ĐỐI TƯỢNG NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Quần thể loài cò Thìa (Platalea minor) phân bố trong khu vực VQG
Nghiên cứu này tập trung vào bốn nhóm yếu tố sinh thái quan trọng ảnh hưởng đến phân bố và tái sinh tự nhiên của loài nghiên cứu Các yếu tố này bao gồm điều kiện khí hậu, đặc điểm địa hình, loại đất và tương tác sinh học trong hệ sinh thái Việc hiểu rõ những yếu tố này là cần thiết để bảo tồn và phát triển bền vững loài.
Yếu tố địa lý và địa hình, bao gồm tọa độ UTM và vị trí, đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập bản đồ phân bố và xây dựng cơ sở dữ liệu sinh thái cho loài Cò Thìa (Platalea minor) thông qua công nghệ GIS.
- Yếu tố khí hậu - Thủy văn: Lượng mưa trung bình năm, nhiệt độ không khí, ánh sáng (Lux) và cự ly đến sông suối gần nhất
- Yếu tố khu hệ thực vật: Kiểu rừng, trạng thái, độ tàn che, loài thảm thực bì, tỷ lệ che phủ thực bì
- Yếu tố sinh vật – con người: tham gia vào quá trình phát sinh những kiểu phụ nhân tác, trong đó nhân tố con người là quan trọng nhất
Đề tài này đưa ra các giải pháp và biện pháp kỹ thuật sinh thái học nhằm đánh giá tình trạng sinh cảnh sống của loài cò Thìa (Platalea minor) tại Vườn Quốc gia Xuân Thủy Mục tiêu là bảo tồn loài và nâng cao hiểu biết về môi trường sống của chúng.
Địa điểm và thời gian tiến hành
3.2.1 Địa điểm: Địa điểm nghiên cứu tại VQG Xuân Thủy - Nam Định Vườn quốc gia Xuân Thuỷ nằm phía Đông - Nam huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định, bao gồm phần Bãi Trong , Cồn Ngạn, Cồn Lu, Cồn Xanh (Cồn Mơ)
- Từ 20 0 10' đến 20 0 15' vĩ độ bắc
- Từ 106 0 20' đến 106 0 32' kinh độ đông
Hình 3.1: Ảnh viễn thám vườn quốc gia Xuân Thủy – Nam Định
Tuần từ ngày 9/1/2012 đến ngày 30/5 năm 2012.
Nội dung nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi
- Điều kiện tự nhiên VQG Xuân Thủy – Nam Định
- Đặc điểm hình thái của loài cò Thìa (Platalea minor)
- Tình trạng của loài cò Thìa tại VQG Xuân Thủy
- Đặc điểm sinh cảnh sống của loài cò Thìa (Platalea minor) tại VQG
- Các yếu tố chủ quan và khách quan làm ảnh hưởng tới sự suy giảm về số lượng loài cò Thìa (Platalea minor) tại VQG Xuân Thủy
Ứng dụng công nghệ Viễn Thám và GIS trong việc xây dựng bản đồ phân cấp thích nghi cho sinh cảnh sống của loài cò Thìa (Platalea minor) tại Vườn Quốc Gia không chỉ giúp xác định các khu vực sinh sống quan trọng mà còn hỗ trợ trong việc bảo tồn và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên hiệu quả Việc phân tích dữ liệu không gian cho phép các nhà nghiên cứu đánh giá tình trạng sinh cảnh và đưa ra các biện pháp bảo vệ phù hợp, góp phần vào sự phát triển bền vững của loài này trong môi trường tự nhiên.
Phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Phương pháp luận nghiên cứu
Phân bố vùng sinh thái của loài cò Thìa (Platalea minor) bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố tổng hợp, bao gồm cả khí hậu khu vực và các yếu tố tiểu hoàn cảnh rừng như địa hình, nhiệt độ, sinh cảnh sống và dinh dưỡng Những nhân tố này có mối quan hệ chặt chẽ và tương tác lẫn nhau Do đó, việc nghiên cứu các yếu tố sinh thái ảnh hưởng đến phân bố của loài cò Thìa cần phải được thực hiện từ một góc nhìn tổng hợp, không thể tách rời từng yếu tố riêng lẻ.
Phương pháp tiếp cận vấn đề này dựa vào việc thu thập dữ liệu sinh thái tổng hợp liên quan đến phân bố và sinh thái loài trên hiện trường Sử dụng phân tích thống kê hồi quy đa biến giúp xác định các nhân tố sinh thái ảnh hưởng tổng hợp, khắc phục nhược điểm của phương pháp nghiên cứu truyền thống Đồng thời, việc áp dụng công nghệ GIS hỗ trợ chồng ghép các nhân tố sinh thái thành các điểm, tạo lập cơ sở dữ liệu sinh thái phục vụ quy hoạch bảo tồn và phát triển loài nghiên cứu.
3.4.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Kết hợp dữ liệu GIS với các lớp thông tin môi trường và xử lý bằng máy tính giúp hiển thị kết quả một cách dễ hiểu Chúng tôi xây dựng các bản đồ với tỷ lệ phù hợp cho các đối tượng nghiên cứu, sử dụng ảnh viễn thám LAND SAT (2003), SPOT (2007) và SPOT-4 (2010) để bổ sung dữ liệu vào GIS Đồng thời, số hóa các lớp thông tin từ các bản đồ nền và xây dựng cơ sở dữ liệu cùng bản đồ phân vùng sinh thái dựa trên các tiêu chí thực tế.
3.4.2.2 Phương pháp thu thập số liệu:
- Thu thập số liệu sơ cấp: kết quả điều tra khảo sát, theo chu kì 2 tháng
1 lần tại các địa điểm khác nhau
Việc thu thập số liệu thứ cấp bao gồm việc tìm kiếm và tổng hợp các báo cáo, tài liệu, niêm gián thống kê, cũng như thông tin từ báo chí, truyền hình, internet và các nghiên cứu trước đây để phục vụ cho việc phân tích và nghiên cứu.
3.4.2.3 Phương pháp tổng hợp, so sánh:
Dựa trên các số liệu thu thập được, chúng tôi tiến hành tổng hợp, so sánh và phân tích các chỉ tiêu để đưa ra nhận xét và kết luận về sự thay đổi Các yếu tố như hệ thực vật, nguồn thức ăn, mức độ ngập, độ mặn và tác động của con người được xem xét kỹ lưỡng Từ đó, chúng tôi xây dựng tiêu chí và lập bản đồ đánh giá các sinh cảnh sống của loài cò Thìa (Platalea minor), cung cấp nguồn dữ liệu cho GIS và đảm bảo độ tin cậy trong nghiên cứu.
3.4.2.4 Cơ sở tiêu chí chấm điểm
Mỗi điểm được đánh giá dựa trên sự kết hợp của các nhóm đặc trưng cho từng đối tượng, chỉ lựa chọn những yếu tố tạo ra sự phân nhóm rõ ràng Các yếu tố này được đối chiếu với yêu cầu tối thiểu về đặc điểm sinh thái của một số loài khác tại từng điểm Tổng điểm cao hơn cho thấy sự phù hợp tốt hơn với lối sống của loài cò Thìa.
(Platalea minor), các tiêu chí gồm:
1) Mức độ ngập: Phân vùng ngập dựa trên cơ sở mực nước thủy triều (Hmax) và địa hình phù hợp với lối sống kiếm ăn của loài cò Thìa (Platalea minor) Khả năng ngập nước được phân chia thành 4 mức độ (tổ hợp của 2 nhân tố: độ ngập + thời gian ngập) được thể hiện ở bảng 3.1
Bảng 3.1: Biểu phân cấp về mực nước để đánh giá lối kiếm ăn của loài cò Thìa (Platalea minor)
Cấp độ Độ ngập sâu Thời gian ngập
Ngập > 25cm Ngập từ 15.1 - 20 cm Ngập từ 20.1 - 25 cm Không ngập hay ngập nông 0 - 15 cm
2) Độ mặn: Dựa vào thời gian xâm ngập mặn và bản đồ đẳng mặn 5 0 /00 của các khu trong vùng nghiên cứu Có 3 mức phân cấp được trình bày trong bảng 3.2:
Bảng 3.2: Biểu phân cấp độ mặn theo thời gian để phân vùng sinh thái loài cò Thìa (Platalea minor) Mức độ Khả năng xâm nhập mặn Độ mặn
(g/l) thời gian ảnh hưởng mặn
Mặn xâm nhập thường xuyên
Mặn xâm nhập bán thường xuyên
Không bị mặn xâm nhập
Hàng ngày Trên 12h/ ngày Dưới 12h/ngày
3) Lượng mưa: Lượng mưa/năm được chia thành 2 cấp: từ 1.520 -1.700mm và từ 1.701 - 1.850mm Tuy nhiên, khi tổ hợp các tiêu chí khác thì yếu tố lượng mưa không có sự phân nhóm rõ ràng đối với các vùng sinh thái cò Thìa (Platalea minor)
4) Hệ thực vật: Độ che phủ thực vật, thành phần loài thực vật ảnh hưởng đến chu trình thức ăn tự nhiên Vai trò của lớp phủ thực vật là tạo độ che bóng, cải thiện vi khí hậu, làm khu trú ngụ cho loài cò Thìa
(Platalea minor) Tiêu chí thảm thực vật đưa vào trong phân vùng được chia thành 3 mức:
Bảng 3.3: Biểu phân cấp thảm thực vật theo (%) để phân vùng sinh thái loài cò Thìa (Platalea minor)
Mức độ Thảm thực vật Độ che phủ
Thảm thực vật nghèo nàn Thảm thực vật phát triển trung bình Thảm thực vật đa dạng
5) Sinh cảnh: Ta nghiên cứu chuỗi thức ăn của loài cò Thìa (Platalea minor) với các loài khác trong cùng sinh cảnh Từ đó đánh giá được từng vùng sinh cảnh sống có các lượng thức ăn khác nhau phù hợp với lối kiếm ăn của từng sinh cảnh
Bảng 3.4: Biểu phân cấp sinh cảnh theo nguồn thức ăn để phân vùng sinh thái loài cò Thìa (Platalea minor)
Mức độ Sinh cảnh Nguồn thức ăn
Các cồn nhỏ Bãi bồi ven sông Đầm tôm canh tác có rừng ngập mặn
Nghèo nàn Trung bình Phong Phú
6) Tác động của con người: Sự xuất hiện của con người tại khu vực và thay đổi cảnh quan, sinh cảnh cò Thìa (Platalea minor) làm cho chúng di chuyển và tránh xa khu dân cư, dẫn đến mất sinh cảnh sống của cò
Bảng 3.5: Biểu phân cấp tác động của con người theo khoảng cách đến đường mòn gần nhất để phân vùng sinh thái cò Thìa (Platalea minor)
Mức độ Tác động Khoảng cách đến đường mòn gần nhất (m)
Cao thấp Trung bình không tác động
3.4.3 Thiết bị, công nghệ và tư liệu sử dụng trong nghiên cứu
Phần mềm ENVI 4.5 là công cụ mạnh mẽ cho phân tích và xử lý ảnh viễn thám, tích hợp các chức năng phân tích ảnh hiện đại để cung cấp thông tin chính xác và chi tiết Với giao diện thân thiện và khả năng tương thích cao với nhiều định dạng ảnh và GIS, ENVI được phát triển bởi ITT Corporation, Mỹ, mang lại trải nghiệm sử dụng dễ dàng cho người dùng.
- Phần mềm ArcGis 9.3 có chức năng biên tập và thống kê bản đồ
- Máy tính cấu hình cao để xử lý đồ hoạ
- Tư liệu ảnh viễn thám Spot- 4 năm 2010 khu vực huyện Giao Thủy - tỉnh Nam Định ở dạng số với độ phân giải 20 m
- Các số liệu thuộc tính thu thập từ thực tế
- Thiết bị đo đạc, khảo sát thực địa như GPS
- Các văn bản liên quan của nhà nước và của địa phương
3.4.4 Quy trình thành lập bản đồ phân vùng sinh cảnh sống cho loài cò Thìa (Platalea minor)
- Việc xây dựng bản đồ phân vùng sinh sống của loài cò Thìa (Platalea minor) tuân theo quy trình sau:
Hình 3.2: Sơ đồ thành lập bản đồ phân vùng sinh cảnh của loài cò Thìa
Thu thập ảnh viễn thám Số liệu thứ cấp Dã ngoại sợ bộ
Tăng cường ảnh, tiền xử lý ảnh Kế hoạch phân lớp
Phân lớp ảnh Đánh giá độ chính xác
Các lớp của ảnh Điều tra thực địa
Chồng ghép các lớp Tạo lớp điểm cò Bản đồ sản phẩm
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Đặc điểm điều kiện tự nhiên VQG Xuân Thủy
Cửa sông Ba Lạt, nằm trong hệ thống đồng bằng châu thổ sông Hồng, là cửa sông lớn nhất của sông Hồng đổ ra biển, thuộc hai huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Giao Thủy (Nam Định) Khu vực này có hình dạng cánh cung với bờ biển dài khoảng 35km từ cửa Lân đến cửa Hà Lạn, chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam Cửa Ba Lạt có dạng lồi, phát triển các cồn cát trong vùng biển hở và mở rộng trong điều kiện thủy triều trung bình Đặc biệt, nơi đây có tốc độ biến đổi đường bờ rất nhanh và phức tạp, là một trong những vùng xói lở và bồi tụ mạnh nhất của đồng bằng châu thổ sông Hồng.
Hình 4.1: Vị trí địa lý khu vực nghiên cứu
Khu vực cửa Ba Lạt có địa hình đồng bằng thấp, với độ cao từ 0,5 - 3 m, nghiêng nhẹ về phía biển và độ dốc ven bờ rất nhỏ (0,004 - 0,012m) Địa hình được chia thành hai vùng chính: vùng trũng nội đồng cao từ 0,5m - 0,6m và vùng đất cao ven biển cao từ 1,5m - 1,7m, bị cắt ngang bởi hệ thống luồng lạch và bãi tích tụ ngầm Lòng dẫn sông và các lạch phụ như lạch Vọp, lạch Trà có hình dạng không đối xứng, với trắc diện dọc dạng sóng mềm mại dần nâng cao về phía biển, nơi phát triển nhiều luống cát ngầm Khu vực này cũng có sự phát triển mạnh mẽ của rừng ngập mặn ở những nơi khuất gió sau các cồn chắn, nhờ điều kiện lắng đọng tốt do không bị sóng tác động.
Ngoài địa hình tự nhiên, khu vực còn có các địa hình nhân tạo nổi bật, đặc biệt là hệ thống đê ngăn lũ và đê biển Những công trình này được xây dựng bằng đất qua nhiều giai đoạn, với độ cao bề mặt đê dao động từ 3,8m đến 4,5m (Nguyễn Viết Cách, 2006).
Thổ nhưỡng khu vực cửa Ba Lạt được hình thành từ phù sa sông Hồng theo nguyên lý động lực sông - biển, với các dải đất hình sin song song với các con đê biển Khu vực này bao gồm đất mặn, đất cát và đất phù sa Đất mặn tập trung ven biển, bị ảnh hưởng mặn do gần cửa sông, với thành phần cơ giới chủ yếu là thịt trung bình, một phần là thịt nhẹ, pha lẫn sét và cát, thường chưa ổn định Đất lầy mặn nằm ở vị trí thấp nhất của bãi triều, có lớp bùn sét loãng trên bề mặt, dưới là lớp cát pha sét hoặc sét pha cát chưa cố định, tạo nên đất nhão và lầy Đất lầy mặn có độ màu mỡ cao hơn đất mặn, với hàm lượng đạm, lân, kali vượt trội.
Khu vực này có hai loại đất phù sa: đất được bồi hàng năm và đất không được bồi hàng năm Đất có thành phần cơ giới từ trung bình đến nặng, với phản ứng chua yếu, thích hợp cho nhiều hình thức canh tác khác nhau Loại đất này chủ yếu phân bố trong khu đồng bằng châu thổ, nằm phía trong khu đất mặn.
Nhóm đất cát biển phân bố chủ yếu ở các bãi cát ven biển và trên các cồn cát ngoài biển Đây là loại đất nghèo dinh dưỡng, có phản ứng chua yếu và khả năng trao đổi cation thấp (Nguyễn Viết Cách, 2006).
Khí hậu khu vực nghiên cứu thuộc miền Bắc Việt Nam, đặc trưng bởi sự nóng ẩm của khí hậu nhiệt đới gió mùa và chỉ số khô hạn thấp Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 22,2 đến 23,6 độ C Trong năm, khu vực này trải qua hai mùa chính là mùa hè và mùa đông, cùng với hai mùa chuyển tiếp giữa hai hệ thống gió mùa Đông Bắc và Tây Nam có tính chất đối lập.
Vào mùa đông, không khí chủ yếu là không khí cực đới lục địa và không khí nhiệt đới từ biển Đông Trung Hoa, với hai kiểu ẩm và khô Từ tháng 11 đến tháng 3, lượng mưa giảm và nhiệt độ thường không vượt quá 20°C.
Vào mùa hè, không khí chủ yếu đến từ vùng nhiệt đới Bắc Ấn Độ Dương, xích đạo và nhiệt đới Thái Bình Dương, mang đặc điểm ẩm ướt và mưa nhiều Thời tiết trong mùa này thường có nhiều biến động, bao gồm dông, lốc và bão.
Khu vực nghiên cứu có lượng mưa phong phú, với trung bình hàng năm từ 1.520-1.850mm Lượng mưa đạt đỉnh vào tháng 7 và 8, với 350-500mm/tháng và 16-18 ngày mưa Trong trường hợp có bão hoặc áp thấp nhiệt đới, lượng mưa trong 24 giờ có thể lên tới 300-500mm.
- Chế độ khí áp và gió
Khí áp trong khu vực nghiên cứu biến đổi theo hai hệ thống gió mùa, với mùa đông chịu ảnh hưởng của vùng áp cao phía Bắc, dẫn đến trị số khí áp trung bình cao Ngược lại, mùa hè bị chi phối bởi vùng áp thấp phía Nam, làm giảm đáng kể trị số khí áp Biến động khí áp trong năm thường có một cực đại vào tháng Giêng và một cực tiểu vào tháng Bảy, với trị số trung bình dao động từ 1002-1030 mb Đặc biệt, trong mùa hè tại vùng cửa sông có bão mạnh, khí áp có thể giảm xuống dưới 950 mb.
Gió ở vịnh Bắc Bộ có diễn biến hướng và tốc độ phụ thuộc vào hoạt động của hoàn lưu khí quyển và địa hình ven bờ, thể hiện rõ tính chất mùa Tốc độ gió trung bình đạt 3-4m/s, mạnh nhất vào mùa hè, đặc biệt trong bão và dông có thể lên tới 40-50m/s Vào mùa đông (tháng X - tháng III năm sau), gió chủ yếu hướng Bắc-Đông Bắc và Đông-Đông Nam với tần suất 53,5%-71,6%, trung bình 78,4% Trong nửa đầu mùa đông, gió hướng Đông Bắc – Bắc chiếm ưu thế, nhưng từ tháng II trở đi, hướng Đông – Đông Nam trở nên phổ biến hơn.
Mùa hè (tháng VI-tháng X), hướng gió chủ đạo ve n bờ là Nam- Đông Nam và ngoài khơi là Nam-Tây Nam tần suất 53,1%-78,5%, trung bình 63,2%
Trong mùa chuyển tiếp, gió có tính chất trung gian với hướng chính là Đông, tần suất đạt từ 53,9% đến 80,5% Trong tháng IV và V, gió chủ đạo ven bờ thổi từ Đông đến Đông Nam, trong khi ngoài khơi là Đông Nam và Đông Bắc Đến tháng X và XI, gió ven bờ chuyển sang hướng Bắc và Đông, còn ngoài khơi là Đông Bắc.
Mặc dù có tính phân mùa và ổn định cao, mùa hè vẫn chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và mùa đông có gió mùa Tây Nam, làm giảm nhiệt độ mùa hè và tăng độ ẩm mùa đông Khu vực ven bờ có hướng gió không ổn định do tác động của địa hình và hoạt động hoàn lưu đất- biển theo chu kỳ ngày- đêm, dù tốc độ gió biển không cao nhưng vẫn ảnh hưởng đến trường gió chung ở ven biển.
* Các hiện tượng thời tiết đặc biệt
Cửa sông Ba Lạt thường xuyên chịu ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết cực đoan như dông, lốc, bão và áp thấp nhiệt đới, với trung bình 30-50 ngày có dông mỗi năm, đặc biệt tập trung vào mùa hè Khu vực này ghi nhận khoảng 30,7% số bão đổ bộ vào ven biển Việt Nam, chủ yếu xảy ra trong các tháng VII, VIII, IX, với trung bình 1,4 cơn bão và áp thấp nhiệt đới mỗi năm Những ngày có bão thường đi kèm với mưa lớn, gây ra tình trạng úng ngập, lũ lụt, sóng mạnh và nước dâng.
* Đặc điểm thủy, hải văn
Khái quát chung loài cò Thìa tại VQG Xuân Thủy
4.2.1 Đặc điểm hình thái của loài cò Thìa
Hình 4.2: Cò Thìa mặt đen (Cò Va)
Họ cò Quăm – Thresklornithidae Bộ Hạc – Ciconiformes
Họ cò quăm, bao gồm khoảng 34 loài chim lớn sống trên đất liền và lội nước, trước đây được gọi là Plataleidae Chúng có mối quan hệ họ hàng với các nhóm chim chân dài trong bộ Ciconiiformes, nhưng nghiên cứu gần đây cho thấy chúng thuộc bộ Bồ Nông (Pelecaniformes) Cò quăm có bộ lông hoàn toàn màu trắng, mào ngắn trên đầu, trán trụi lông với mặt đen, và một vòng hẹp quanh mắt cùng với cằm và họng trụi lông Đặc biệt, chúng có điểm vàng trước mắt, mắt màu đỏ, mỏ xám chì có vân đen ngang, và chân màu đen pha đỏ.
Ven biển đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ, mùa đông xuất hiện tại các bãi triều ngập nước của sông Hồng, sông Đáy (Nam Định), cửa sông Thái Bình (Thái Bình), cửa sông Văn Úc (Hải Phòng) và Quảng Ninh Ngoài ra, hiện tượng này cũng có thể thấy tại Tràm Chim, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.
Cò Thìa mặt đen (Platalea) sinh sống và phân bố thành các nhóm trên các đảo ngoài khơi bờ biển phía tây của Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc, và một số khu thuộc tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc Gần đây, nghiên cứu cho thấy chúng cũng xuất hiện trên cửa sông Tuamen của Nga và lần đầu tiên được ghi nhận kiếm ăn tại Nam Primorye.
Từ năm 2006, Cò Thìa đã được ghi nhận xuất hiện tại nhiều địa điểm như cửa sông Tsengwen ở Đài Loan, khu vực vịnh sâu của Hồng Kông, và đảo Hải Nam thuộc Trung Quốc Chúng cũng thường xuyên xuất hiện ở Cheiu (Hàn Quốc), Kyushu và Okinawa (Nhật Bản), cùng với đồng bằng sông Hồng ở Việt Nam Ôn Châu được xác định là điểm dừng chân quan trọng trên hành trình trú Đông của loài này, theo các ghi chép gần đây từ Thái Lan, Việt Nam, Ma Cao và Trung Quốc đại lục Mặc dù vào năm 1988, số lượng Cò Thìa đã giảm xuống chỉ còn khoảng 288 cá thể, nhưng đến năm 2006, số lượng đã phục hồi lên đến 1.679 cá thể Tại phía Bắc Việt Nam, Vườn quốc gia Xuân Thủy là nơi Cò Thìa thường xuyên xuất hiện hàng năm trong mùa đông.
4.2.2 Đánh giá số lượng đàn cò Thìa (Platalea minor)
Ban quản lý VQG Xuân Thủy đã ký kết thỏa thuận với tổ chức Birdlife tại Việt Nam để giám sát các loài chim, bao gồm loài cò Thìa (Platalea minor), nhằm đánh giá thực trạng của chúng qua các yếu tố như thời gian xuất hiện, số lượng, mật độ phân bổ, sinh cảnh sống, nguồn thức ăn và các tập tính khác.
- Chương trình giám sát được tiến hành điều tra theo tuyến gồm:
+ Tuyến 1: Cầu vọp - Cống K1 - Cống K4 - chòi quan sát Cồn Ngạn - Đuôi Cồn Ngạn - Cầu Trắng - Cầu K4 - Cầu vọp
+ Tuyến 2: Cống Khai Sinh - Cống Cai Đề - Cồn Lu Giao Xuân
+ Tuyến 3: Cầu Vọp - Sông Vọp - Sông Hồng - Của Ba Lạt - Cồn Lu (Nứt) - Cồn Xanh
- Dụng cụ: Ống têlêcốp, ống nhòm cầm tay, phiếu điều tra, máy GPS,
Kết quả thu được như sau:
Bảng 4.1: Đánh giá số lượng cò Thìa (Platalea minor) năm 2005 - 2006
Bảng 4.2: Số liệu điều tra theo tuyến năm 2009 - 2010
TT Loài Số lượng cá thể /Ngày điều tra
Từ tháng 9 năm trước đến tháng 3 năm sau, số lượng cò tại VQG Xuân Thủy duy trì sự ổn định, cho phép so sánh số liệu giữa các năm trong khoảng thời gian này.
Bảng 4.3: Điều tra của Miroslav Capek, Ivan Literak, và Petr Podzemny năm 2010
Loài Tiếng Việt Ngày/ tháng
Cò bợ Chinese Pond Heron x x X
Cò lửa lùn Yellow Bittern x
Cò ngàng lớn Great Egret x x x X
Cò ngàng nhỏ Little Egret x x X
Theo nghiên cứu của Miroslav Capek, Ivan Literak và Petr Podzemny, số lượng cò Thìa (Platalea minor) đã tăng lên 67 cá thể, cho thấy rằng vào năm 2009 – 2010, số lượng cò Thìa không chỉ dừng lại ở 54 cá thể Dữ liệu này có độ tin cậy cao, vì đây là các chuyên gia nghiên cứu chim tại Cộng hòa Séc.
Bảng 4.4: Thống kê từ tổ chức Birdlife về VQG Xuân Thuỷ qua các năm
A1, A4i EN 10 Cò Thìa (Platalea minor) là một loài chú đông thường xuyên với số lượng
EN: Nguy cấp – Endangered A4i: Sự tập trung cá thể
A1: Những loài bị đe dọa toàn cầu IBAs: Vùng chim quan trọng
* Qua nghiên cứu đề tài có một số ghi nhận tại VQG Xuân Thủy năm 2012
Trong mùa trú ngụ 2011 – 2012, số lượng cò Thìa (Platalea minor) tại VQG Xuân Thủy có xu hướng giảm Cụ thể, khu vực đầm tôm đuôi Cồn Ngạn ghi nhận 22 cá thể vào ngày 16/1/2012, tăng lên 24 cá thể vào ngày 26/3 và đạt 30 cá thể vào ngày 30/4 Mặc dù số lượng cò Thìa trong một mùa thường không thay đổi, nhưng sự giảm sút này vẫn đáng lưu ý.
2012 tại VQG Xuân Thủy có tổng cộng 30 cá thể cò Thìa (Platalea minor)
Hình 4.3: Đàn cò Thìa (Platalea minor) tại đuôi Cồn Ngạn được ghi lại vào ngày 26/3/2011
Từ những thống kê trên ta thấy số lượng cò Thìa (Platalea minor) có sự biến động như sau:
Bảng 4.5: Thống kê số lượng cò Thìa (Platalea minor) 10 năm gần đây tại
Hình 4.4: Biểu đồ thể hiện số lượng cò Thìa (Platalea minor) tại VQG
Trong vòng 10 năm qua, số lượng cò Thìa (Platalea minor) tại VQG Xuân Thủy đã có sự biến động mạnh mẽ Từ năm 2002 đến 2006, số lượng cá thể cò Thìa luôn trên 60, đạt đỉnh điểm 74 cá thể vào năm 2005-2006 Tuy nhiên, từ năm 2006-2007 trở đi, số lượng này đã giảm xuống dưới 60 cá thể, và đặc biệt, vào giai đoạn 2011-2012, chỉ còn 30 cá thể Điều này cho thấy sự suy giảm đáng kể của số lượng cò Thìa trong những năm gần đây.
4.2.3 Các yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng tới lối sinh sống của cò Thìa (Platalea minor)
Cò Thìa (Platalea minor) là loài chim sống theo bầy đàn, thường tụ tập thành những nhóm lớn với khoảng 25 cá thể Ban ngày, chúng nghỉ ngơi trên các cồn cát nhỏ trong khu vực cồn Ngạn, và vào ban đêm, chúng cùng nhau đi tìm kiếm thức ăn Chế độ ăn của chúng chủ yếu bao gồm tôm, cua, ốc và cá nhỏ đến vừa, và chúng thích nghi để kiếm ăn tại những vùng nước nông có độ sâu dưới 25 cm.
Hàng năm, cò Thìa (Platalea minor) di cư về VQG Xuân Thủy để trú đông từ tháng 9 đến tháng 4 Chúng thường xuất hiện tại các khu vực như đầm tôm đuôi cồn Ngạn, Bãi Trong và bãi bồi đầu cồn Lu, cùng với một số ghi nhận về sự xuất hiện tại cồn Mờ (cồn Xanh).
4.2.3.2 Các yếu tố khách quan
Bãi Trong, thuộc VQG Xuân Thủy, kéo dài khoảng 12km từ cửa Ba Lạt đến xã Giao Xuân, với chiều rộng trung bình 1500m Phía Bắc khu vực này được giới hạn bởi đê quốc gia Ngự Hán, trong khi phía Nam giáp sông Vọp Khu Bãi Trong được bao quanh bởi các đê cao, giúp ngăn chặn ảnh hưởng của thủy triều Diện tích khu vực khoảng 2500ha, trong đó có khoảng 800ha đất bãi bồi đã được trồng rừng ngập mặn Mực nước tại đây dao động từ 58 đến 150cm, tạo điều kiện không thuận lợi cho việc kiếm ăn của cò.
Đầm tôm cồn Ngạn, với diện tích khoảng 2000ha, nằm giữa đê Vành Lược và lạch sông Vọp, không chịu ảnh hưởng của thủy triều Khu vực này thuộc vùng đệm VQG Xuân Thủy, được chia thành các ô thửa nuôi tôm theo phương pháp quản canh cải tiến Mực nước trung bình trong khu vực dao động từ 55 – 157cm, tạo điều kiện cho hệ sinh thái cây ưa ngọt như bần chua, cói và sậy phát triển mạnh mẽ.
Bãi bồi cồn Lu, nằm gần cồn Ngạn, có chiều dài khoảng 12.000 m và chiều rộng trung bình 2.000 m Phía Đông và Đông Nam của cồn Lu có những cồn cát cao từ 1,2 đến 2,5 m, không bị ngập triều, trong khi địa hình thấp dần về phía sông Trà Ngoài cồn cát, diện tích còn lại của cồn Lu có nước thủy triều lên xuống tự do và có sự phát triển của rừng ngập mặn.
Cồn Lu có diện tích khoảng 2500 ha, nơi nổi bật với thực vật đặc trưng là Sú vẹt Người dân địa phương đang tận dụng bãi bồi đầu Cồn Lu để nuôi Vạng (ngao) theo hình thức quảng canh (Đỗ Quang Trung, 2005) Khu vực này cũng là môi trường lý tưởng cho cò Thìa kiếm ăn.
Ứng dụng công nghệ Viễn Thám và GIS để xây dựng bản đồ điểm, phân vùng sinh cảnh sống cho loài cò Thìa tại VQG Xuân Thủy
cò Thìa (Platalea minor) là mực nước và tác động của con người
4.3 Ứng dụng công nghệ Viễn Thám và GIS để xây dựng bản đồ điểm, phân vùng sinh cảnh sống cho loài cò Thìa (Platalea minor) tại VQG Xuân Thủy
4.3.1 Giải đoán hiện trạng khu vực vườn quốc gia Xuân Thuỷ
Landsat năm 2003 Spot năm 2007 Spot-4 năm 2010
Hình 4.6: Ảnh viễn thám VQG Xuân Thuỷ các năm 2003 – 2007 – 2010
Chú thích ảnh viễn thám :
Khu vực nuôi trồng thuỷ sản
Dòi cát cuối đuôi cồn Lu Khu vực rừng ngập mặn
4.3.1.1 Từ ảnh vệ tinh Landsat năm 2003
Khu vực cửa sông Ba Lạt – VQG Xuân Thuỷ đã trải qua quá trình tiến hóa lâu dài đến năm 2003, với dòng chính cắt qua cồn cát và đổ ra biển lệch về phía Tây Nam Cửa sông có các cồn cát bồi nổi cao, tạo thành vòng cung dài, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đới ven bờ khỏi sự phá hủy do sóng và dòng chảy Các doi cát này chủ yếu hình thành từ tác động của sông-biển, do đó rất nhạy cảm và liên tục biến đổi theo thời gian và không gian.
Hình 4.7: Ảnh vệ tinh Landsat 2003
4.3.1.2 Từ ảnh vệ tinh Spot 2007
Thời gian chụp ảnh hiện nay diễn ra trong giai đoạn lúa phát triển, khác biệt so với năm 2003 Diện tích rừng ngập mặn và phi lao đã gia tăng đáng kể nhờ các chương trình trồng rừng của các tổ chức phi chính phủ và ban quản lý VQG Xuân Thủy.
Các dải cát nhỏ ở hai phía Bắc và Nam của cửa sông đang ngày càng mở rộng và di chuyển về phía Tây, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các bãi triều đang được bồi tụ Tuy nhiên, theo hình ảnh năm 2007, có thể thấy rằng một phần diện tích đất đai bên ngoài các cồn cát đã bị mất đi.
Do dòng nước xoáy theo chiều Đông Nam nên phía đuôi Cồn Lu được bồi đắp nhiều và tiến dần vào phía gần Xã Giao Hải
Hình 4.8: Ảnh vệ tinh spot 2007
4.3.1.3 Từ ảnh vệ tinh Spot - 4 năm 2010
So với năm 2007, cửa Ba Lạt vẫn giữ nguyên trạng thái, với các cồn cát tiếp tục bồi tụ và phần ngoài bị xói lở Các cồn cát ngầm chắn cửa sông đã nổi lên mặt nước, tạo thành những bãi triều cao được người dân địa phương gọi là cồn Mờ.
Các dòng dẫn cửa sông đang bị thu hẹp đáng kể và bồi lấp, tạo thành các lạch nước nhỏ Theo ảnh vệ tinh năm 2010, không còn phát hiện diện tích rừng ngập mặn như năm 2003 Sự xuất hiện của cơn bão số 6 vào năm 2008 đã tàn phá hoàn toàn diện tích rừng phòng hộ.
Thời điểm chụp ảnh diễn ra vào mùa thu hoạch lúa, cho thấy rõ sự mở rộng diện tích rừng ngập mặn so với năm 2007 Điều này phản ánh nhận thức ngày càng cao của người dân về vai trò quan trọng của rừng ngập mặn trong việc bảo vệ môi trường, dẫn đến việc trồng và bảo vệ rừng hiệu quả hơn.
Hình 4.9: Ảnh Spot - 4 năm 2010 4.3.2 Xây dựng bản đồ phân bố loài cò Thìa (Platalea minor) tại VQG Xuân Thủy
Sau khi giải đoán ảnh vệ tinh Spot-4 năm 2010 và điều chỉnh theo bản đồ nền khu vực VQG Xuân Thủy, các lớp bản đồ năm 2010 đã được số hóa bằng phần mềm Envi 4.5.
Hình 4.10: Ảnh Spot- 4 VQG Xuân Thủy 2010
Sau khi tách triết, chúng tôi thu được 19 lớp thông tin quan trọng về VQG Xuân Thủy, bao gồm: đường mép nước, ranh giới bãi cát, thực vật, dân cư, cầu cống, sông một nét, sông hai nét, nền biển, đường mòn, và các mốc địa giới Mỗi lớp thông tin này đều chứa đựng những dữ liệu riêng biệt, góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về khu vực.
Lớp thực vật trong môi trường sống bao gồm nhiều khu vực khác nhau: bãi cát với diện tích 1.971.231 m², bãi bồi chiếm 12.385.419 m², đầm tôm có tổng diện tích 22.150.214 m², phi lao với 8.044,70 m², và thực vật ngập mặn rộng 11.473.553 m².
- Lớp tên xã: có các đơn vị trực thuộc 5 xã gồm Giao Thiện, Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân, Giao Hải và VQG Xuân Thủy
Ta tiến hành chồng ghép các lớp chiết suất từ ảnh trên phần mềm Arcgis 9.3
Hình 4.11: Hiện trạng các lớp thông tin về VQG Xuân Thủy
Dựa trên dữ liệu nghiên cứu và thông tin thu thập từ thực địa, chúng tôi tiến hành đánh giá điều kiện sinh cảnh sống của cò Thìa tại VQG Xuân Thủy Kết quả đánh giá này sẽ được thể hiện qua bản đồ mô tả các điều kiện sinh cảnh sống của loài cò Thìa trong khu vực.
Hình 4.12: Bản đồ đánh giá các điều kiện sinh cảnh sống cò Thìa
Bài viết này giúp xác định các vùng xuất hiện của cò Thìa (Platalea minor) và những khu vực không có sự hiện diện của chúng Đồng thời, nó cũng chỉ ra các yếu tố chính và điều kiện thuận lợi cần thiết để duy trì và bảo tồn loài cò Thìa (Platalea minor) trong môi trường sống của chúng.
Hình 4.13: Điểm cò Thìa khu vực đuôi cồn Ngạn VQG Xuân Thủy
Hình 4.14: Điểm cò Thìa khu vực đuôi Cồn Lu VQG Xuân Thủy
Đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn loài cò Thìa tại VQG Xuân Thủy
Sau khi khảo sát và đánh giá tại 78 điểm tại VQG Xuân Thủy ta được kết quả:
7/78 điểm rất thích nghi với lối sống của cò Thìa chiếm 8,97 %
11/78 điểm thích nghi với lối sống của cò Thìa chiếm 14,1 %
Trong tổng số 78 điểm đánh giá, có 5 điểm (chiếm 6,41%) cho thấy cò Thìa có mức độ thích nghi trung bình với lối sống Trong khi đó, 14 điểm (17,95%) thể hiện sự thiếu thích nghi, và đáng chú ý là 41 điểm (52,57%) không thích nghi với lối sống của cò Thìa.
Sinh cảnh sống của cò Thìa (Platalea minor) tại VQG Xuân Thủy hiện còn rất ít, chỉ chiếm 8,97% các điểm khảo sát Điều này cho thấy môi trường sống của loài này đang bị thu hẹp nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến lối sinh sống của cò Thìa.
4.4 Đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn loài cò Thìa (Platalea minor) tại
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hiện đang quản lý đất rừng, bao gồm cả rừng ngập mặn Theo chỉ thị trước đây của Bộ Thủy sản, việc phát triển nuôi trồng thủy sản cần đảm bảo sự quản lý hiệu quả đối với rừng ngập mặn Tuy nhiên, điều này dẫn đến sự chồng chéo trong công tác quản lý rừng ngập mặn và các loài sinh sống trong đó Do đó, chúng tôi kiến nghị Chính phủ xem xét vấn đề này.
Cần xác định rõ trách nhiệm chung của một bộ hoặc cơ quan trong việc quản lý rừng ngập mặn, đồng thời xây dựng các văn bản hướng dẫn cụ thể để xác định các vùng được quản lý hiệu quả.
4.4.2 Đề xuất với Ban quản lý VQG Xuân Thủy:
Trong khu vực bảo vệ nghiêm ngặt của VQG, không nên trồng thuần loài Cần thực hiện tỉa thưa rừng ngập mặn và trồng thêm rừng phi lao tại khu vực phía đông và đông nam Cồn Lu.
Không được áp dụng nuôi trồng thủy sản thâm canh trong Vườn Quốc gia và vùng đệm Cần ngừng phát triển thêm các đầm nuôi trồng thủy sản trong VQG, đặc biệt là phải dỡ bỏ các đầm nuôi trồng thủy sản tại Cồn Lu Việc chuyển đổi các đầm nuôi tôm thành đầm nuôi vạng cũng không được phép.
Nghiên cứu tập trung vào tính bền vững của các hoạt động con người trong Vườn Quốc Gia (VQG) và vùng đệm, nhấn mạnh việc không cho phép cư trú trong VQG, đặc biệt là tại Cồn Lu Để bảo vệ môi trường tự nhiên, cần kiểm soát chặt chẽ việc chăn thả gia súc và thực hiện các biện pháp ngăn chặn săn bắt chim cũng như bảo vệ nơi trú ngụ của các loài chim, đặc biệt là cò Thìa (Platalea minor).
Xây dựng kế hoạch tài chính mới, đảm bảo kinh phí cho VQG trong vấn đề bảo tồn loài cò Thìa (Platalea minor).