TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Điều kiện cơ sở nơi thực tập
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất của cơ sở thực tập
Trại lợn Bùi Huy Hạnh, thành lập từ năm 2007, chuyên gia công cho Công ty CP Charoen Pokphand Việt Nam Nằm tại xã Tái Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, trại lợn này hoạt động theo hướng chăn nuôi công nghiệp Huyện Tứ Kỳ, nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, hoàn toàn nằm trong vùng hạ lưu của hệ thống sông Thái Bình, tương tự như các huyện khác trong tỉnh Hải Dương.
- Phía Đông Bắc giáp huyện Thanh Hà (ranh giới là sông Thái Bình)
- Phía Tây Bắc giáp thành phố Hải Dương
- Phía Tây giáp huyện Gia Lộc
- Phía Tây Nam giáp huyện Ninh Giang, đều thuộc tỉnh Hải Dương
- Phía Đông Nam giáp huyện Vĩnh Bảo (ranh giới là sông Luộc)
- Phía Đông giáp huyện Tiên Lãng (ranh giới là một đoạn sông Thái Bình)
Tứ Kỳ có khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 23,3°C và lượng mưa từ 1500-1600mm, chủ yếu tập trung từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% tổng lượng mưa Độ ẩm trung bình hàng năm ở Tứ Kỳ là 85% Khu vực này được bao quanh bởi các con sông, bao gồm sông Luộc ở phía Nam, sông Thái Bình ở phía Đông và sông Tứ Kỳ chảy qua giữa huyện.
2.1.1.3 Cơ cấu tổ chức của trang trại
+ 2 kỹ sư chính của công ty
+ 2 tổ trưởng (1chuồng bầu, 1chuồng đẻ)
+ 5 sinh viên thực tập trường đại học Nông Lâm Thái Nguyên
+ kỹ sư thực tập học việc của CP và sinh viên thực tập của trường học viện Nông Nghiệp (tùy theo đợt)
2.1.1.4 Cơ sở vật chất của trang trại
Trang trại có diện tích tổng cộng 3ha, trong đó 1ha được sử dụng cho khu chăn nuôi tập trung và các công trình phụ trợ, còn lại 2ha dành cho trồng cây xanh và ao hồ Khu chăn nuôi chuyên nuôi lợn sinh sản, với lợn nái và lợn đực giống được cung cấp bởi công ty CP Việt Nam.
Khu chăn nuôi được quy hoạch với hệ thống chuồng trại cho hơn 1300 nái, bao gồm 6 chuồng nái đẻ với 56 ô kích thước 2,4m x 1,6m mỗi ô, và 2 chuồng nái chửa với tổng cộng 560 ô cùng kích thước.
0.65m/ô), 3 chuồng cách ly, một số công trình phụ phục vụ cho chăn nuôi như: kho thức ăn, phòng sát trùng, phòng pha tinh, kho thuốc,
Hệ thống chuồng được xây dựng khép kín với thiết kế thông gió hiệu quả, bao gồm giàn mát ở đầu chuồng và quạt thông gió ở cuối chuồng: 3 quạt cho chuồng đẻ, 10 quạt cho chuồng nái chửa và 3 quạt cho chuồng cách ly Bên cạnh đó, hai bên tường có dãy cửa sổ kín, mỗi cửa sổ có diện tích 1,5m², cách nền 1,2m và cách nhau 40cm Trần chuồng được lắp đặt hệ thống chống nóng bằng tôn lạnh, đảm bảo môi trường sống thoải mái cho vật nuôi.
Phòng pha tinh của trại được trang bị đầy đủ các dụng cụ hiện đại như máy đếm mật độ tinh trùng, kính hiển vi, thiết bị cảm ứng nhiệt, dụng cụ đóng nhiệt tinh, nồi hấp cách thủy và nhiều thiết bị khác, đảm bảo quy trình pha tinh diễn ra hiệu quả và chính xác.
Trong khu chăn nuôi, các lối đi giữa các ô chuồng được đổ bê tông và trang bị hố sát trùng để đảm bảo vệ sinh Hệ thống nước sử dụng là nước giếng khoan, với nước uống cho lợn được cung cấp từ một bể lớn đặt ở đầu chuồng nái đẻ 6 và chuồng nái chửa 2 Nước tắm và nước xả gầm phục vụ cho các công tác khác được lấy từ các bể lọc và được bơm qua hệ thống ống dẫn tới bể chứa ở giữa các chuồng.
Hệ thống điện trong chuồng đẻ được cung cấp từ điện lưới và máy phát dự phòng, đảm bảo độ sáng cần thiết cho quá trình đỡ đẻ và chăm sóc lợn mẹ cùng lợn con Mỗi chuồng đẻ được trang bị 10 bóng đèn chiếu sáng lắp đặt so le, kết hợp với hệ thống bóng sưởi cho các ô chuồng có lợn con mới sinh.
Hệ thống sát trùng bao gồm một nhà sát trùng với ba phòng, mỗi phòng có ba khoang: khoang thay đồ, khoang sát trùng và khoang tắm, được trang bị đầy đủ thiết bị như bình nóng lạnh, vòi hoa sen, chậu rửa, gương soi, móc quần áo, khăn, xà bông và dầu gội Ngoài ra, hệ thống còn bao gồm các khu vực sát trùng bên ngoài chuồng nuôi như nhà sát trùng xe, hố sát trùng và nhà tắm sát trùng Đặc biệt, máy nén phun sát trùng di động được sử dụng trong khu vực chuồng nuôi để đảm bảo vệ sinh.
Kho chứa thước ăn: trần đóng kín, có sàn cách mặt đất 30cm để chứa thức ăn trong chăn nuôi
Hệ thống xử lý môi trường được thiết kế để xử lý chất thải bằng biogas trước khi thải ra môi trường, đảm bảo có điểm tiêu chất thải hợp lý Hệ thống còn bao gồm giàn khử mùi phía sau quạt hút gió và hố hủy lợn được đặt xa khu vực chăn nuôi, nhằm giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi trường.
Các công trình phụ trợ bao gồm khu sinh hoạt tách biệt với khu chăn nuôi, bao gồm phòng kỹ sư, nhà ở công nhân, nhà bếp, nhà tắm và nhà vệ sinh Cổng trại và tường rào được thiết kế để đảm bảo an ninh Ngoài ra, còn có nhà kho phục vụ cho chăn nuôi, như nhà để vôi bột và bể tôi vôi nước.
Để đảm bảo hiệu quả trong việc bảo quản và dự trữ thuốc cho trại, cần có tủ lạnh bảo quản vaccine và tủ thuốc Ngoài ra, xe chở cám từ nhà kho xuống chuồng cũng rất quan trọng Để duy trì vệ sinh, máy nén khí phun sát trùng di động khu vực ngoài chuồng nuôi là thiết bị không thể thiếu.
Cở sở tài liệu liên quan đến chuyên đề
- Trại được xây dựng xa khu dân cư, giao thông thuận tiện
- Đội ngũ quản lý, cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn cao, tâm huyết với nghề, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc
- Đội ngũ công nhân có tay nghề cao, năng động, nhiệt tình và có trách nhiệm cao trong công việc
- Trại được xây dựng theo mô hình công nghiệp, trang thiết bị hiện đại nên rất phù hợp với chăn nuôi công nghiệp hiện nay
Thời tiết diễn biến phức tạp, với nguy cơ rét đậm, rét hại, hạn hán, thiên tai và dịch bệnh gia tăng, đã gây khó khăn trong công tác phòng trừ bệnh Điều này không chỉ làm tăng chi phí phòng ngừa và chữa bệnh mà còn ảnh hưởng đến giá thành chăn nuôi.
- Giá lợn hiện nay có sự thay dổi tích cực so với các năm trước mang lại lợi nhuận cho người chăn nuôi
2.2 Cở sở tài liệu liên quan đến chuyên đề
2.2.1 Những hiểu biết về phòng, trị bệnh cho vật nuôi
"Phòng bệnh hơn chữa bệnh" là nguyên tắc quan trọng trong việc quản lý trang trại, vì phòng bệnh hiệu quả có thể hạn chế hoặc ngăn chặn sự xuất hiện của bệnh Các biện pháp phòng bệnh tổng hợp cần được ưu tiên, tập trung vào các yếu tố như môi trường, mầm bệnh và vật chủ Do đó, việc phòng ngừa và điều trị bệnh cần kết hợp nhiều phương pháp khác nhau để đạt hiệu quả cao nhất.
- Phòng bệnh bằng vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt:
Bệnh xuất hiện trong đàn lợn thường do nhiều nguyên nhân phức tạp, bao gồm cả bệnh truyền nhiễm và không truyền nhiễm Để kiểm soát bệnh tật trên đàn lợn, nhiều biện pháp đã được áp dụng, chủ yếu nhằm giảm khả năng lan truyền tác nhân gây bệnh và nâng cao sức đề kháng của đàn lợn.
Vi khuẩn E.coli gây bệnh ở lợn thường tồn tại trong môi trường và đường tiêu hóa của vật chủ Khi điều kiện vệ sinh chuồng trại kém và nguồn nước, thức ăn bị ô nhiễm, lợn dễ bị nhiễm E.coli do giảm sức đề kháng Do đó, vệ sinh và chăm sóc là rất quan trọng trong phòng bệnh Đảm bảo quy trình kỹ thuật trong chăn nuôi sẽ giúp tạo ra gia súc khỏe mạnh, có khả năng chống đỡ bệnh tật Ô chuồng lợn nái cần được vệ sinh tiêu độc trước khi đẻ, và nhiệt độ trong chuồng phải duy trì từ 27 - 30°C cho lợn sơ sinh và 28 - 30°C cho lợn cai sữa Chuồng cần luôn khô ráo, sạch sẽ và ấm áp vào mùa Đông và đầu Xuân, có thể sử dụng thiết bị sưởi hoặc đèn hồng ngoại trong thời tiết lạnh ẩm để phòng bệnh lợn con phân trắng, từ đó nâng cao hiệu quả chăn nuôi.
Theo Trần Văn Phùng và cộng sự (2004), trước 3 - 5 ngày khi lợn nái dự kiến đẻ, cần phải làm sạch ô chuồng lợn bằng cách cọ rửa và phun khử trùng bằng hóa chất như crezin 5% hoặc các loại hóa chất khác để tiêu độc và đảm bảo môi trường chuồng trại an toàn cho lợn nái.
- Vệ sinh chuồng trại và thiết bị chăn nuôi:
Chuồng trại cần được thiết kế phù hợp với từng loại vật nuôi, đảm bảo thông thoáng vào mùa Hè và ấm áp vào mùa Đông, đồng thời cách ly với môi trường xung quanh Sau mỗi lứa nuôi, cần tẩy uế chuồng trại bằng cách rửa sạch, phun sát trùng và để trống ít nhất 15 ngày cho vật nuôi thương phẩm và 30 ngày cho vật nuôi sinh sản Đối với chuồng nuôi lưu cữu hoặc có vật nuôi mắc bệnh truyền nhiễm, cần thực hiện vệ sinh tổng thể và triệt để Sau khi di chuyển vật nuôi ra khỏi chuồng, cần phun sát trùng toàn bộ khu vực và xử lý chất thải rắn bằng cách đốt hoặc ủ sinh học, trong khi chất thải lỏng cần được thu gom và xử lý đúng cách Việc phun sát trùng 1-2 lần mỗi tuần trong suốt thời gian trống chuồng là rất quan trọng Các thiết bị và dụng cụ chăn nuôi cũng cần được rửa sạch, phơi khô, sát trùng và bảo quản đúng cách, đồng thời vệ sinh khu vực xung quanh chuồng nuôi.
- Phòng bệnh bằng vắc xin:
Vắc xin là biện pháp phòng bệnh chủ động hiệu quả nhất, theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) Vắc xin chứa mầm bệnh cần phòng cho các bệnh truyền nhiễm, có thể là vi khuẩn, virus, độc tố hoặc vật liệu di truyền như ARN, ADN, đã được làm giảm độc lực hoặc vô độc Nhờ các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học, hoặc phương pháp sinh học phân tử, vắc xin không còn khả năng gây bệnh nhưng vẫn kích thích đáp ứng miễn dịch trong cơ thể động vật, giúp chúng có khả năng chống lại mầm bệnh tương ứng.
Khi tiêm vắc xin cho vật nuôi, cơ thể chưa có kháng thể chống lại bệnh ngay lập tức, mà cần từ 7 đến 21 ngày (tùy thuộc vào loại vắc xin) để phát triển miễn dịch.
Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012) [10], nguyên tắc để điều trị bệnh là:
+ Toàn diện: Phải phối hợp nhiều biện pháp như hộ lý, dinh dưỡng, dùng thuốc
+ Điều trị sớm:Trên cơ sở chẩn đoán đúng bệnh để dễ lành bệnh và hạn chế lây lan
+ Diệt căn bệnh:Là chủ yếu kết hợp chữa triệu chứng
Để tiêu diệt mầm bệnh hiệu quả, cần kết hợp với việc tăng cường sức đề kháng của cơ thể Khi cơ thể tự tạo khả năng chống lại mầm bệnh, bệnh sẽ nhanh chóng khỏi, giảm thiểu nguy cơ tái phát và biến chứng, đồng thời giúp miễn dịch bền vững hơn.
Khi chữa bệnh cho gia súc, cần có quan điểm rõ ràng: chỉ nên điều trị những con có khả năng hồi phục mà không ảnh hưởng đến sức kéo và sản phẩm Nếu quá trình chữa bệnh kéo dài và tốn kém hơn giá trị của gia súc, thì không nên tiếp tục điều trị.
+ Những bệnh rất nguy hiểm cho người mà không có thuốc chữa thì không nên chữa
Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012)[10], các biện pháp chữa bệnh truyền nhiễm là:
Hộ lý cho gia súc ốm cần đảm bảo cho chúng nghỉ ngơi trong chuồng riêng với điều kiện vệ sinh tốt, bao gồm không gian thoáng mát, sạch sẽ và yên tĩnh Cần theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, hô hấp, phân và nước tiểu để phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh nhằm có biện pháp đối phó kịp thời Đặc biệt, việc cung cấp thức ăn tốt và phù hợp với tình trạng bệnh của gia súc là rất quan trọng.
Kháng huyết thanh được sử dụng chủ yếu để chữa bệnh đặc hiệu, thường áp dụng trong các ổ dịch và cho gia súc đã mắc bệnh Phương pháp này bao gồm việc đưa vào cơ thể những kháng thể đã được chuẩn bị sẵn, giúp trung hòa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng, như trong trường hợp huyết thanh kháng độc tố.
Sử dụng hóa dược chủ yếu nhằm chữa triệu chứng, tuy nhiên một số loại có tác dụng đặc hiệu vào nguyên nhân gây bệnh Việc dùng hóa dược cần phải được thực hiện mạnh mẽ và sớm, bởi nhiều vi khuẩn có khả năng thích ứng với liều lượng nhỏ, dẫn đến khả năng kháng thuốc và truyền tính chất này cho các thế hệ sau Để nâng cao hiệu quả điều trị, có thể kết hợp nhiều loại hóa dược, vì nếu một loại thuốc không tác động đến mầm bệnh thì có thể tìm thấy loại khác có hiệu quả tốt hơn.
Kháng sinh là loại thuốc có khả năng ngăn chặn sự sinh sản hoặc tiêu diệt vi khuẩn, nhưng việc sử dụng chúng cần thận trọng do có thể gây ra nhiều tác hại, bao gồm độc tính, phản ứng dị ứng và giải phóng độc tố từ vi khuẩn Sử dụng kháng sinh bừa bãi có thể dẫn đến hiện tượng kháng thuốc, làm giảm hiệu quả điều trị Do đó, cần tuân thủ các nguyên tắc khi sử dụng kháng sinh để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong điều trị.
- Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ chữa không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn
Chọn loại kháng sinh hiệu quả nhất cho mầm bệnh đã xác định và bắt đầu với liều cao ngay từ đầu; sau đó, có thể giảm liều trong các lần sử dụng tiếp theo.
- Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để phát huy tác dụng của kháng sinh
Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước
2.3.1 Các nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam, một số nhà khoa học đã có những nghiên cứu tổng kết về bệnh sinh sản trên đàn lợn nái Bệnh sinh sản có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sinh sản của lợn nái, nó không chỉ làm giảm sức sinh sản của lợn nái mà còn có thể làm cho nái mất khả năng sinh sản, chậm sinh hay làm giảm khả năng sống sót của lợn con
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2002) [13], bệnh viêm tử cung do vi khuẩn
Streptococcus và Colibacilus có thể lây nhiễm từ lợn con sang lợn mẹ qua cuống rốn, đặc biệt trong trường hợp đẻ khó, sát nhau, hoặc sảy thai Ngoài ra, việc sử dụng dụng cụ thụ tinh nhân tạo cứng cũng có thể gây xây xát, tạo điều kiện cho các ổ viêm nhiễm hình thành trong tử cung và âm đạo.
Theo Nguyễn Xuân Bình (2000) [3], ở những nái bị viêm tử cung thường biểu hiện sốt theo quy luật sáng chiều (sáng sốt nhẹ, chiều sốt nặng)
Theo Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), khi gia súc mắc bệnh viêm tử cung thể viêm cơ và viêm tương mạc, không nên thực hiện thụt rửa bằng các chất sát trùng với thể tích lớn Việc này có thể làm nặng thêm tình trạng bệnh do cơ tử cung co bóp yếu, khiến chất bẩn không được đẩy ra ngoài Các tác giả khuyến nghị sử dụng oxytoxin kết hợp với PGF2α hoặc kháng sinh để điều trị toàn thân và cục bộ.
Theo Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ (2003), trước khi lợn nái đẻ, cần thực hiện các bước như lau chùi, xoa vú và tắm cho nái Sau khi đẻ, cần cho lợn con bú ngay trong vòng 1 giờ và cắt răng nanh của chúng Để giảm sưng và sốt, chườm nước đá vào bầu vú Tiêm kháng sinh penicillin với liều 1,5 - 2 triệu đơn vị pha với 10ml nước cất quanh vú Nếu có nhiều vú bị viêm, cần pha loãng liều thuốc với 20ml nước cất và tiêm quanh các vú bị viêm trong 3 ngày liên tục.
Theo nghiên cứu của Trần Tiến Dũng và cộng sự (2002), bệnh viêm đường sinh dục ở lợn có tỷ lệ cao từ 30 - 50%, trong đó viêm tử cung chiếm 80% Viêm tử cung là bệnh lý phổ biến ở gia súc cái sau khi sinh, gây hủy hoại tế bào tổ chức của các lớp tử cung, dẫn đến rối loạn sinh sản và có thể làm mất khả năng sinh sản ở gia súc cái.
Trong quá trình mang thai, lợn cần nhiều chất dinh dưỡng và ít vận động, nhưng nếu bị nhiễm các bệnh truyền nhiễm như bệnh xoắn khuẩn (Leptospirosis) và bệnh sảy thai truyền nhiễm (Brucellosis), sức khỏe của lợn nái sẽ suy yếu Điều này có thể dẫn đến tình trạng sảy thai, đẻ non và thai chết lưu, từ đó gây ra viêm tử cung (Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ, 2004).
Bệnh viêm tử cung ở nái chủ yếu do thiếu dinh dưỡng, chăm sóc kém, quản lý không tốt, vệ sinh chuồng trại kém, tiểu khí hậu không ổn định, cùng với các yếu tố như tuổi, lứa đẻ, tình trạng sức khỏe, kích dục tố và nhiễm trùng sau sinh Để phòng ngừa bệnh viêm tử cung, cần chú trọng đến việc cải thiện dinh dưỡng, vệ sinh chuồng nuôi và quản lý sức khỏe cho nái.
Staphylococcus và Streptococcus là những tác nhân gây viêm vú ở lợn nái, thường xuất phát từ việc lợn con có răng nanh làm xây xát vú mẹ, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập Khi lợn nái sản xuất nhiều sữa nhưng con bú không hết, sữa bị ứ đọng, tạo môi trường thuận lợi cho vi khuẩn phát triển và gây viêm vú Ngoài ra, tình trạng lợn nái cho con bú chỉ một hàng vú trong khi hàng còn lại bị căng sữa quá mức cũng góp phần làm tăng nguy cơ viêm.
2.3.2 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Ngành chăn nuôi lợn toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ với việc đầu tư vào chất lượng giống và áp dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất Tuy nhiên, vấn đề bệnh viêm đường sinh dục ở lợn nái sinh sản vẫn là thách thức lớn cần giải quyết Mặc dù nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để tìm ra giải pháp hạn chế bệnh này, tỷ lệ mắc bệnh vẫn còn cao trong đàn lợn nái.
Theo Bilkei (1994) [29], viêm tử cung thường sảy ra trong lúc sinh do nhiễm vi khuẩn E.coli gây dung huyết và các vi khuẩn gram dương khác
Theo nghiên cứu của Urban (1983) và Bilkei (1994), vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung ở lợn nái thường có nguồn gốc từ nước tiểu, với E.coli, Staphylococcus aureus và Streptococcus spp được phân lập từ mẫu nước tiểu Tuy nhiên, các nghiên cứu khác cho thấy vi khuẩn gây nhiễm trùng tử cung chủ yếu là các vi khuẩn cơ hội thuộc nhóm vi sinh vật hiếu khí có mặt trong môi trường chuồng trại Khi lợn nái sinh, cổ tử cung mở ra, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập và gây bệnh, như được ghi nhận bởi Gardner J.A.A và cộng sự (1990).
Nâng cao vệ sinh chuồng trại và vệ sinh cá nhân cho lợn nái là yếu tố quan trọng trong việc ngăn ngừa nhiễm trùng sau sinh, theo nghiên cứu của Smith và cộng sự (1995) cũng như Taylor (1995) Winson đã phát hiện ra rằng 52,5% nguyên nhân gây vô sinh ở lợn là do vấn đề liên quan đến cơ quan sinh sản, đặc biệt ở những lợn nái đẻ lứa đầu.
Tỷ lệ lợn nái mắc bệnh viêm vòi tử cung có mủ lên tới 32,1% Nghiên cứu của Pierre Brouillt và Bernard Faroult (2003) tại Pháp cho thấy điều trị bệnh viêm vú trong thời kỳ cho sữa là yếu tố quan trọng để kiểm soát bệnh này Việc điều trị cần được thực hiện sớm và hiệu quả, với việc xác định nguyên nhân không chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng mà còn cần xem xét các chỉ tiêu chăn nuôi và kết quả từ phòng thí nghiệm Hiểu biết sâu sắc về các phương pháp điều trị, đặc biệt là dược lực học và dược động học, sẽ giúp xây dựng phác đồ điều trị tốt hơn.
Nghiên cứu của Trekaxova A.V và cộng sự (1983) về điều trị viêm vú cho lợn nái đã chỉ ra rằng việc kết hợp sử dụng Novocain phong bế với điều trị bằng kháng sinh mang lại hiệu quả tích cực Để thực hiện phong bế thần kinh tuyến sữa, tác giả đã sử dụng dung dịch Novocain 0,5% với liều lượng từ 30 - 40ml cho mỗi túi vú, tiêm sâu vào từng thuỳ vú bị bệnh.
Dung dịch novocain được sử dụng với liều lượng từ 8 - 10cm, bổ sung 100 - 200 ngàn đơn vị penicillin hoặc kháng sinh khác Đồng thời, lợn nái cũng được tiêm bắp một loại kháng sinh trong novocain với liều lượng từ 400 - 600 đơn vị, thực hiện 2 - 3 lần mỗi ngày.
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
Đối tượng nghiên cứu
- Lợn nái sinh sản nuôi tại trại Bùi Huy Hạnh, xã Tái Sơn, huyện Tứ
3.2 Địa điểm và thời gian tiến hành
- Địa điểm: Trại lợn nái sinh sản nuôi tại trại Bùi Huy Hạnh, xã Tái Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương
- Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại
- Tham gia các công tác nuôi dưỡng và chăm sóc đàn lợn lợn nái
- Thực hiện quy trình phòng bệnh cho đàn lợn
- Tham gia chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con theo mẹ
- Tham gia các công tác kỹ thuật khác
3.4 Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện
3.4.1 Các chỉ tiêu theo dõi
- Tình hình chăn nuôi lợn tại trang trại
- Quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái và lợn con
- Tình hình sinh sản của đàn lợn nái
- Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn nái và lợn con
- Tỷ lệ mắc một số bệnh ở đàn lợn nái và lợn con
- Hiệu quả điều trị bệnh của 1 số phác đồ
- Thực hiện các công tác khác
3.4.2.1 Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại Để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại em tiến hành thu thập thông tin từ trại, kết hợp với kết quả theo dõi tình hình thực tế tại trang trại
3.4.2.2 Quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái và lợn con theo mẹ
Quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái và lợn con theo mẹ được tiến hành theo quy trình đang thực hiện tại trại
3.4.2.3 Chẩn đoán và điều trị bệnh gặp trên đàn lợn nái và lợn con tại trại Để xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn, em tiến hành theo dõi hàng ngày, thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng Từ các triệu chứng thu thập được tiến hành chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn dưới sự hướng dẫn của kỹ sư trại Cụ thể:
* Bệnh viêm tử cung: bệnh có 2 thể là thể cấp tính và thể mãn tính
Con vật có triệu chứng sốt cao trên 40 độ C, kèm theo tình trạng bỏ ăn và âm môn sưng tấy đỏ Dịch tiết từ âm đạo chảy ra nhầy trắng đục, thỉnh thoảng có lẫn máu Con vật biểu hiện sự bứt rứt, không yên tĩnh, và có dấu hiệu biếng ăn.
Viêm âm đạo mạn tính không có triệu chứng sốt, âm môn không sưng đỏ nhưng vẫn tiết ra dịch nhầy trắng đục từ âm đạo Dịch nhầy này thường không liên tục, xuất hiện từng đợt kéo dài từ vài ngày đến một tuần Lợn nái gặp tình trạng này thường khó thụ tinh thành công hoặc nếu có thai thì thai nhi có nguy cơ chết do viêm nhiễm lan từ niêm mạc âm đạo và tử cung sang thai.
+ Điều trị: Dùng các loại thuốc sau để điều trị:
- Thụt rửa thuốc tím 0,1% 2 lần/ngày, 2 ngày liên tục
- Tiêm bắp, điều trị trong 3 ngày lên tục
Heo bị tức sữa là tình trạng phổ biến sau khi sinh, biểu hiện qua việc sữa bị nghẽn, khiến heo không thể phún sữa, gây đau tức vú và có thể sốt Vú heo nái có thể sưng, nóng, và nái có thể bỏ ăn hoặc cắn con không cho bú, đặc biệt là ở heo nái tơ Nếu không được xử lý kịp thời, tình trạng tức sữa sẽ gia tăng, dẫn đến mất phản xạ tiết sữa và phún sữa, gây ứ sữa lâu ngày có thể nhiễm khuẩn và gây sốt cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe toàn thân của nái.
Nái bị viêm vú nặng thường có triệu chứng sốt cao trên 40°C, kèm theo tình trạng sưng, cứng, nóng, đỏ và đau Viêm có thể xảy ra ở một hoặc hai vú, hoặc toàn bộ khối vú Những vú viêm cứng không thể vắt ra sữa, và sau vài ngày, nếu có sữa thì thường là sữa lợn cợn, có mủ xanh hoặc máu Nếu để heo con bú, có nguy cơ nhiễm khuẩn và tiêu chảy Nếu không được điều trị, vú viêm có thể teo lại, hình thành abscess bên trong và không sản xuất sữa trong các lứa sau Ngoài ra, viêm vú còn có thể lây lan sang các vú khác, dẫn đến tình trạng viêm nhiều hơn trong các lứa tiếp theo.
+ Điều trị: Dùng các thuốc sau để điều trị:
Để giảm sưng và đau bầu vú, bạn có thể áp dụng phương pháp phong bế bằng cách chườm ấm Hãy vắt cạn vú viêm 4-5 lần mỗi ngày để tránh tình trạng lây lan sang vú khác.
Tiêm gentamox: 1ml/ 15 kg TT
Tiêm ketofen: 1ml/ 30 kg TT Điều trị liên tục trong 3 - 5 ngày
Để xác định lợn nái đã sinh hết heo con hay chưa, chúng ta cần quan sát số lượng heo con và số lượng bánh nhau Mỗi heo con sẽ có một bánh nhau tương ứng, và mỗi bánh nhau sẽ có một cuống nhau riêng biệt.
- Sau khi lợn nái sinh được khoảng 5- 7 giờ, nhưng nhau vẫn chưa ra hết thì xác định là lợn nái đẻ sót nhau
Nái sót nhau thường có những biểu hiện như bứt rứt không yên, rặn nhiều và có thể không cho heo con bú sữa Mép âm hộ xuất hiện dịch màu hồng, lợn nái mệt mỏi, ăn uống kém, sốt cao từ 41-42 độ C, cơ thể ửng đỏ và khó thở, vú căng cứng Ở giai đoạn sau, dịch viêm chảy ra nhiều, có màu đen lẫn máu và mùi tanh hôi, kèm theo các bánh nhau bị phân hủy.
- Điều trị 2 - 3 ngày, kết hợp thụt rửa bằng thuốc tím 0,1%
+Triệu chứng: Bệnh xảy ra lẻ tẻ, tỷ lệ mắc bệnh từ 10- 20% Bệnh thường xảy ra ở lợn 1- 6 tuần tuổi
Thể quá cấp tính ở lợn gây ra cái chết nhanh chóng, với triệu chứng sốt cao, bỏ ăn, lờ đờ và suy yếu Lợn có thể xuất hiện các triệu chứng thần kinh như mất thăng bằng, liệt, đi lại khập khiễng, uốn người ra sau, run rẩy và co giật, thậm chí có thể bị mù và điếc Ngoài ra, hiện tượng viêm màng não cũng có thể xảy ra, dẫn đến tụ máu não, màng não và dịch não tủy có màu đục.
Bệnh cấp tính ở lợn được đặc trưng bởi triệu chứng sốt, lông da sởn lên, suy nhược và què Khi bệnh tiến triển, lợn có thể bị sút cân, và các khớp bị nhiễm sưng to Một hoặc nhiều khớp, đặc biệt là các khớp chân trước, chân sau và mắt cá chân, thường sưng phồng Tình trạng này gây đau đớn cho lợn, làm hạn chế khả năng di chuyển và bú của lợn con.
-Thể mãn tính: Lợn bệnh còi cọc và bị viêm khớp mãn tính suốt đời
Các khớp bị bệnh thường chứa nhiều dịch khớp đục và có cục sợi tơ huyết (fibrin) Màng khớp sưng phồng, mất màu và tấy đỏ, trong khi mô liên kết xung quanh dày lên và có thể xuất hiện các ổ mủ nhỏ (áp xe) Khi bệnh trở thành mãn tính, sụn khớp có thể bị tổn thương, và các bệnh tích cũng có thể xuất hiện trong sự phát triển của các khúc xương.
+ Điều trị: Tiêm các thuốc sau:
- Ketofen: 1ml/ 30 kg TT Điều trị liên tục trong 3 ngày
* Hội chứng tiêu chảy ở lợn con theo mẹ
+ Triệu chứng: có 2 thể là thể cấp tính và thể á cấp tính
Heo mắc bệnh cấp tính thường nằm chồng lên nhau và run rẩy ở một góc chuồng, kèm theo vùng da xung quanh hậu môn và đuôi ướt Cần kiểm tra xung quanh chuồng để tìm thêm dấu hiệu như phân nước, màu kem hoặc màu vàng Trong nhiều trường hợp, phân có mùi tanh khó ngửi, cho thấy tình trạng sức khỏe của heo đang gặp vấn đề nghiêm trọng.
Thể á cấp tính là loại tiêu chảy có triệu chứng tương tự như thể cấp tính nhưng ít nghiêm trọng hơn và kéo dài từ 7 đến 14 ngày Phân thường có dạng lỏng như nước hoặc sáp như kem, với màu sắc chủ yếu là vàng hoặc trắng, và tỷ lệ tử vong thấp hơn.
- Tiêm alistin: 1ml/5 – 8kgTT, kết hợp với atropin: 1ml/10kgTT
- Điều trị liên tục 2 - 3 ngày
- Lợn gầy còm, lông xù, thở thể bụng có khi ngồi thở, bụng hóp lại
- Lợn bị bệnh không tranh vú với các con khác nên ngày càng gầy yếu + Điều trị:
- Tiêm tylogenta: 1ml/10kg TT
- Nếu lợn có hiện tượng ho nhiều, thở gấp thì tiêm bromhexine: 2ml/con
3.4.3 Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu được xử lý theo phương pháp thống kê sinh học của Nguyễn Văn Thiện (2008) và trên phần mềm Excel 2010
+ Tỷ lệ mắc bệnh (%) = ∑ Số con mắc bệnh x 100
∑ Số con theo dõi + Tỷ lệ chết (%) ∑ Số con chết x 100
+ Tỷ lệ khỏi (%) = ∑ Số con khỏi x 100
Nội dung thực hiện
- Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại
- Tham gia các công tác nuôi dưỡng và chăm sóc đàn lợn lợn nái
- Thực hiện quy trình phòng bệnh cho đàn lợn
- Tham gia chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn lợn nái và lợn con theo mẹ
- Tham gia các công tác kỹ thuật khác.
Các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện
3.4.1 Các chỉ tiêu theo dõi
- Tình hình chăn nuôi lợn tại trang trại
- Quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng đàn lợn nái và lợn con
- Tình hình sinh sản của đàn lợn nái
- Kết quả phòng bệnh cho đàn lợn nái và lợn con
- Tỷ lệ mắc một số bệnh ở đàn lợn nái và lợn con
- Hiệu quả điều trị bệnh của 1 số phác đồ
- Thực hiện các công tác khác
3.4.2.1 Đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại Để đánh giá tình hình chăn nuôi tại trại em tiến hành thu thập thông tin từ trại, kết hợp với kết quả theo dõi tình hình thực tế tại trang trại
3.4.2.2 Quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái và lợn con theo mẹ
Quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn nái và lợn con theo mẹ được tiến hành theo quy trình đang thực hiện tại trại
3.4.2.3 Chẩn đoán và điều trị bệnh gặp trên đàn lợn nái và lợn con tại trại Để xác định tình hình nhiễm bệnh trên đàn lợn, em tiến hành theo dõi hàng ngày, thông qua phương pháp chẩn đoán lâm sàng Từ các triệu chứng thu thập được tiến hành chẩn đoán và điều trị bệnh cho lợn dưới sự hướng dẫn của kỹ sư trại Cụ thể:
* Bệnh viêm tử cung: bệnh có 2 thể là thể cấp tính và thể mãn tính
Con vật mắc bệnh cấp tính sẽ có triệu chứng sốt trên 40 độ C, bỏ ăn, và âm môn sưng tấy đỏ Dịch tiết từ âm đạo chảy ra nhầy trắng đục, đôi khi có lẫn máu Con vật thường đứng, nằm không yên, thể hiện sự bứt rứt và biếng ăn.
Thể mạn tính của viêm nhiễm âm đạo không có triệu chứng sốt, âm môn không sưng đỏ nhưng vẫn tiết ra dịch nhầy trắng đục từ âm đạo Dịch nhầy này thường không liên tục, chảy ra từng đợt kéo dài từ vài ngày đến một tuần Lợn nái bị ảnh hưởng thường không thụ tinh thành công hoặc nếu có thai thì thai sẽ chết do viêm nhiễm từ niêm mạc âm đạo và tử cung lan sang thai, gây tổn hại cho sự phát triển của thai nhi.
+ Điều trị: Dùng các loại thuốc sau để điều trị:
- Thụt rửa thuốc tím 0,1% 2 lần/ngày, 2 ngày liên tục
- Tiêm bắp, điều trị trong 3 ngày lên tục
Heo bị tức sữa thường gặp phải tình trạng đau tức vú, sốt, và có thể bỏ ăn, đặc biệt là ở heo nái tơ Bệnh thường phát sinh ngay sau khi sinh, với dấu hiệu vú sưng, nóng và không thể phún sữa Nếu không được xử lý kịp thời, tình trạng này có thể trở nên nghiêm trọng hơn, dẫn đến mất phản xạ tiết sữa và nhiễm khuẩn, gây sốt cao và ảnh hưởng đến sức khỏe toàn thân của nái.
Nái bị viêm vú nặng có triệu chứng sốt cao (trên 40°C) và biểu hiện viêm rõ rệt với tình trạng sưng, cứng, nóng, đỏ và đau Viêm có thể xảy ra ở 1-2 vú hoặc toàn bộ khối vú, khiến cho sữa không thể vắt ra Sau vài ngày, vú có thể bớt cứng nhưng sữa vắt ra thường có lợn cợn, mủ xanh hoặc máu, gây nguy hiểm cho heo con nếu cho bú Nếu không được điều trị, vú sẽ teo lại, có thể hình thành abscess cứng bên trong và không cho sữa trong các lứa sau Viêm vú còn có khả năng lây lan mầm bệnh sang các vú khác, làm tăng số lượng vú viêm trong mỗi lứa.
+ Điều trị: Dùng các thuốc sau để điều trị:
Để giảm sưng và đau bầu vú hiệu quả, bạn có thể áp dụng phương pháp phong bế bằng cách chườm ấm Ngoài ra, việc vắt cạn vú viêm từ 4 đến 5 lần mỗi ngày sẽ giúp ngăn ngừa tình trạng lây lan sang bầu vú khác.
Tiêm gentamox: 1ml/ 15 kg TT
Tiêm ketofen: 1ml/ 30 kg TT Điều trị liên tục trong 3 - 5 ngày
Để xác định lợn nái đã sinh hết heo con hay chưa, chúng ta cần quan sát số lượng heo con và số lượng bánh nhau Mỗi heo con sẽ có một bánh nhau đi kèm, và mỗi bánh nhau sẽ có một cuống nhau.
- Sau khi lợn nái sinh được khoảng 5- 7 giờ, nhưng nhau vẫn chưa ra hết thì xác định là lợn nái đẻ sót nhau
Nái sót nhau thường có những biểu hiện như bứt rứt không yên, rặn nhiều và có thể không cho heo con bú sữa Âm hộ của lợn nái có dịch màu hồng chảy ra, kèm theo triệu chứng mệt mỏi, ăn uống kém và sốt cao từ 41-42 độ C Cơ thể lợn nái có dấu hiệu ửng đỏ, khó thở và vú căng cứng Trong giai đoạn sau, dịch viêm chảy ra nhiều, có màu đen lẫn máu và mùi tanh hôi, đi kèm với các bánh nhau bị phân hủy.
- Điều trị 2 - 3 ngày, kết hợp thụt rửa bằng thuốc tím 0,1%
+Triệu chứng: Bệnh xảy ra lẻ tẻ, tỷ lệ mắc bệnh từ 10- 20% Bệnh thường xảy ra ở lợn 1- 6 tuần tuổi
Thể quá cấp tính ở lợn gây ra triệu chứng nghiêm trọng như sốt cao, bỏ ăn, và tình trạng lờ đờ, suy yếu Lợn có thể xuất hiện các dấu hiệu thần kinh như mất thăng bằng, đi lại khập khiễng, co giật, và thậm chí là liệt Ngoài ra, chúng có thể bị mù hoặc điếc Hiện tượng viêm màng não cũng xảy ra, dẫn đến tụ máu não và dịch não tủy có màu đục.
Bệnh cấp tính ở lợn được đặc trưng bởi các triệu chứng như sốt, lông da sởn lên, suy nhược và què Khi bệnh tiến triển, lợn có thể bị sút cân và các khớp bị sưng to, trong đó một hoặc nhiều khớp, đặc biệt là khớp chân trước, chân sau và mắt cá chân, thường bị tổn thương Tình trạng này gây ra đau đớn cho lợn, làm hạn chế khả năng di chuyển và ảnh hưởng đến việc bú của lợn con.
-Thể mãn tính: Lợn bệnh còi cọc và bị viêm khớp mãn tính suốt đời
Các khớp bệnh thường chứa nhiều dịch khớp đục và có các cục sợi tơ huyết (fibrin) Màng khớp sưng phồng, mất màu và tấy đỏ, trong khi mô liên kết xung quanh dày lên và có thể xuất hiện các ổ mủ nhỏ (áp xe) Khi bệnh tiến triển đến giai đoạn mãn tính, có thể gây tổn thương sụn khớp và ảnh hưởng đến sự phát triển của các khúc xương.
+ Điều trị: Tiêm các thuốc sau:
- Ketofen: 1ml/ 30 kg TT Điều trị liên tục trong 3 ngày
* Hội chứng tiêu chảy ở lợn con theo mẹ
+ Triệu chứng: có 2 thể là thể cấp tính và thể á cấp tính
Heo mắc bệnh cấp tính thường nằm chồng lên nhau, run rẩy ở một góc chuồng, với vùng da xung quanh hậu môn và đuôi ướt Cần kiểm tra xung quanh chuồng để tìm thêm dấu hiệu như phân nước, có màu kem hoặc vàng Trong nhiều trường hợp, phân có mùi tanh khó ngửi, là dấu hiệu cảnh báo tình trạng sức khỏe của heo.
Thể á cấp tính là loại tiêu chảy có triệu chứng tương tự như thể cấp tính nhưng ít nghiêm trọng hơn và kéo dài lâu hơn, với tỷ lệ tử vong thấp hơn Thường xuất hiện trong khoảng thời gian từ 7 đến 14 ngày, phân có thể lỏng như nước hoặc sáp như kem, thường có màu vàng hoặc trắng.
- Tiêm alistin: 1ml/5 – 8kgTT, kết hợp với atropin: 1ml/10kgTT
- Điều trị liên tục 2 - 3 ngày
- Lợn gầy còm, lông xù, thở thể bụng có khi ngồi thở, bụng hóp lại
- Lợn bị bệnh không tranh vú với các con khác nên ngày càng gầy yếu + Điều trị:
- Tiêm tylogenta: 1ml/10kg TT
- Nếu lợn có hiện tượng ho nhiều, thở gấp thì tiêm bromhexine: 2ml/con
3.4.3 Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu được xử lý theo phương pháp thống kê sinh học của Nguyễn Văn Thiện (2008) và trên phần mềm Excel 2010
+ Tỷ lệ mắc bệnh (%) = ∑ Số con mắc bệnh x 100
∑ Số con theo dõi + Tỷ lệ chết (%) ∑ Số con chết x 100
+ Tỷ lệ khỏi (%) = ∑ Số con khỏi x 100