1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bài giảng Lịch sử sách và Lịch sử thư viện (Ngành: Thư viện) - Trường CĐ Cộng đồng Lào Cai

32 25 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Lịch Sử Sách Và Lịch Sử Thư Viện
Trường học Trường Cao Đẳng Cộng Đồng Lào Cai
Chuyên ngành Thư viện
Thể loại bài giảng
Thành phố Lào Cai
Định dạng
Số trang 32
Dung lượng 3,3 MB

Cấu trúc

  • Phần 1: Lịch sử sách (4)
  • Chương 1: Vai trò tác dụng của sách trong đời sống xã hội (4)
    • 1. Sự hình thành sách (4)
    • 2. Vai trò, tác dụng của sách trong đời sống xã hội (17)
  • Chương 2: Qui trình xuất bản sách (0)
    • 1. Quyết định xuất bản (18)
    • 2. Liên kết xuất bản (18)
    • 3. Chế bản điện tử (19)
    • 4. Thiết kế bìa (19)
    • 5. In – gia công – đóng gói (19)
    • 6. Nộp xuất bản phẩm lưu chiểu và nộp xuất bản phẩm cho Thư viện Quốc gia Việt Nam (20)
    • 7. Phát hành (20)
  • Chương 3: Lịch sử sách Việt Nam (20)
    • 2.1. Sự xuất hiện sách ở Việt Nam (21)
      • 2.2.1. Thời phong kiến (21)
    • 2.3. Mối quan hệ của sách đối với nền văn hóa dân tộc Việt Nam (21)
  • Phần 2: Lịch sử thư viện (21)
  • Chương 1: Sơ lược Lịch sử sự nghiệp Thư viện Thế giới – Thời gian 4 giờ (21)
    • 1. Bản chất của thư viện (21)
      • 1.1 Khái niệm thư viện (21)
      • 1.2. Các thành phần cơ bản của thư viện (22)
  • Chương 2: Lịch sử sự nghiệp thư viện Việt Nam – Thời gian 5 giờ (29)
    • 2.1. Tổng quan lịch sử thư viện Việt Nam (30)
    • 2.2. Các giai đoạn phát triển của sự nghiệp thư viện Việt Nam (32)

Nội dung

(NB) Bài giảng Lịch sử sách và Lịch sử thư viện với mục tiêu giúp người học có thể xác định tầm quan trọng và quá trình hình thành của sách và của thư viện trong xã hội; Hiểu được mục đích xuất hiện của sách và thư viện trong xã hội; Quá trình hình thành và quy luật phát triển của sách và thư viện;..

Vai trò tác dụng của sách trong đời sống xã hội

Sự hình thành sách

Sách là gì? Ban đầu, sách được xem như một công cụ lưu trữ thông tin, nhưng sau này, nó đã trở thành phương tiện quan trọng để truyền tải và thể hiện ý tưởng của con người.

Yếu tố quan trọng đầu tiên về lịch sử sách là động lực thúc đẩy sự ra đời và phát triển của nó Một quy luật chung cho thấy rằng các phát minh trong lịch sử sách, cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, đều xuất phát từ nhu cầu xã hội.

Những ký hiệu và nét vẽ đầu tiên trong lịch sử nhân loại xuất hiện khoảng 75,000 năm TCN, thường được tìm thấy trên đá, xương động vật và trong các hang động Tuy nhiên, đến khoảng năm 10,000 TCN, sự thay đổi lớn trong cơ cấu xã hội và kinh tế đã tạo ra một lối sống mới, với những vấn đề mới về quản trị, thương mại và sản xuất Đây chính là động lực thúc đẩy việc lưu trữ thông tin một cách có ý thức và hệ thống, dẫn đến sự ra đời của sách để đáp ứng nhu cầu này.

Hình vẽ trên đá có niên đại cổ nhất được tìm thấy

Vào khoảng 3700 năm TCN, người Sumer ở vùng Lưỡng Hà, nơi thiếu gỗ và đá nhưng có nhiều đất sét, đã sáng tạo ra những tablet bằng đất sét kích thước tương đương một bàn tay, đánh dấu sự ra đời của thiết bị lưu trữ thông tin đầu tiên.

Họ sử dụng đất sét để tạo ra một mặt phẳng, và khi đất sét còn ướt, họ dùng các đầu nhọn để khắc lên bề mặt Sau khi hoàn thành, miếng đất sét sẽ được phơi khô hoặc đưa vào lò nung để hoàn thiện.

Trong thời kỳ này, các nhà nước cổ đại đã hình thành, dẫn đến sự phân hóa xã hội với nhiều tầng lớp khác nhau Nông nghiệp phát triển đã tạo ra sản phẩm dư thừa, cho phép một số người không cần tham gia vào sản xuất mà có thể làm các công việc như quản trị và thương mại Những ký hiệu trên tablet đầu tiên chủ yếu được sử dụng để ghi chép số lượng gia súc, hàng hóa trao đổi và nợ nần Đối với người Sumer, tablet được dùng để ghi lại các giao dịch thương mại và luật lệ Vào năm 3100 TCN, người Sumer bắt đầu quy chuẩn hóa các hình vẽ của mình, đánh dấu sự ra đời của chữ viết đầu tiên của nhân loại, được gọi là pictograph Chữ viết ngày càng được đơn giản hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho cả người đọc và người viết.

Pictographic của người Summer năm 2800 TCN

Pictographic của người Summer năm 2500 TCN

Mặc dù các ký hiệu trên tablet đất sét còn phức tạp và khó vẽ, nhưng vào năm 2500 TCN, chữ viết cuneiform đã ra đời với các đường thẳng, giúp việc viết trở nên dễ dàng hơn Việc sử dụng đường thẳng không chỉ phù hợp với bề mặt tablet mà còn giúp chuẩn hóa chữ viết, cho phép mọi người viết giống nhau hơn so với hệ thống pictographic Do đó, năm 2500 TCN được xem là mốc quan trọng cho sự ra đời của chữ viết quy chuẩn.

Ai Cập, một nền văn minh rực rỡ, đã phát triển một hệ thống chữ viết và thiết bị lưu trữ riêng biệt, khác với người Lưỡng Hà Khoảng 2500 TCN, xã hội Ai Cập đã hình thành và phát triển thịnh vượng tương tự như nền văn minh Lưỡng Hà, mặc dù hai nền văn minh này ít có sự giao lưu do vị trí địa lý cách biệt.

Ai Cập vốn nổi tiếng với chữ tượng hình (hielogryphic) của mình Vào khoảng

Vào khoảng 2600 năm TCN, người Ai Cập đã phát triển chữ tượng hình một cách tương đối hoàn chỉnh, chủ yếu được khắc trên các hang động và phiến đá.

Chữ tượng hình của người Ai Cập

Chữ tượng hình của người Ai Cập phát triển theo hướng khác biệt so với chữ cuneiform của người Sumer, với số lượng ký tự tăng từ 800 vào khoảng 2500 năm TCN lên đến 5000 vào công nguyên Trong số đó, có ba loại chữ, trong đó chữ Demotic, ra đời khoảng năm 700 TCN, được tối giản hóa để phục vụ cho đông đảo người dân Mặc dù vậy, cả ba loại chữ vẫn tồn tại song song và bổ sung cho nhau: chữ Demotic chủ yếu được sử dụng trên giấy papyrus, trong khi chữ tượng hình gốc thường xuất hiện trong các văn bản chính thống và trên các công trình kiến trúc hay đồ vật linh thiêng.

Chữ tượng hình Ai Cập được coi là động lực chính cho sự ra đời của chữ alphabet đầu tiên ở Lưỡng Hà, bao gồm 23 ký tự dùng để biểu diễn từ, tương tự như các phụ âm trong ngôn ngữ hiện đại Người Ai Cập đã phát minh và sử dụng loại chữ này từ khoảng năm 2700 TCN, tuy nhiên, họ không tiếp tục cải tiến và sử dụng nhiều, dẫn đến việc số lượng ký tự chỉ tăng lên mà không giảm.

Sự cải tiến của chữ viết Ai Cập

Giấy papyrus là thiết bị viết chính của người Ai Cập, được làm từ cây papyrus chỉ có ở dọc bờ sông Nile Sau khi lột vỏ, cây papyrus được cắt thành lát mỏng, ngâm nước để loại bỏ chất đường, sau đó ghép nối và phơi khô dưới áp lực của đá lớn trong khoảng 7 ngày Hai tấm giấy papyrus cổ nhất được tìm thấy trong một lăng mộ chưa sử dụng có niên đại khoảng 3000 năm TCN Giấy papyrus sau đó được cải tiến và tồn tại phổ biến dưới dạng cuộn.

Giấy papyrus dạng cuộn là công cụ viết phổ biến ở Ai Cập, nơi người Ai Cập sử dụng mực và bút lông để viết Họ có hai loại mực: màu đen từ muội than và màu đỏ từ hoàng thổ, được chế biến thành bánh và trộn với nước trước khi sử dụng Mực đỏ không chỉ được dùng để nhấn mạnh mà còn đóng vai trò tương tự như dấu ngoặc đơn trong ngữ pháp hiện đại, được áp dụng cho các chữ cái, từ đầu tiên, tiêu đề và các dấu câu.

Giấy papyrus, với chữ demotic và hai loại mực, mang lại nhiều ưu điểm vượt trội so với tablet đất sét Việc viết trên giấy papyrus dễ dàng hơn, đặc biệt trong việc tạo ra các đường cong, khiến chữ demotic của người Ai Cập phong phú và đa dạng hơn so với chữ cuneiform của người Sumer Điều này đã dẫn đến sự xuất hiện nhiều tranh ảnh trong các văn bản Ai Cập, và thậm chí có nhiều cuộn giấy papyrus chỉ chứa hình ảnh Bản đồ đầu tiên được phát hiện ở Ai Cập có niên đại khoảng

Giấy papyrus, với ưu điểm nổi bật, đã trở thành công cụ viết và trao đổi thông tin chủ yếu trong các nền văn minh giao lưu từ 1500 TCN, đặc biệt là trong nền văn minh Hy Lạp - La Mã Tuy nhiên, nhược điểm của nó là dễ rách và dễ bị hủy hoại bởi thiên tai, chiến tranh, hay vi sinh vật, dẫn đến việc không có thư viện giấy papyrus nào được tìm thấy, chỉ còn lại những bản thảo nhỏ lẻ.

Sách dạng lật trang (codex) ra đời

Vai trò, tác dụng của sách trong đời sống xã hội

Sách là sản phẩm của con người và xã hội, chứa đựng kiến thức quý giá từ nhiều nền văn hóa và thời kỳ khác nhau Nó phản ánh những thành tựu mà nhân loại đã đạt được qua lịch sử, từ thời kỳ khai sinh đến xã hội hiện đại Bên cạnh đó, sách còn là phương tiện lưu giữ di sản tinh thần vô giá mà nhân loại đã dày công xây dựng.

Sách là chìa khóa vàng mở ra cánh cửa ước mơ cho mỗi người, nhưng để biến kiến thức thành hiện thực, người đọc cần biết cách áp dụng những gì đã học.

Sách là nguồn tri thức quý giá của nhân loại, phản ánh đa dạng các lĩnh vực khác nhau Khi đọc sách, người đọc tiếp nhận tài liệu, thông tin và kiến thức phong phú, giúp họ hiểu rõ hơn về các vấn đề trong cuộc sống.

Qui trình xuất bản sách

Quyết định xuất bản

Tác giả hoặc tổ chức sở hữu tác phẩm cần chọn nhà xuất bản phù hợp và gửi bản thảo cho họ Nhà xuất bản sẽ tiến hành đọc duyệt và biên tập nội dung theo quy định pháp luật Nếu bản thảo đáp ứng yêu cầu, nhà xuất bản sẽ thực hiện đăng ký xuất bản với Bộ Thông tin và Truyền thông, đồng thời chịu trách nhiệm về nội dung đăng ký.

Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký xuất bản,

Bộ Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm xác nhận đăng ký xuất bản bằng văn bản và cấp số xác nhận cho từng tác phẩm, tài liệu hoặc ấn phẩm tái bản Đồng thời, bộ cũng cấp mã số sách tiêu chuẩn quốc tế (ISBN) Nếu không xác nhận đăng ký, bộ phải cung cấp văn bản trả lời với lý do cụ thể.

Văn bản xác nhận đăng ký xuất bản là cơ sở để nhà xuất bản quyết định về việc xuất bản tác phẩm, tài liệu và ấn phẩm tái bản Nhà xuất bản phải hoàn tất quyết định xuất bản trước ngày 31 tháng 12 của năm đăng ký Nếu không tiến hành xuất bản, nhà xuất bản cần báo cáo Bộ Thông tin và Truyền thông trước ngày 31 tháng 3 của năm tiếp theo, và số xác nhận đăng ký cùng mã số ISBN sẽ không còn hiệu lực.

Quyết định xuất bản phải được ký bởi Giám đốc hoặc Phó Giám đốc được ủy quyền của nhà xuất bản, kèm theo thời hạn rõ ràng trên giấy phép và địa điểm in ấn xuất bản phẩm.

Liên kết xuất bản

Nhà xuất bản hợp tác với các đối tác liên kết, bao gồm tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả, các nhà xuất bản và cơ sở in ấn, cũng như các tổ chức khác có tư cách pháp nhân, để thực hiện việc xuất bản từng ấn phẩm.

Nhà xuất bản thiết lập mối liên kết với đối tác thông qua các hình thức như khai thác bản thảo, biên tập sơ bộ bản thảo, in ấn xuất bản phẩm và phát hành các sản phẩm xuất bản.

Việc liên kết xuất bản chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau: thứ nhất, cần có văn bản chấp thuận từ tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ; thứ hai, phải có hợp đồng liên kết xuất bản giữa nhà xuất bản và đối tác liên kết, hợp đồng này cần tuân thủ các nội dung cơ bản do Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông quy định; cuối cùng, trong trường hợp liên kết biên tập sơ bộ bản thảo, đối tác liên kết phải có biên tập viên, đặc biệt đối với các tác phẩm liên quan đến lý luận chính trị, lịch sử, tôn giáo, chủ quyền quốc gia và hồi ký, nhà xuất bản không được thực hiện liên kết biên tập sơ bộ bản thảo.

Chế bản điện tử

Sau khi quyết định xuất bản được phê duyệt, dữ liệu tác phẩm sẽ được đánh máy và định dạng theo kích thước sách đã chọn Cuốn sách sau đó được in trên loại giấy can, một loại giấy có khả năng thấu quang cao, cho phép ánh sáng đi qua, và được chuyển đến nhà in để hoàn thiện.

Thiết kế bìa

Bìa 1 (bìa trước của cuốn sách) phải ghi rõ tên sách, tên tác giả hoặc người biên soạn, người chủ biên (nếu có), họ tên người dịch (nếu là sách dịch), người phiên âm (nếu là sách phiên âm từ chữ Nôm); tên nhà xuất bản hoặc cơ quan, tổ chức được cấp giấy phép xuất bản

Bìa 4 phải ghi giá bán lẻ đối với sách kinh doanh; đối với sách do Nhà nước đặt hàng phải ghi là “sách Nhà nước đặt hàng”; đối với sách không kinh doanh phải ghi là “sách không bán”, mã vạch chuẩn,… Tác giả được in hình ở bìa 4 để giới thiệu Bìa cấm quảng cáo bất kì loại gì

Trên trang đầu của sách, cần ghi rõ họ tên và chức danh của tổng giám đốc chịu trách nhiệm xuất bản, tổng biên tập nội dung, cùng với họ tên biên tập viên Bên cạnh đó, cần ghi khuôn khổ sách, số xác nhận đăng ký xuất bản, số quyết định xuất bản của tổng giám đốc hoặc số giấy phép xuất bản từ cơ quan quản lý nhà nước Thêm vào đó, ghi rõ họ tên người trình bày, minh họa, biên tập kỹ thuật, và người sửa bản in Cũng cần nêu số lượng in, tên và địa chỉ cơ sở in, thời gian nộp lưu chiểu, cùng mã số sách tiêu chuẩn quốc tế (ISBN).

In – gia công – đóng gói

Cơ sở in chỉ được nhận in xuất bản phẩm khi có đầy đủ các giấy tờ theo quy định: a) Đối với xuất bản phẩm qua nhà xuất bản, cần có quyết định xuất bản và bản thảo có chữ ký của tổng giám đốc; b) Đối với tài liệu không kinh doanh của cơ quan, tổ chức Việt Nam hoặc nước ngoài không qua nhà xuất bản, cần có giấy phép xuất bản và bản thảo có dấu của cơ quan cấp giấy phép; c) Đối với xuất bản phẩm in gia công cho nước ngoài, cần có giấy phép in gia công và bản mẫu có dấu của cơ quan cấp giấy phép.

Để nhận in các xuất bản phẩm, cần có hợp đồng hợp pháp giữa cơ sở in và nhà xuất bản hoặc cơ quan, tổ chức được cấp giấy phép xuất bản tài liệu không kinh doanh.

Số lượng xuất bản phẩm in ấn cần được ghi rõ trong hợp đồng và phải phù hợp với quyết định xuất bản hoặc giấy phép xuất bản tài liệu không nhằm mục đích kinh doanh.

Nộp xuất bản phẩm lưu chiểu và nộp xuất bản phẩm cho Thư viện Quốc gia Việt Nam

Tất cả xuất bản phẩm phải được nộp lưu chiểu cho cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản ít nhất 10 ngày trước khi phát hành Nhà xuất bản hoặc cơ quan, tổ chức có giấy phép từ Bộ Thông tin và Truyền thông cần nộp ba bản cho Bộ, trong khi trường hợp in dưới ba trăm bản chỉ cần nộp hai bản Đối với cơ quan, tổ chức có giấy phép từ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cần nộp hai bản cho Ủy ban và một bản cho Bộ Thông tin và Truyền thông.

Đối với truyền thông, khi số lượng in dưới ba trăm bản, cần nộp một bản cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và một bản cho Bộ Thông tin và Truyền thông Đối với xuất bản phẩm tái bản không sửa chữa, bổ sung, cũng cần nộp một bản tương tự.

Bộ Thông tin và Truyền thông quy định rằng trong trường hợp có sửa chữa hoặc bổ sung, cần thực hiện theo các điểm a và b của khoản này Đối với xuất bản phẩm có nội dung thuộc bí mật nhà nước, theo quy định của pháp luật, chỉ cần nộp tờ khai lưu chiểu.

Trong vòng 45 ngày kể từ ngày phát hành, nhà xuất bản và các tổ chức có liên quan phải nộp ba bản cho Thư viện Quốc gia Nếu số lượng in dưới ba trăm bản, chỉ cần nộp hai bản.

Phát hành

Sau khi in ấn, sách sẽ trải qua quá trình kiểm tra chất lượng và được nộp lưu chiểu Chỉ khi có quyết định phát hành từ nhà xuất bản, tác phẩm mới chính thức được phát hành.

Tất cả cá nhân và tổ chức đều có quyền xuất bản tác phẩm và sách của mình, miễn là tuân thủ các quy định của Luật xuất bản Việt Nam Điều này bao gồm việc thực hiện đúng quy trình xuất bản tác phẩm tại Việt Nam như đã nêu.

Lịch sử sách Việt Nam

Sự xuất hiện sách ở Việt Nam

2.1.2 Sự xuất hiện và những đặc điểm của sách Việt Nam

2 Các giai đoạn phát triển của sách Việt Nam

Từ thời kỳ đầu đến cuối thế kỷ 10, Việt Nam đã hình thành nền văn hóa riêng mặc dù chưa có chữ viết Tiếng Việt, thuộc nhóm ngôn ngữ cổ ở Đông Nam Á, vẫn giữ được bản sắc và không bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ Hán Vào năm 179 TCN, Triệu Đà chiếm Âu Lạc, và năm 111 TCN, nhà Hán đã chinh phục Nam Việt và Âu Lạc, thiết lập chế độ đô hộ kéo dài đến thế kỷ 10 Trong thời gian này, nhân dân không được học hành, trong khi kẻ xâm lược mở một số trường riêng chỉ để dạy con em làm tay sai Dù vậy, các cuộc khởi nghĩa vẫn liên tiếp nổ ra, bất chấp việc phong kiến phương Bắc đưa đạo Nho và Phật giáo vào Việt Nam.

Thời kỳ nhà Lý (1009 – 1225) Văn hóa giáo dục phát triển và sách đã xuất hiện vào thời kỳ này

Thời kỳ nhà Trần Văn hóa giáo dục phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho sách ra đời

Thời kỳ nhà Hồ (1400-1407) Văn hóa giáo dục và sách xuất hiện trong thời kỳ này

Thời kỳ Lê – Mạc- Trịnh – Nguyễn (1527-1701)

Mối quan hệ của sách đối với nền văn hóa dân tộc Việt Nam

2.3.1 Những ảnh hưởng của tình hình văn hóa xã hội đối với sự hình thành và phát triển của sách

2.3.2 Tác dụng của sách đối với sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam

Sơ lược Lịch sử sự nghiệp Thư viện Thế giới – Thời gian 4 giờ

Bản chất của thư viện

Thư viện là nơi lưu trữ đa dạng các nguồn thông tin được tuyển chọn bởi các chuyên gia, cho phép người dùng tham khảo hoặc mượn trong môi trường yên tĩnh, thuận lợi cho việc học tập Với hàng triệu đầu mục, thư viện bao gồm nhiều định dạng như sách, báo, tạp chí, phim, bản đồ, tài liệu số, sách điện tử, sách nói, cơ sở dữ liệu, và video game, tạo nên một kho tàng tri thức phong phú cho cộng đồng.

Thư viện là một không gian được xây dựng và duy trì bởi cơ quan nhà nước, tổ chức, công ty hoặc cá nhân, nhằm cung cấp tài liệu và thông tin cho người dùng Đội ngũ thủ thư chuyên nghiệp tại thư viện có nhiệm vụ tìm kiếm, sắp xếp và đáp ứng nhu cầu thông tin của độc giả Bên cạnh đó, thư viện còn có khu vực yên tĩnh cho việc học tập và không gian hỗ trợ cho hoạt động nhóm Nhiều thư viện hiện đại còn trang bị cơ sở vật chất cho phép truy cập kho tài liệu số và Internet.

Thư viện hiện đại đang chuyển mình thành những trung tâm thông tin đa dạng, cung cấp kiến thức không giới hạn qua nhiều hình thức khác nhau Ngoài việc lưu trữ sách, thư viện còn tổ chức các chương trình cộng đồng, hỗ trợ mọi người trong việc học tập suốt đời.

1.2 Các thành phần cơ bản của thư viện

Hiện nay, thư viện được hình thành từ bốn yếu tố cơ bản, trong đó yếu tố đầu tiên là vốn tài liệu Vốn tài liệu ban đầu bao gồm sách chép tay trên đất sét, giấy papyrus và da, sau đó mở rộng với sách in từ thế kỷ 15 Đến cuối thế kỷ XIX, ngoài sách in, vốn tài liệu còn bao gồm các vật mang tin như microfilm, microfiche và gần đây là tài liệu nghe – nhìn cùng tài liệu điện tử Các nhà thư viện học tại Mỹ và một số quốc gia khác còn gọi vốn tài liệu này là bộ sưu tập thư viện.

Cán bộ thư viện, hay còn gọi là thủ thư, là người chuyên trách quản lý và bảo quản sách trong thư viện Họ là những chuyên gia thông tin, có nhiệm vụ lưu trữ, phân loại, sắp xếp hồ sơ và sách vở, đồng thời thực hiện các công việc như đánh bút lục, lau chùi sách trên kệ và hướng dẫn người dùng tra cứu thông tin Được đào tạo bài bản về khoa học thư viện, cán bộ thư viện có khả năng tổ chức và quản lý dịch vụ thông tin, đáp ứng nhu cầu của người tìm kiếm thông tin.

Thủ thư thường làm việc tại các thư viện công cộng, thư viện trường học, doanh nghiệp hoặc các cơ quan như bệnh viện và công ty luật Nghề này tương tự như công việc của nhân viên lưu trữ Tại phương Tây, thủ thư được gọi là thư viện viên, là những người chuyên nghiệp trong lĩnh vực thư viện, cung cấp kết nối đến thông tin, xã hội và công nghệ Để trở thành thủ thư, thường yêu cầu có bằng Thạc sĩ về Khoa học Thư viện hoặc Khoa học về Thư viện và Thông tin.

Thư viện chỉ thực sự trở thành thư viện khi bắt đầu phục vụ bạn đọc, vì chính bạn đọc là trung gian kết nối giữa sách, cán bộ thư viện và cơ sở vật chất kỹ thuật Tài liệu, cán bộ thư viện và cơ sở vật chất chỉ là những yếu tố cần thiết để thu hút bạn đọc, từ đó hình thành thư viện như một hiện tượng xã hội.

Mục tiêu hàng đầu của thư viện là phục vụ bạn đọc, và việc phục vụ nhiều độc giả càng làm tăng vai trò xã hội của thư viện Nếu thiếu vắng bạn đọc, thư viện sẽ mất đi mục đích tồn tại và không còn là một thiết chế hữu ích Do đó, cơ sở vật chất và kỹ thuật của thư viện đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút và phục vụ độc giả hiệu quả.

Cơ sở vật chất – kỹ thuật của thư viện bao gồm các nhà và diện tích cùng với trang thiết bị cần thiết Vai trò của chúng rất quan trọng: Đối với tài liệu, đây là nơi lưu trữ và bảo quản; đối với bạn đọc, thư viện là không gian làm việc với tài liệu, tiếp cận các nguồn thông tin trong nước và quốc tế, cũng như là nơi giao lưu, trao đổi ý kiến và sáng tạo.

2 Các thư viện nổi tiếng trên thế giới

1 Thư viện Admont tại Admont, Áo

Thư viện-tu viện lớn thứ hai thế giới, tọa lạc dưới chân dãy núi Alps, được thiết kế bởi kiến trúc sư Joseph Hueber theo phong cách Baroque vào năm 1776 Với chiều dài 230 feet (khoảng 70 m) và chứa hơn 200.000 đầu sách, đại sảnh của thư viện này là một kiệt tác kiến trúc.

Trần thư viện được trang trí bằng những những bích họa của danh họa người Áo theo trường phái Baroque Bartolomeo Altomonte

2 Thư viện George Peabody ở Baltimore, Maryland, Mỹ

Thư viện Peabody, được tài trợ bởi nhà từ thiện George Peabody, là món quà dành tặng công dân Baltimore để tri ân lòng tốt và sự mến khách của họ Thiết kế bởi kiến trúc sư Edmund Lind, thư viện nổi bật với nội thất có mái vòng cao vút, 5 tầng với ban công bằng gang chứa đầy sách, cùng các cửa sổ trời mang lại ánh sáng tự nhiên cho không gian.

3 Thư viện Hoàng gia Copenhagen, Copenhagen, Đan Mạch

Hoàn thành vào năm 1999, "Kim cương đen" là một phần mở rộng của thư viện quốc gia Đan Mạch Tòa nhà hiện đại này được ốp granite đen với thiết kế góc cạnh không đều, tạo nên hình dáng độc đáo, vì vậy nó được gọi là "Kim cương đen".

4 Thư viện Đại học Mỹ thuật Musashino, Tokyo, Nhật Bản

Kiến trúc sư Nhật Bản Sou Fujimoto đã thiết kế thư viện với phong cách tối giản, chỉ gồm các kệ sách và lớp kính bao quanh Những bức tường cao 20 foot (gần 6,1m) được tạo thành từ các kệ sách, xen kẽ với các khu vực đọc sách.

5 Thư viện công cộng Boston, Boston, Massachusetts, Mỹ

Thư viện công Boston, với 23 triệu đầu sách, là thư viện lớn thứ hai tại Mỹ Nơi đây nổi bật với những khoảng sân nhỏ tuyệt đẹp, lối vào kiến trúc kiểu Italia và phòng đọc nổi tiếng Bates Hall.

Bates Hall, một phần quan trọng của thư viện, được đặt theo tên của Joshua Bates, mạnh thường quân đầu tiên hỗ trợ thư viện Năm 1852, ông Bates đã đầu tư một khoản tiền lớn để xây dựng thư viện với điều kiện nó phải trở thành một công trình kiến trúc nổi bật của thành phố và mở cửa tự do cho tất cả mọi người.

6 Thư viện thành phố Stuttgart, Stuttgart, Đức

Thư viện 9 tầng hình khối được thiết kế lấy cảm hứng từ ngôi đền Pantheon, La Mã cổ đại

Lịch sử sự nghiệp thư viện Việt Nam – Thời gian 5 giờ

Tổng quan lịch sử thư viện Việt Nam

2.1.1 Các giả thuyết về sự hình thành sự nghiệp thư viện Việt Nam

2.1.2 Các thư viện Việt Nam đầu tiên

Thư viện Quốc gia Việt Nam, thư viện đầu tiên của cả nước, có nguồn gốc từ Thư viện Trung ương Đông Dương, được thành lập theo Nghị định của Toàn quyền Pháp vào ngày 29/11/1917 Thư viện đã chính thức mở cửa phục vụ công chúng từ ngày 01/9/1919 Đến năm 1935, Thư viện Trung ương Đông Dương được đổi tên thành Thư viện Pierre Pasquier Tuy nhiên, hoạt động của thư viện bị gián đoạn khi Nhật Bản lật đổ Pháp vào tháng 3/1945.

Sau Cách mạng tháng Tám, Thư viện được đổi tên thành Quốc gia Thư viện theo nghị định ngày 20 tháng 10 năm 1945 Tiếp đó, Nha Lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc đã được sáp nhập vào Nha Giám đốc Đại học vụ, và từ đó được gọi là Sở Lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc.

Năm 1947, Pháp tái chiếm Hà Nội và theo nghị định ngày 25 tháng 7 năm 1947, Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương được tái thành lập với tên gọi Thư viện Trung ương tại Hà Nội.

Năm 1953, theo hiệp nghị Việt Pháp ngày 9 năm 7 tháng 1953, Thư viện Trung ương

Hà Nội được sáp nhập vào Viện Đại học Hà Nội và đổi tên thành Tổng Thư viện Hà Nội Ngày 10 tháng 10 năm 1954, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản Hà Nội và Tổng Thư viện, đồng thời văn bản thư viện được ghi nhận với tên gọi Thư viện Trung ương Hà Nội.

Ngày 21 tháng 11 năm 1958, Thư viện được chính thức mang tên Thư viện Quốc gia theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Văn hóa.

Ngày đăng: 15/07/2021, 10:00

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2.3.2. Thời Pháp thuộc 2.3.3. Giai đoạn 1954 – 1975 4. Tài liệu tham khảo Khác
1. Dương Bích Hồng. Lịch sử sự nghiệp thư viện Việt Nam trong tiến trình văn hóa dân tộc.- H.: Bộ Văn hóa Thông tin, 1999.- 270tr Khác
2. Hoàng Sơn Cường. Lịch sử sách.- H.: Trường Cao đẳng nghiệp vụ Văn hóa Hà Nội, 1981.- 212 tr Khác
3. Nguyễn Hùng Cường. Lược sử thư viện và thư tịch Việt Nam.- S.: Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục, 1972.-57 tr Khác
4. Nguyễn Thị Thư. Thư mục học: Giáo trình .- H.: Văn hóa thông tin, 2002 .- 215 tr Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w