trước sinh 9 Số trẻ tham gia sàng lọc sơ sinh ĐVT
% Ca Ca Ca Ca Người
Nguồn: Trung tâm DS-KHHGĐ quận Long Biên (2013-2015)
- Tổng số trẻ sinh ra năm 2015: 4.669 trẻ giảm 13 trẻ so cùng kỳ năm
2014 Tỷ suất sinh năm 2015: 16.91%o, giảm 0.29%o so với kết quả thực hiện năm 2014, giảm 0.09%o so với kế hoạch giao – Hoàn thành kế hoạch đề ra.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn quận Long Biên
4.2.1 Chủ trương, chính sách, quy định của Đảng và Nhà nước trong QLNN về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình Đảng và Nhà nước đã chính thức triển khai chương trình DS-KHHGĐ từ năm 1961 Trong 30 năm đổi mới vừa qua (1986), chính sách dân số đã được lồng ghép vào chính sách phát triển kinh tế- xã hội Trên cơ sở thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và quan điểm phát triển, chủ trương, chính sách dân số của Việt Nam chuyển từ tập trung vào giảm sinh sang chính sách dân số toàn diện, khuyến khích sự tự nguyện của người dân trong thực hiện chính sách Bước vào thập niên đầu của thế kỷ 21, khi mức sinh đã tiệm cận mức sinh thay thế (trung bình mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), chính sách dân số được mở rộng theo hướng toàn diện hơn, tiếp cận theo xu thế chung của quốc tế về các mục tiêu thiên niên kỷ, từ “giảm tốc độ” gia tăng dân số sang “chủ động kiểm soát” quy mô dân số; từ “kế hoạch hóa gia đình” sang “chăm sóc sức khỏe sinh sản-kế hoạch hóa gia đình, nâng cao chất lượng dân số”.
Tại Đại hội IX (2001), Đảng xác định chính sách dân số nhằm kiểm soát quy mô và nâng cao chất lượng dân số để phát triển kinh tế-xã hội, đồng thời cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và quản lý dân số Đến Đại hội X (2006), trong bối cảnh biến động mức sinh và thay đổi tổ chức bộ máy, Đảng nhấn mạnh việc thực hiện hiệu quả các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, giảm tốc độ tăng dân số, duy trì kế hoạch giảm sinh và đảm bảo quy mô, cơ cấu dân số hợp lý nhằm nâng cao chất lượng dân số.
Năm 2001, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chiến lược Dân số 2001-2010, nhằm mở rộng toàn diện các mục tiêu của chính sách dân số, cùng với việc thực hiện Pháp lệnh Dân số.
Chính sách dân số của Việt Nam đã chuyển mình từ giai đoạn áp dụng biện pháp gò ép sang khuyến khích tự nguyện trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình, theo các văn bản hướng dẫn thi hành từ năm 2003 và 2008.
Các chính sách về dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) đã được ban hành đầy đủ, tạo điều kiện cho sự tham gia của toàn xã hội Từ năm 2011, Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, duy trì mức sinh thay thế và tiếp tục hoàn thiện chính sách dân số, chuyển từ "kiểm soát quy mô dân số" sang "nâng cao chất lượng dân số" Chính sách đã điều chỉnh từ "chủ động kiểm soát" sang "chủ động điều chỉnh", với tốc độ tăng dân số trở thành động lực cho phát triển kinh tế - xã hội Nội dung chính sách bao gồm cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em, phát huy lợi thế dân số vàng, và kiểm soát tỷ số giới tính khi sinh Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước, Đảng xác định chính sách dân số là bảo đảm quy mô hợp lý và cân bằng giới tính Tại Đại hội XI, Đảng nhấn mạnh việc duy trì mức sinh thay thế và nâng cao chất lượng dân số Chiến lược DS-SKSS Việt Nam 2010-2020 nhấn mạnh việc giải quyết đồng bộ các vấn đề dân số và sức khỏe sinh sản Để thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW của Bộ Chính trị, HĐND thành phố Hà Nội đã ban hành Nghị Quyết số 05 về giải pháp tăng cường công tác DS-KHHGĐ đến năm 2015.
- Phấn đấu năm 2010: Quy mô dân số đạt khoảng 6,7 triệu người
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hiện đạt 1,18 - 1,20%, với mục tiêu giảm tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên xuống còn 7% Để nâng cao sức khỏe bà mẹ và trẻ em, ít nhất 30% phụ nữ mang thai sẽ được tiếp cận kiến thức về sàng lọc các bệnh và dị tật bẩm sinh Đồng thời, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng cần duy trì ở mức dưới 13,5%.
Đến năm 2015, quy mô dân số dự kiến đạt khoảng 7,7 triệu người với tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ổn định từ 1,10 - 1,15% Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên được đặt mục tiêu ở mức 5%, đồng thời nỗ lực giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh Ít nhất 90% phụ nữ mang thai sẽ được tiếp cận kiến thức về sàng lọc các bệnh và dị tật bẩm sinh ở trẻ sơ sinh.
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng ở mức dưới 12,0%
Hiện nay, một số quy định của Đảng và Nhà nước đã làm giảm nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về chính sách dân số Quyết định 09-QĐ/TW ngày 24/3/2011 quy định rằng đảng viên sinh con thứ ba chỉ bị khiển trách, trong khi theo Quy định 94-QĐ/TW, họ có thể bị cảnh cáo hoặc cách chức nếu giữ chức vụ Đối với cán bộ, công chức, viên chức vi phạm, họ sẽ bị kỷ luật theo quy định của từng đơn vị, nhưng hiện tại chưa có quy định xử lý cụ thể nào đối với người dân vi phạm chính sách dân số Hệ quả là công tác tuyên truyền, giáo dục và thuyết phục người dân tự giác thực hiện chính sách này gặp nhiều khó khăn.
Nhiều văn bản chính sách hiện nay vẫn tồn tại nhiều bất cập, thiếu tính nhất quán và đồng bộ, như Quyết định 06/2012/QĐ-UBND của UBND thành phố Hà Nội về việc công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa” Theo quy định, Làng văn hóa và Tổ dân phố văn hóa chỉ được công nhận nếu tỷ lệ hộ sinh con thứ ba không vượt quá 2% và 1% tổng số hộ dân Điều này dẫn đến khó khăn trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các quy định và xử lý vi phạm, khi mà các tổ dân phố, thôn, làng không thể đạt được danh hiệu văn hóa nếu có người sinh con thứ ba trở lên.
4.2.2 Năng lực của đội ngũ làm công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình
Năng lực của cán bộ làm công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) là yếu tố quan trọng trong quản lý nhà nước về lĩnh vực này Hiện tại, trung tâm DS-KHHGĐ quận có 1 cán bộ trên đại học, 4 cán bộ đại học, và 2 cán bộ trình độ cao đẳng và trung cấp Tại các phường, vẫn còn 4 cán bộ có trình độ trung cấp Đặc biệt, trong đội ngũ cộng tác viên dân số, chỉ có 5/424 cán bộ có trình độ đại học, trong khi có 62 cán bộ trình độ cao đẳng.
Đội ngũ cộng tác viên dân số (CTV) tại quận hiện có 75 cán bộ trình độ trung cấp, đóng vai trò quan trọng trong việc nắm bắt tâm tư và tuyên truyền kiến thức về dân số - kế hoạch hóa gia đình cho người dân Tuy nhiên, phần lớn CTV hiện nay là những cán bộ đã nghỉ hưu, có tuổi cao, dù được người dân tín nhiệm và có nhiều kinh nghiệm nhưng sức khỏe đã bị hạn chế.
Bảng 4.13 Thực trạng cán bộ làm công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn quận Long Biên
3 CTV dân số Tổng cộng
Theo điều tra của Trung tâm DS-KHHGĐ quận Long Biên (2015), đội ngũ cán bộ làm công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình tại các phường được chọn nghiên cứu nhận được đánh giá tích cực từ người dân Kết quả cho thấy đa số ý kiến đều cho rằng cán bộ đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực này.
Bảng 4.14 Đánh giá của người dân về đội ngũ cán bộ làm công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn quận Long Biên
1 Làm tốt công tác DS-KHHGĐ
Nguồn: Kết quả điều tra (2016)
4.2.3 Sự hiểu biết và ý thức của người dân về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình
Sự hiểu biết và ý thức của người dân đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý nhà nước về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) Chính quyền quận Long Biên đã chỉ đạo trung tâm DS-KHHGĐ phối hợp với các tổ chức đoàn thể để tuyên truyền, vận động người dân thực hiện chính sách và pháp luật của Nhà nước về DS-KHHGĐ Các hoạt động này bao gồm chăm sóc và bảo vệ bà mẹ, trẻ em, hướng dẫn sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại, cũng như khuyến khích chị em khám thai và khám phụ khoa định kỳ nhằm bảo vệ sức khỏe cho cả mẹ và bé.
KHHGĐ quận đã phối hợp với các phường triển khai chiến dịch
Để nâng cao ý thức và hiểu biết về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ), việc tăng cường truyền thông lồng ghép dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản đã giúp nhiều người dân sử dụng các biện pháp tránh thai an toàn Các cán bộ và cộng tác viên dân số đã tổ chức các đợt truyền thông tại trạm y tế, các cuộc họp tổ dân phố, và trực tiếp phát tờ rơi, cấp phát miễn phí thuốc tránh thai và bao cao su tại nhà Họ cũng tuyên truyền cho các cặp vợ chồng về việc chỉ nên sinh từ 1-2 con để nuôi dạy tốt hơn Trên địa bàn quận Long Biên, người dân đã có ý thức cao về việc sinh ít con và phát triển kinh tế gia đình Tuy nhiên, theo bảng khảo sát, tỷ lệ người dân hiểu biết về kiến thức DS-KHHGĐ vẫn còn thấp, với nhiều người chỉ nắm bắt được thông tin cơ bản và một số vẫn e ngại không quan tâm đến vấn đề này.
Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh đang trở thành vấn đề đáng lo ngại, với tỷ lệ này diễn ra ở cả 14 phường của quận, đặc biệt cao ở lần sinh thứ ba trở lên Khát vọng có con trai, ảnh hưởng từ tư tưởng Nho giáo và chế độ phụ hệ, đã hình thành tâm lý ưa thích con trai trong xã hội Quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” càng làm sâu sắc thêm vấn đề này Hơn nữa, chế độ an sinh xã hội chưa đảm bảo, đặc biệt là đối với người già không có lương hưu, khiến con trai trở thành chỗ dựa tài chính và người chăm sóc cha mẹ khi về già Công nghệ xác định giới tính cũng tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng điều chỉnh hành vi sinh sản, dẫn đến mất cân bằng giới tính nghiêm trọng trong thế hệ trẻ.
Bảng 4.15 Sự hiểu biết của người dân về kiến thức dân số - kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn quận Long Biên
1 Các biện pháp kế hoạch hóa gia đình
2 Kiến thức giới và bình đẳng giới
3 Kiến thức sàng lọc trước sinh và sơ sinh
4 Kỹ năng sống, phòng chống HIV/AIDS
5 Kiến thức chăm sóc SKSS cho phụ nữ
6 Thực trạng và hệ lụy của việc mất CBGT khi sinh
Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra (2016)
Các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình
4.3.1 Phương hướng, nhiệm vụ của hoạt động quản lý nhà nước về công tác dân số-KHHGĐ trong thời gian tới
4.3.1.1 Phương hướng của hoạt động quản lý nhà nước về công tác dân số-KHHGĐ trong thời gian tới a Mục tiêu tổng quát:
- Tiếp tục ổn định, kiện toàn bộ máy DS-KHHGĐ các phường
- Thực hiện mỗi cặp vợ chồng nên có 2 con để duy trì mức sinh hợp lý.
- Nâng cao chất lượng Dân số đảm bảo nguồn nhân lực có chất lượng b Chỉ tiêu cụ thể:
- Giảm tỷ suất sinh thô trung bình hàng năm: 0.2%o
- Giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên trung bình hàng năm: 0.06%
- Tổ dân phố không có người sinh con thứ 3+: 215 tổ
- Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên trung bình: 1.4%/năm
- Duy trì tỷ số giới tính khi sinh: 108/100
- Thực hiện hoàn thành 100% chỉ tiêu KHHGĐ
4.3.1.2 Nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác dân số-KHHGĐ trong thời gian tới
Xây dựng và triển khai hiệu quả kế hoạch hoạt động công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình hàng năm là rất quan trọng Đồng thời, cần nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình tại cộng đồng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân.
Trong giai đoạn 2016-2020, Ban Dân số các phường tại quận Long Biên đã phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành và đoàn thể nhằm thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước về Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) và triển khai Đề án nâng cao chất lượng dân số trên địa bàn.
Ba là, tổ chức truyền thông linh hoạt và sáng tạo nhằm giảm tỷ lệ sinh và sinh con thứ ba trở lên ở các phường có mức sinh cao Đơn vị tiếp tục thực hiện chương trình nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa gia đình, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu về dân số - kế hoạch hóa gia đình Định kỳ hàng năm, tổ chức sơ kết và tổng kết để đánh giá, rút kinh nghiệm trong quản lý nhà nước về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình.
Tổ chức các khóa tập huấn chuyên môn cho cán bộ và cộng tác viên trong lĩnh vực Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, bao gồm đào tạo báo cáo viên và tuyên truyền viên tại cơ sở Đồng thời, cần duy trì công tác kiểm tra và giám sát, đặc biệt là kiểm tra các cơ sở y dược liên quan đến việc chẩn đoán hình ảnh giới tính thai nhi.
4.3.2 Đề xuất các giải pháp để thực hiện tốt quản lý nhà nước về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trong thời gian tới
4.4.2.1 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động QLNN về công tác DS-KHHGĐ
Các cấp ủy Đảng và chính quyền cần tăng cường lãnh đạo và chỉ đạo trong hoạt động quản lý nhà nước về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) để nâng cao hiệu quả thực hiện Điều này có thể đạt được thông qua việc ban hành các chỉ thị, nghị quyết và chương trình hành động cụ thể, phù hợp với đặc điểm của từng địa phương Cần phân công cán bộ chủ chốt để trực tiếp lãnh đạo các hoạt động dân số theo từng địa bàn cụ thể và tiếp tục đưa các chỉ tiêu về DS-KHHGĐ vào hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh.
Cần tăng cường sự tham gia của các đoàn thể, tổ chức xã hội, khu vực tư nhân và toàn thể nhân dân vào công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) Tối ưu hóa khả năng tuyên truyền và lồng ghép dịch vụ DS-KHHGĐ cùng chăm sóc sức khỏe sinh sản vào từng gia đình và đối tượng cụ thể Các ngành, cấp cần lập kế hoạch hoạt động hàng năm, đảm bảo lồng ghép các nội dung liên quan đến DS-KHHGĐ và nâng cao chất lượng dân số, đồng thời quán triệt và triển khai nghiêm túc đến các thành viên trong ngành và cấp mình.
Tổ chức hội nghị tọa đàm để tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải pháp khắc phục tình trạng tăng sinh con thứ ba trở lên Xây dựng kế hoạch thực hiện các giải pháp phù hợp với tình hình thực tế tại các phường, đồng thời chỉ đạo Ban DS-KHHGĐ tổ chức thực hiện Đặc biệt chú trọng công tác nắm bắt tình hình đối tượng, truyền thông và tư vấn, vận động cộng đồng, cùng với việc ký cam kết với các cặp vợ chồng có nguy cơ sinh con thứ ba và lựa chọn giới tính thai nhi.
Thường xuyên kiểm tra và đôn đốc tình hình thực hiện các chính sách về dân số, kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) và nâng cao chất lượng dân số là rất quan trọng Hằng năm và mỗi 5 năm, cần tổ chức sơ kết và tổng kết để đánh giá hiệu quả thực hiện các chỉ tiêu Dựa trên kết quả đánh giá, xây dựng chương trình và kế hoạch cụ thể nhằm khắc phục những yếu kém, đề ra mục tiêu rõ ràng và giải pháp thực hiện cho các năm tiếp theo Mục tiêu là giảm nhanh tình trạng sinh con thứ 3 và khắc phục tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.
Vào thứ năm, đã có đề xuất gửi đến UBND quận về việc xây dựng chính sách khen thưởng cho các cặp vợ chồng có con gái và đạt thành tích học tập xuất sắc, nhằm giảm tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên.
4.3.2.2 Đổi mới hệ thống tổ chức làm công tác DS-KHHGĐ
Chiến lược Dân số và chăm sóc sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiện toàn hệ thống tổ chức và bộ máy làm công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình Đội ngũ cán bộ dân số từ quận, phường đến các cơ sở đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định quy mô dân số và nâng cao chất lượng dân số Do đó, thành phố Hà Nội cần đề xuất các chính sách cụ thể và hợp lý nhằm hỗ trợ đội ngũ cán bộ làm công tác dân số.
Cần có chính sách kịp thời để bố trí nguồn kinh phí cho cán bộ dân số cơ sở được biên chế theo quy định Điều này sẽ giúp xây dựng đội ngũ cán bộ dân số tại cấp phường có năng lực và tâm huyết, từ đó hỗ trợ cấp uỷ Đảng và chính quyền trong việc thực hiện các chương trình và mục tiêu về dân số - kế hoạch hoá gia đình (DS-KHHGĐ) tại địa phương, góp phần đạt được các chỉ tiêu DS-KHHGĐ của quận.
Việc duy trì mô hình tổ chức bộ máy làm công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) hiện tại, với cán bộ thường trực DS-KHHGĐ cấp phường thuộc biên chế của Trung tâm DS-KHHGĐ quận, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham mưu với UBND về công tác dân số Mô hình này cũng giúp tranh thủ sự ủng hộ và hỗ trợ tài chính từ UBND phường cho công tác DS-KHHGĐ Hiện tại, hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước vẫn áp dụng mô hình Trung tâm Dân số trực thuộc Chi Cục DS-KHHGĐ, với cán bộ dân số thường trực làm việc tại Trạm Y tế các phường.
Để nâng cao hiệu quả công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ), cần tăng cường bố trí mạng lưới đến từng tổ dân phố, đảm bảo truyền thông và cung cấp dịch vụ đến tận tay người dân Ở những khu vực đông dân và phức tạp, cần bổ sung nhân lực phù hợp dựa trên nhu cầu thực tế, nhằm hỗ trợ lãnh đạo các cấp trong việc thực hiện Chiến lược DS-SKSS giai đoạn 2011 - 2020, với nhiều dịch vụ DS-KHHGĐ được triển khai.
4.3.2.3 Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục chuyển đổi hành vi
Để nâng cao hiệu quả công tác truyền thông tại các phường, cần tăng cường hoạt động phát thanh với tần suất từ 5-7 buổi mỗi tuần Nội dung phát thanh sẽ tập trung vào các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, tuyên dương các gương người tốt, việc tốt, cùng với việc cung cấp kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình.
Để nâng cao nhận thức về công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình, cần tổ chức các buổi tuyên truyền thường xuyên, ít nhất một lần mỗi tháng, nhằm phổ biến những chủ trương và chính sách mới của Đảng và Nhà nước.
- Thường xuyên cung cấp thông tin về QLNN về công tác DS- KHHGĐ cho việc hoạch định chính sách trên địa bàn quận;
- Kẻ vẽ, làm mới các băng zôn, khẩu hiệu tại các trục đường chính trên địa bàn quận
- Tăng cường các hoạt động tuyên truyền cao điểm kỷ niệm ngày Dân số Thế giới 11/7; Ngày Dân số Việt Nam 26/12
- Tăng cường công tác tuyên truyền kiến thức chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho nam giới, tiền hôn nhân, phụ nữ quanh tuổi mãn kinh
- Đưa chính sách dân số vào quy ước cộng động tại các tổ dân phố tại các phường trên địa bàn;
- Xây dựng các mô hình điểm về đưa chính sách DS-KHHGĐ vào quy ước cộng đồng tại các phường trên địa bàn quận
4.3.2.4 Nâng cao trình độ cho cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ
- Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn kiến thức mới trong QLNN về công tác DS -KHHGĐ cho đội ngũ cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ.
- Đảm bảo chế độ trợ cấp đầy đủ đối với cán bộ thường trực và cộng tác viên theo quy định của Trung ương, thành phố
- Đối với cán bộ không tham gia tập huấn nâng cao trình độ có thể đưa vào căn cứ để đánh giá, phân loại cán bộ vào cuối năm
- Đưa chương trình tập huấn QLNN về công tác DS-KHHGĐ vào nội dung tập huấn của các ban, ngành, đoàn thể của quận
4.3.2.5 Tăng cường hoạt động chương trình kế hoạch hóa gia đình