XÂY DỰNG HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở HÀ NỘI TỪ NĂM 1958 ĐẾN NĂM 1964
Xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội từ năm
1.1.1 Chủ trương chung của Đảng về xây dựng hợp tác xã nông nghiệp
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã mở ra thời kỳ phát triển mới cho đất nước với hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau ở miền Nam và miền Bắc Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa Ngay sau giải phóng, Đảng đã lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo nền tảng cho xây dựng CNXH Nghị quyết Bộ Chính trị (9/1954) và Nghị quyết lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa II (5/1955) nhấn mạnh việc hoàn thành cải cách ruộng đất là điều kiện tiên quyết để khôi phục kinh tế Công cuộc cải cách ruộng đất đã diễn ra nhanh chóng và đến năm 1957 cơ bản hoàn thành, mặc dù gặp một số sai lầm nghiêm trọng Thành quả lớn nhất của cải cách là sự chuyển biến sâu sắc đối với nông dân và nền nông nghiệp miền Bắc, giúp nông dân thoát khỏi sự bóc lột phong kiến và trở thành những người nông dân tự do, đánh dấu một bước nhảy vọt có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử tiến hóa của giai cấp nông dân.
Cải cách ruộng đất đã tạo ra một vấn đề mới trong nông nghiệp nông thôn, đó là tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún Mặc dù đã mang lại ruộng đất cho hơn 2 triệu hộ nông dân, nhưng điều này cũng biến họ thành hơn 2 triệu đơn vị sản xuất độc lập Sự phân hóa trong nội bộ dân cư là xu thế không thể tránh khỏi trong nền sản xuất nhỏ của nông dân cá thể, và lối làm ăn này mâu thuẫn với nền sản xuất lớn XHCN Do đó, Đảng cần có chính sách cải tạo nền sản xuất nhỏ cá thể, hướng dẫn nông dân tiến tới mô hình làm ăn tập thể XHCN Hơn nữa, để phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hóa XHCN tại miền Bắc, phát triển một nền nông nghiệp đủ mạnh là yêu cầu thiết yếu.
Đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cải tạo theo hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở miền Bắc, với cải tạo nông nghiệp là khâu chính Để thực hiện nhiệm vụ này, việc hợp tác hóa và xây dựng thành công hợp tác xã (HTX) nông nghiệp là rất cần thiết.
Trước khi triển khai phong trào hợp tác hóa, Đảng đã khuyến khích phát triển hình thức đổi công trong sản xuất nông nghiệp Từ giữa năm 1955, sau hội nghị tổng kết đổi công vào tháng 3 và chỉ thị số 31 của Trung ương Đảng vào tháng 6, phong trào này đã có sự tiến triển nhanh chóng Từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1955, hoạt động đổi công diễn ra sôi nổi, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Năm 1958, tỷ lệ nông hộ tham gia tổ đổi công tăng từ 41% lên 65%, nhưng tổ đổi công vẫn chỉ là hình thức tổ chức ban đầu cho nông dân làm quen với sản xuất tập thể và chưa đủ tiềm năng để đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất Với quy mô vài chục hộ, tổ đổi công chưa có đất đai và công cụ sản xuất đáng kể, do đó không còn phù hợp trong bối cảnh mới Vì vậy, cần phải thay thế bằng hình thức hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp Đồng thời, Đảng cũng chủ trương xây dựng thí điểm một số hợp tác xã nông nghiệp để làm cơ sở thực tiễn cho công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, nhằm tích lũy kinh nghiệm và chuẩn bị điều kiện mở rộng các hợp tác xã sau này Đến tháng 10/1958, đã có những bước tiến trong việc xây dựng các hợp tác xã này.
42 HTX thí điểm Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm về mô hình xây dựng HTX nông nghiệp, hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1958 đi đến kết luận:
Hợp tác hóa nông nghiệp là yêu cầu phát triển tất yếu của nông thôn và là nhiệm vụ quan trọng của Đảng trong giai đoạn mới Để phát triển nông nghiệp, cần phải đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp nhằm xóa bỏ chế độ bóc lột và ngăn chặn sự phát triển tự phát của chủ nghĩa tư bản Điều này tạo cơ sở cho công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và củng cố khối liên minh công nông Dựa trên kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng đã quyết định tiến hành hợp tác hóa và xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp trên toàn miền Bắc, coi đây là yếu tố then chốt trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam trong các giai đoạn tiếp theo.
Hợp tác hóa là nền tảng quan trọng để thực hiện nhiệm vụ cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp, chuyển đổi từ nền nông nghiệp lạc hậu sang nền nông nghiệp XHCN tiên tiến Thực tiễn cho thấy, trong thời kỳ cách mạng XHCN, việc thay đổi quan hệ sản xuất và tổ chức lao động tập thể, cùng với phong trào thi đua XHCN, đã kích thích mạnh mẽ quần chúng nông dân Điều này không chỉ nâng cao năng suất lao động mà còn dẫn đến những sáng tạo lớn về cải tiến kỹ thuật, giúp nông nghiệp lạc hậu, chủ yếu dựa vào công cụ thô sơ và sức người, tiến bộ vượt bậc Đây là một bước tiến mới trong phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong công cuộc cách mạng XHCN ở các nước có nền kinh tế nông nghiệp còn thấp kém.
Hợp tác hóa là một yêu cầu phát triển tất yếu của nông nghiệp và nông dân, đóng vai trò quan trọng trong nhiệm vụ kinh tế và chính trị của Đảng trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Sau cải cách ruộng đất, hợp tác hóa trở thành cuộc cách mạng lớn nhất ở nông thôn, tạo điều kiện cho sự phát triển lực lượng sản xuất và thúc đẩy cách mạng kỹ thuật Mục tiêu là xây dựng quyền sở hữu tập thể về kinh tế, bao gồm kiểm soát tư liệu sản xuất, lực lượng lao động và quản lý sản xuất cũng như phân phối Trong lĩnh vực nông nghiệp, điều này được thể hiện qua việc xây dựng và củng cố sở hữu tập thể, kết nối sở hữu tập thể với sở hữu toàn dân, và thiết lập chế độ quản lý và phân phối hợp lý Đảng cũng nêu rõ rằng việc xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp cần phải đáp ứng bốn điều kiện thiết yếu.
1 “Có cơ sở đổi công khá (tức là phải có tổ đổi công thường xuyên có bình công chấm điểm làm nòng cốt)
2 Có cán bộ cốt cán (tức là chi bộ xã phải nắm và có những Đảng viên tích cực tham gia và trực tiếp lãnh đạo)
3 Quần chúng thực sự yêu cầu (tức là quần chúng thấy HTX là tốt, là có lợi cho họ, họ thật sự muốn tham gia)
4 Có cán bộ chính trị và cán bộ quản lý HTX
Tổ chức tổ đổi công, HTX sản xuất nông nghiệp, phải luôn nắm vững ba nguyên tắc: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ” [48; tr.616]
Phương châm chung trong tổ chức phong trào hợp tác hóa hiện nay là tích cực lãnh đạo và tiến bước vững chắc, hai yếu tố này có mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau Tích cực lãnh đạo yêu cầu các địa phương có đủ điều kiện phải chủ động đưa quần chúng tiến lên, đồng thời chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết Tiến bước vững chắc không phải là cản trở sự phát triển mà là đảm bảo phong trào tiến triển hiệu quả Hợp tác hóa là phong trào cách mạng của quần chúng, cần sự lãnh đạo tích cực nhưng cũng phải chuẩn bị điều kiện thật tốt Việc nhấn mạnh vào tích cực mà tách rời tiến bước vững chắc là không đúng Quần chúng có nhu cầu tham gia HTX sản xuất nông nghiệp, nhưng cần giải thích và củng cố tổ đổi công nếu điều kiện chưa đủ Ban chấp hành Trung ương nhấn mạnh rằng xây dựng HTX phải gắn liền với cải tiến kỹ thuật và đẩy mạnh sản xuất, nhằm tạo ra lực lượng sản xuất mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả sản xuất.
XHCN và bảo đảm vai trò là hậu phương lớn trong cuộc kháng chiến chống
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương (mở rộng) lần thứ 16, Mỹ cứu nước khẳng định quyết tâm đưa nông thôn miền Bắc Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua hợp tác hóa nông nghiệp.
1.1.2 Tình hình nông nghiệp Hà Nội và chủ trương của Đảng bộ Thành phố
Sau ngày giải phóng, Đảng bộ Hà Nội đã tập trung vào việc ổn định tình hình chính trị, củng cố hệ thống chính trị, và đảm bảo an ninh trật tự Đồng thời, Đảng cũng chỉ đạo đẩy mạnh cải cách ruộng đất, phục hồi và phát triển kinh tế trong giai đoạn đầu.
Sau khi giải phóng, ngoại thành Hà Nội chủ yếu bao gồm các xã thuộc hai huyện Từ Liêm và Thanh Trì, cùng một số xã phía bên kia cầu Long Biên thuộc huyện Gia Lâm Từ thời điểm tiếp quản cho đến khi cải cách ruộng đất, đơn vị hành chính vẫn được tổ chức theo hình thức thôn như trong giai đoạn từ năm 1950 trở đi.
Ngoại thành đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm an toàn chính trị và cung cấp nông sản cho nội thành, mặc dù diện tích ruộng đất tại đây hạn chế, chỉ có 10.394 hecta và được chia thành nhiều vùng khác nhau Các vùng này bao gồm những khu chuyên trồng lúa, màu, rau, hoa và cây ăn quả Sau cách mạng tháng 8 và trong kháng chiến chống thực dân Pháp, giai cấp địa chủ tại ngoại thành đã mất đi nhiều quyền lực kinh tế và chính trị, tuy nhiên, họ vẫn chiếm giữ 16,7% tổng diện tích ruộng đất, bao gồm cả ruộng công và ruộng tư, và tiếp tục bóc lột nông dân thông qua địa tô.
Vào tháng 3 năm 1955, Thành ủy đã đưa ra các biện pháp khẩn cấp nhằm quản lý ruộng đất ngoại thành, trong đó quy định rằng ruộng công và ruộng bán công bán tư thuộc quyền sở hữu của nông dân sẽ được giữ nguyên, còn nếu nằm trong tay địa chủ thì sẽ được thu hồi hoặc vận động lấy lại để cấp cho những người thiếu ruộng; đồng thời cấm việc bán và hiến tặng ruộng đất.
Từ ngày 12 đến 15/10/1955, Thành ủy Hà Nội đã tổ chức cuộc họp để thảo luận về nhiệm vụ cải cách ruộng đất Tại đây, hội nghị nhận định rằng tính chất chiếm hữu ruộng đất và thành phần xã hội ở nông thôn ngoại thành có sự phức tạp và khác biệt so với các vùng nông thôn khác, từ đó đưa ra chủ trương phù hợp cho quá trình cải cách.
Tăng cường chỉ đạo đưa hợp tác xã nông nghiệp Hà Nội từ bậc thấp lên bậc cao từ năm 1961 đến năm 1964 1 Chủ trương chung của Đảng ……………………… 30 30 2 Sự vận dụng của Đảng bộ Hà Nội và quá trình tổ chức thực hiện
1.2.1 Chủ trương chung của Đảng
Tháng 9 năm 1960 Đảng Lao động Việt Nam họp Đại hội toàn quốc lần thứ III Đại hội khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm mục tiêu chung giải phóng miền Nam thống nhất đất nước Trong đó, khẳng định cách mạng miền Bắc giữ vai trò quyết định trong công cuộc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước Trên cơ sở thành tựu của ba năm cải tạo XHCN ở miền Bắc, Đại hội quyết định: Ban chấp hành Trung ương có nhiệm vụ vạch ra kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm mục tiêu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa XHCN, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH Đây được coi là một ngoặc vô cùng quan trọng xác định rõ nhiệm vụ của toàn dân trong thời kỳ mới, kiên quyết đưa miền Bắc tiến lên CNXH
Kế hoạch 5 năm tập trung vào việc phát triển mạnh mẽ công nghiệp và nông nghiệp, ưu tiên cho công nghiệp nặng, đồng thời thúc đẩy nông nghiệp toàn diện và phát triển công nghiệp nhẹ cũng như công nghiệp thực phẩm Mục tiêu cuối cùng là chuẩn bị cơ sở để chuyển đổi đất nước thành một nền công nghiệp và nông nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong kế hoạch 5 năm tới, Đảng đặc biệt chú trọng đến nông nghiệp, với các chủ trương nhằm củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được thiết lập trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
Để phát triển bền vững, chúng ta cần tập trung vào nông nghiệp, tận dụng điều kiện khí hậu nhiệt đới, giải quyết vững chắc vấn đề lương thực Đồng thời, cần đẩy mạnh phát triển các ngành khác trong nông nghiệp, dựa trên nền tảng nông nghiệp ngày càng phát triển, tiến tới từng bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Vào ngày 27/1/1961, Bộ Chính trị (khóa III) đã ban hành nghị quyết nhằm củng cố hợp tác xã (HTX) nông nghiệp, tập trung vào ba nhiệm vụ chính: củng cố HTX, mở rộng quy mô HTX và phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện Đặc biệt, nghị quyết nhấn mạnh việc mở rộng quy mô HTX, hợp nhất các HTX nhỏ thành HTX lớn hơn để tăng cường lực lượng sản xuất Mục tiêu là nâng cao năng lực sản xuất của HTX, chuẩn bị cho việc đưa HTX từ bậc thấp lên bậc cao trong năm tới Đến tháng 7 năm 1961, Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, xác định rõ các mục tiêu này.
Trong 5 năm tới, cần tăng cường lực lượng hợp tác xã (HTX) về kinh tế, tổ chức và tư tưởng, hoàn thành việc cải tạo để phát huy tính ưu việt của HTX Mục tiêu là đảm bảo sản xuất lương thực, cây công nghiệp, chăn nuôi, và phát triển sản xuất toàn diện theo kế hoạch Nhà nước, từ đó tăng thu nhập và cải thiện đời sống xã viên, đồng thời chấp hành đầy đủ các chủ trương, chính sách và nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Trung ương Đảng quyết định triển khai một cuộc vận động chính trị sâu rộng nhằm khuyến khích quần chúng nhân dân tích cực củng cố và phát triển hợp tác xã (HTX), với mục tiêu nâng quy mô HTX lên từ 150 đến 200 hộ xã viên, đồng thời từng bước nâng cao vị thế của HTX.
Sau khi hoàn thành cơ bản HTX nông nghiệp, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là củng cố kinh tế HTX, đồng thời mở rộng quy mô và nâng cao cấp bậc của HTX Hai bước này cần được thực hiện đồng thời, dựa trên yêu cầu thực tế của sản xuất và phải được tiến hành một cách vững chắc, lấy kết quả sản xuất làm tiêu chuẩn đánh giá Việc nâng cao quy mô HTX từ nhỏ lên lớn và từ bậc thấp lên bậc cao là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam, đặc biệt khi các HTX bậc thấp còn tồn tại nhiều yếu tố lạc hậu.
Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ban đầu phát triển từ thấp đến cao qua ba bước: tổ đổi công, hợp tác xã (HTX) bậc thấp và HTX bậc cao, nhằm giúp nông dân làm quen với phương thức sản xuất tập thể và phù hợp với trình độ quản lý của cán bộ HTX Khi phong trào đã phát triển mạnh mẽ, nông dân có thể được chuyển từ tổ đổi công lên HTX bậc cao hoặc tổ chức những hộ làm ăn riêng lẻ vào HTX bậc thấp hay bậc cao mà không cần tuân theo ba bước đã định.
Việc nâng cấp từ hợp tác xã (HTX) bậc thấp lên bậc cao là rất quan trọng, tạo nền tảng vật chất cho sự phát triển của nông dân miền Bắc Chỉ có HTX bậc cao mới có khả năng tạo ra những đột phá trong nông nghiệp, giúp thúc đẩy nền nông nghiệp lạc hậu và manh mún tiến lên, từ đó xây dựng cơ sở kinh tế vững chắc cho sự phát triển bền vững của miền Bắc.
Quá trình chuyển đổi hợp tác xã (HTX) nông nghiệp từ bậc thấp lên bậc cao cần gắn liền với việc mở rộng quy mô HTX, đánh dấu sự chuyển biến chất lượng quan trọng Khi quy mô HTX tăng lên, yêu cầu về mọi mặt cũng cao hơn, đòi hỏi HTX bậc thấp phải thay đổi để đáp ứng Nghị quyết 13 NQ/TW ngày 27/01/1961 nhấn mạnh việc mở rộng quy mô HTX nhằm củng cố và chuẩn bị cho sự chuyển đổi từ bậc thấp lên bậc cao, góp phần xóa bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và thiết lập sở hữu tập thể Công tác này cần được thực hiện thận trọng, phù hợp với yêu cầu khách quan và có cơ sở vật chất cũng như tư tưởng vững chắc Trung ương Đảng khẳng định rằng việc chuyển HTX bậc thấp lên bậc cao phải tuân thủ ba điều kiện theo nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 16.
Năng suất của hợp tác xã (HTX) đã được cải thiện đáng kể, với phần chia cho lao động tăng cao, đảm bảo đời sống cho các xã viên già yếu và có ít sức lao động.
2 Việc giáo dục tư tưởng XHCN cho xã viên làm được tốt, nâng cao được ý thức đoàn kết, giúp nhau giữa các xã viên
3 Việc quản lý HTX làm tốt, cán bộ quản lý được bồi dưỡng về nghiệp vụ, thực hiện đúng nguyên tắc quản lý dân chủ, được quần chúng xã viên tín nhiệm
Để một hợp tác xã (HTX) bậc thấp có thể nâng cấp lên bậc cao, điều kiện tiên quyết là phải tăng năng suất lao động và thu nhập cho xã viên HTX cần có năng suất lao động được cải thiện, kỹ thuật sản xuất tiến bộ, và phát triển toàn diện với vốn tích lũy đáng kể Sau khi nâng cấp, ít nhất 90% hộ xã viên cần có thu nhập tăng lên rõ rệt Bên cạnh đó, Trung ương cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tư tưởng xã viên và trình độ quản lý của cán bộ, không được xem nhẹ những yếu tố này.
Cuối năm 1962 và đầu năm 1963, Bộ Chính trị đã phát động cuộc vận động "cải tiến quản lý HTX, cải tiến kỹ thuật" nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện và bền vững Mục tiêu chính là cải thiện đời sống của nông dân và nhân dân, củng cố sức mạnh của HTX sản xuất nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu của nhà nước và hoàn thành vượt mức kế hoạch 5 năm lần thứ nhất Cuộc vận động này nhằm biến nông nghiệp thành nền tảng vững chắc cho sự phát triển công nghiệp, góp phần vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh cho hòa bình, thống nhất đất nước.