Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về quản lý bảo hiểm thất nghiệp
Cơ sở lý luận về quản lý bảo hiểm thất nghiệp
2.1.1 Một số khái niệm liên quan
2.1.1.1 Khái niệm về lao động
Quá trình lao động là sự kết hợp giữa ba yếu tố sản xuất: sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động Trong đó, mối quan hệ giữa con người và tư liệu lao động đóng vai trò quan trọng nhất.
Trong quá trình lao động, mỗi người có thể sử dụng một hoặc nhiều công cụ lao động khác nhau, đồng thời vận hành và điều khiển nhiều thiết bị với mức độ hiện đại đa dạng.
Mối quan hệ giữa tư liệu lao động và sức lao động thể hiện qua nhiều yếu tố quan trọng Đầu tiên, yêu cầu của máy móc thiết bị cần phải phù hợp với trình độ kỹ năng của người lao động Thứ hai, khả năng điều khiển và công suất của thiết bị phải tương thích với thể lực của con người Thứ ba, tính chất và đặc điểm của thiết bị có ảnh hưởng đến tâm sinh lý của người lao động Cuối cùng, sự cân đối giữa số lượng công cụ thiết bị và số lượng lao động cũng là một yếu tố quyết định trong mối quan hệ này.
Mối quan hệ giữa con người và đối tượng lao động thể hiện rõ ràng qua kỹ năng và hiệu suất lao động, liên quan đến khối lượng và loại hình lao động cần thiết Thời gian cung cấp các đối tượng lao động cũng cần phải phù hợp với quy trình công nghệ và trình tự lao động để đạt hiệu quả tối ưu.
Mối quan hệ giữa người lao động trong môi trường làm việc bao gồm các khía cạnh như: mối quan hệ giữa lao động quản lý và lao động sản xuất, sự tương tác giữa lao động công nghệ và lao động phụ trợ, cũng như mối quan hệ hợp tác giữa các loại hình lao động khác nhau (Nguyễn Văn Định, 2008).
2.1.1.2 Khái niệm về thất nghiệp
Thất nghiệp là tình trạng mà người lao động mong muốn có việc làm nhưng không thể tìm được, hoặc là khi người lao động đã có việc làm nhưng bị mất việc.
Thất nghiệp là một vấn đề phổ biến trong nền kinh tế, phản ánh tình trạng mà một bộ phận lực lượng lao động không có việc làm và đang tích cực tìm kiếm cơ hội việc làm mới.
Thất nghiệp gây ra tình trạng không có thu nhập cho người lao động, đồng thời họ vẫn phải chi tiêu cho việc tìm kiếm việc làm Điều này không chỉ ảnh hưởng đến tài chính mà còn làm suy giảm đời sống tinh thần của người lao động và gia đình họ Các nhà xã hội học cho rằng thất nghiệp là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến các tệ nạn xã hội.
Thất nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến người lao động mà còn tác động tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế, dẫn đến lãng phí nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, và làm giảm tổng sản lượng kinh tế Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp buộc xã hội phải chi tiêu cho các khoản trợ cấp thất nghiệp và các biện pháp chống lại cũng như khắc phục các tệ nạn xã hội phát sinh từ thất nghiệp (Nguyễn Văn Định, 2008).
Có nhiều tiêu chí để phân loại thất nghiệp Cụ thể:
Thất nghiệp có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau, bao gồm giới tính, lứa tuổi, vùng lãnh thổ, ngành nghề, và dân tộc, chủng tộc (Bảo hiểm xã hội Việt Nam, 2010b).
Căn cứ vào lý do thất nghiệp, có các loại thất nghiệp sau:
Thất nghiệp do tự ý bỏ việc xảy ra khi những người lao động quyết định xin thôi việc vì nhiều lý do khác nhau, bao gồm mức lương thấp, công việc không phù hợp với khả năng và sở thích, hoặc khoảng cách địa lý đến nơi làm việc quá xa.
(2) Thất nghiệp do mất việc là NLĐ không có việc làm do chủ sử dụng lao động cho thôi việc vi một lý do nào đó.
Thất nghiệp đối với những người mới gia nhập thị trường lao động là vấn đề phổ biến Họ là những người lần đầu tiên tìm kiếm việc làm và đang nỗ lực tích cực để có được cơ hội việc làm phù hợp.
Thất nghiệp do quay lại xảy ra khi những người lao động đã rời khỏi lực lượng lao động muốn trở lại làm việc nhưng chưa tìm được việc Dựa vào nguyên nhân thất nghiệp, có thể phân loại thành nhiều loại khác nhau.
Thất nghiệp dai dẳng là tình trạng không thể giảm mức thất nghiệp tối thiểu trong nền kinh tế năng động Nó bao gồm những người tạm thời không có việc làm trong quá trình chuyển đổi công việc, phản ánh sự thay đổi liên tục của lực lượng lao động và nhu cầu tuyển dụng.
Thất nghiệp do cơ cấu xảy ra khi có sự không đồng bộ giữa tay nghề và trình độ đào tạo của người lao động với nhu cầu việc làm trong bối cảnh thay đổi sản xuất Hiện tượng này thường xuất hiện khi có sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế, dẫn đến mất cân đối giữa cung và cầu trên thị trường lao động.
Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Kinh nghiệm quản lý bảo hiểm thất nghiệp trên thế giới
2.2.1.1 Kinh nghiệm quản lý bảo hiểm thất nghiệp ở Hàn Quốc
Hệ thống chính sách bảo hiểm việc làm của Hàn Quốc, theo Dương Thị Hồng Khánh Vân (2011), được coi là toàn diện, bao gồm cả chính sách thị trường lao động và bảo hiểm xã hội Chính sách này không chỉ cung cấp trợ cấp thất nghiệp mà còn thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu ngành, ngăn ngừa thất nghiệp và phát triển kỹ năng nghề cho người lao động Bộ lao động chịu trách nhiệm hướng dẫn thực hiện chính sách, trong khi Cơ quan phúc lợi lao động Hàn Quốc thực hiện thu bảo hiểm và các văn phòng lao động địa phương chi trả chế độ bảo hiểm việc làm qua tài khoản cá nhân.
Hệ thống chính sách bảo hiểm việc làm của Hàn Quốc bao gồm ba thành phần chính: chương trình bảo đảm việc làm, chương trình phát triển kỹ năng nghề, và trợ cấp thất nghiệp Những chính sách này nhằm hỗ trợ người lao động trong việc duy trì công việc, nâng cao kỹ năng và đảm bảo nguồn thu nhập trong trường hợp thất nghiệp.
Trách nhiệm đóng góp bảo hiểm việc làm được xác định cho người sử dụng lao động và người lao động tùy theo mỗi một loại hình hoạt động.
Một trong những thách thức lớn trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm việc làm, đặc biệt là bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), là mức độ tuân thủ, đặc biệt tại các doanh nghiệp nhỏ đối với người lao động hưởng tiền lương ngày Tại Hàn Quốc, tỷ lệ tuân thủ hiện nay đạt 73,4% Trong thị trường lao động Hàn Quốc, người lao động được phân loại thành lao động thường xuyên, lao động tạm thời và lao động theo ngày Lao động tạm thời có thể làm việc với thời hạn xác định hoặc không xác định và thường bị sa thải mà không nhận được trợ cấp Người lao động hưởng tiền lương ngày thường có hợp đồng ngắn hạn và tự động chấm dứt khi hết thời gian thuê Nhiều chủ sử dụng lao động không muốn báo cáo hai nhóm lao động này cho các mục đích bảo hiểm xã hội, do quản lý yếu kém và thiếu quy định về lưu trữ hồ sơ cho nhóm lao động này.
Bảng 2.1 So sánh quy định bảo hiểm thất nghiệp ở Hàn Quốc và Việt Nam
6 Thời gian hưởng Nguồn: Dương Thị Hồng Khánh Vân (2011)
Một trong những thách thức trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm việc làm và chương trình bảo hiểm thất nghiệp là chất lượng việc làm giảm sút do mức độ an toàn thấp Điều này làm giảm động lực cho các doanh nghiệp trong việc đào tạo người lao động, dẫn đến sự phát triển chậm chạp của các dịch vụ việc làm, chẳng hạn như dịch vụ tư vấn việc làm.
2.2.1.2 Kinh nghiệm quản lý bảo hiểm thất nghiệp ở Đức
Theo Dương Thị Hồng Khánh Vân (2011): Tại Đức BHTN bắt đầu thực hiện vào năm 1919 và chính thức hóa bằng một bộ luật vào năm 1927 BHTN do
Cơ quan lao động liên bang có chức năng thu, chi và quản lý quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), đồng thời thực hiện tư vấn và giới thiệu việc làm cho người lao động cũng như người sử dụng lao động.
Cơ cấu tổ chức của cơ quan lao động bao gồm Hội đồng quản trị, được thành lập với sự tham gia của ba nhóm thành viên: 1/3 do Liên hiệp công đoàn đề cử, 1/3 do Hiệp hội giới chủ đề cử, và 1/3 do chính quyền cùng cấp đề cử.
Trung tâm thông tin cung cấp cho người lao động các thông tin quan trọng về đặc điểm công việc, yêu cầu nghề nghiệp, và các cơ sở dạy nghề trong khu vực và toàn quốc Ngoài ra, trung tâm còn cập nhật nhu cầu tuyển dụng lao động từ nhiều doanh nghiệp trong khu vực và trên toàn quốc.
Trung tâm tư vấn trực tiếp và tư vấn qua điện thoại cung cấp thông tin cho người lao động, bao gồm cả học sinh THCS, về việc chọn nghề và việc làm Trung tâm hỗ trợ người lao động đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng và triển khai các biện pháp giúp nhóm người lao động có hoàn cảnh đặc biệt tái hòa nhập thị trường lao động hiệu quả.
Bộ phận chăm sóc khách hàng là người sử dụng lao động.
Bộ phận tiếp nhận thông tin và đăng ký thất nghiệp.
Bộ phận kế toán có nhiệm vụ tính toán mức và thời gian được hưởng tiền thất nghiệp.
Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được quản lý tập trung tại cơ quan lao động liên bang, với số tiền thu được sử dụng cho nhiều mục đích quan trọng Các khoản chi bao gồm tiền trợ cấp cho người thất nghiệp, đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng, sửa chữa và duy trì hoạt động của hệ thống lao động toàn liên bang Ngoài ra, quỹ còn được dùng để chi lương cho cán bộ nhân viên và các khoản phúc lợi, khen thưởng khác.
Hàng năm, Hội đồng quản trị lập dự toán các khoản thu – chi, trình Quốc hội phê chuẩn.
Cơ quan lao động liên bang có trách nhiệm bảo toàn và phát triển quỹ của mình thông qua việc gửi tiền vào các ngân hàng công.
Sau một năm hoạt động, cơ quan kiểm toán đã tiến hành kiểm toán toàn bộ hoạt động tài chính của cơ quan lao động liên bang, dựa trên kết quả kiểm toán để đánh giá tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý tài chính.
Quốc hội sẽ phê duyệt dự toán thu – chi và mức chi BHTN hàng năm (Dương Thị Hồng Khánh Vân, 2011).
Bảng 2.2 So sánh quy định bảo hiểm thất nghiệp ở Đức và Việt Nam
2.2.2 Kinh nghiệm quản lý bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
2.2.2.1 Kinh nghiệm của bảo hiểm xã hội thành phố Hồ Chí Minh
Đầu tiên, cần tận dụng sự chỉ đạo của UBND thành phố để nhận được sự hỗ trợ từ các ngành và cấp trong việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo hiểm xã hội (BHXH), đặc biệt là trong công tác xử lý các vấn đề liên quan.
DN vi phạm cố ý, chỉ đạo BHXH quận, huyện cần tích cực tham mưu để UBND cấp quận, huyện ban hành văn bản chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể phối hợp chặt chẽ với cơ quan BHXH nhằm hoàn thành mục tiêu mở rộng đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn.
Sở Kế hoạch - Đầu tư sẽ cung cấp danh sách định kỳ các doanh nghiệp mới thành lập để BHXH yêu cầu thực hiện thủ tục đóng BHXH, BHYT, BHTN Đồng thời, phối hợp với ngành Thuế để thống kê các doanh nghiệp đang hoạt động có sử dụng lao động và đối chiếu với danh sách đã tham gia BHXH, BHYT, BHTN Qua đó, xác định các doanh nghiệp chưa tham gia để có biện pháp đốc thu hiệu quả Cơ quan BHXH thành phố Hồ Chí Minh nhận định rằng sự phối hợp này là yếu tố then chốt cho thành công trong công tác thu.
Thứ ba, tổ chức thu các DN mới phát hiện:Căn cứ danh sách và địa chỉ các
Sở Kế hoạch - Đầu tư và Cục Thuế chưa cung cấp thông tin cho DN, trong khi BHXH thành phố đã giao nhiệm vụ thu kế hoạch Nhiệm vụ này tập trung vào việc phát triển và mở rộng đối tượng cho phòng Thu và BHXH tại các quận, huyện theo phân cấp (Dương Thị Hồng Khánh Vân, 2011).