1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Nghiên cứu phát triển các mô hình tổ chức sản xuất trong nuôi trồng thủy sản huyện hải hậu tỉnh nam định

131 21 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đánh Giá Vai Trò Của Phụ Nữ Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới Tại Huyện Mỹ Lộc, Tỉnh Nam Định
Tác giả Vũ Đức Luyện
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Khắc Quỳnh
Trường học Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Chuyên ngành Phát triển Nông thôn
Thể loại luận văn
Năm xuất bản 2018
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 131
Dung lượng 17,84 MB

Cấu trúc

  • TRANG BÌA

  • MỤC LỤC

  • TRÍCH YẾU LUẬN VĂN

  • PHẦN 1. MỞ ĐẦU

    • 1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

    • 1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

      • 1.2.1. Mục tiêu chung

      • 1.2.2. Mục tiêu cụ thể

    • 1.3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

    • 1.4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

      • 1.4.1. Đối tượng nghiên cứu

      • 1.4.2. Phạm vi nghiên cứu

    • 1.5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

  • PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦAPHỤ NỮ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

    • 2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ

      • 2.1.1. Quan điểm về vai trò của phụ nữ

        • 2.1.1.1. Quan điểm về vai trò của phụ nữ

      • 2.1.2. Quan điểm về xây dựng nông thôn mới

        • 2.1.2.1. Thế nào là xây dựng nông thôn mới

        • 2.1.2.2. Các tiêu chí xây dựng nông thôn mới

      • 2.1.3. Quan điểm của nhà nước Việt Nam về vai trò của phụ nữ trong xâydựng Nông thôn mới

      • 2.1.4. Nội dung nghiên cứu vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới

        • 2.1.4.1. Vai trò của phụ nữ trong việc tham gia Ban chỉ đạo xây dựng NTM

        • 2.1.4.2. Vai trò của phụ nữ trong quy hoạch tổng thể và lập kế hoạch xâydựng NTM

        • 2.1.4.3. Vai trò của phụ nữ trong công tác thông tin tuyên truyền xây dựng NTM

        • 2.1.4.4. Vai trò của phụ nữ trong đóng góp nguồn lực cho xây dựng NTM

        • 2.1.4.5. Vai trò của phụ nữ trong việc tiếp cận khoa học kĩ thuật mới trong sảnxuất kinh tế hộ gia đình

        • 2.1.4.6. Vai trò của phụ nữ trong việc ra quyết định về phát triển kinh tế hộ vàxây dựng Nông thôn mới

        • 2.1.4.7. Vai trò của phụ nữ trong việc kiểm tra giám sát, sử dụng các côngtrình xây dựng Nông thôn mới

      • 2.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ trong xây dựng NTM

        • 2.1.5.1. Yếu tố về cơ chế chính sách

        • 2.1.5.2. Yếu tố thuộc về bản thân phụ nữ

        • 2.1.5.3. Yếu tố liên quan đến tố chức hội phụ nữ

    • 2.2. CỞ SỞ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ

      • 2.2.1. Những kinh nghiệm của một số nước về phát huy vai trò của phụ nữtrong xây dựng nông thôn mới

        • 2.2.1.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong phát huy vai trò của phụ nữ trongphong trào Seamaul Undong

        • 2.2.1.2. Kinh nghiệm về phát huy vai trò của phụ nữ trong phong trào “ Mỗilàng, một sản phẩm” của Nhật Bản

      • 2.2.2. Những kinh nghiệm phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng nôngthôn mới của một số địa phương tiêu biểu ở Việt Nam

        • 2.2.2.1. Hà Nội phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới

        • 2.2.2.2. Hải Hậu phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng Nông thôn mới

        • 2.2.2.3. Vĩnh Phúc phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng Nông thôn mới

    • 2.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VAI TRÒ CỦA PHỤNỮ NÔNG THÔN TRONG XÂY DỰNG CỘNG ĐỒNG

  • PHẦN 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

    • 3.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

      • 3.1.1. Điều kiện tự nhiên

        • 3.1.1.1. Vị trí địa lý

        • 3.1.1.2. Địa hình

        • 3.1.1.3. Khí hậu, thủy văn

      • 3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

        • 3.1.2.1. Hiện trạng sử dụng đất

        • 3.1.2.2. Tình hình dân số và lao động

        • 3.1.2.3. Cơ sở hạ tầng

        • 3.1.2.4. Tình hình phát triển kinh tế huyện Mỹ Lộc

        • 3.1.2.5. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường

        • 3.1.2.6. Tình hình triển khai xây dựng nông thôn mới tại huyện Mỹ Lộc

    • 3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

      • 3.2.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu và mẫu điều tra

        • 3.2.1.1. Chọn điểm nghiên cứu

        • 3.2.1.2. Chọn mẫu điều tra

      • 3.2.2. Phương pháp điều tra thông tin

        • 3.2.2.1. Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp

        • 3.2.2.2. Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp

      • 3.2.3. Phương pháp xử lý và phân tích thông tin

        • 3.2.3.1. Phương pháp xử lý thông tin

        • 3.2.3.2. Phương pháp phân tích thông tin

      • 3.2.4. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu

        • 3.2.4.1. Nhóm chỉ tiêu về thực trạng

        • 3.2.4.2. Nhóm chỉ tiêu thể hiện yếu tố ảnh hưởng

  • PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

    • 4.1. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG XÂY DỰNG NÔNGTHÔN MỚI TẠI HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH

      • 4.1.1. Khái quát kết quả thực hiện xây dựng Nông thôn mới huyện Mỹ Lộc

        • 4.1.1.1. Công tác chỉ đạo xây dựng Nông thôn mới

        • 4.1.1.2. Kết quả thực hiện một số tiêu chí theo bộ tiêu chí của chương trìnhxây dựng Nông thôn mới

      • 4.1.2. Vai trò của phụ nữ trong xây dựng Nông thôn mới tại huyện Mỹ Lộc

        • 4.1.2.1. Vai trò của phụ nữ trong việc tham gia Ban chỉ đạo xây dựng NTM

        • 4.1.2.2. Vai trò của phụ nữ trong quy hoạch tổng thể và lập kế hoạch xây dựngNông thôn mới

        • 4.1.2.3. Vai trò của phụ nữ trong công tác thông tin tuyên truyền xây dựng NTM

        • 4.1.2.4. Vai trò của phụ nữ trong đóng góp nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới

        • 4.1.2.5. Vai trò của phụ nữ trong việc tiếp nhận khoa học kĩ thuật mới trongsản xuất kinh tế hộ gia đình

        • 4.1.2.6. Vai trò của phụ nữ trong việc ra quyết định về phát triển kinh tế hộ vàxây dựng nông thôn mới

        • 4.1.2.7. Vai trò của phụ nữ trong việc kiểm tra giám sát, sử dụng các côngtrình xây dựng Nông thôn mới

    • 4.2. PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VAI TRÒ CỦA PHỤNỮ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI HUYỆN MỸ LỘC,TỈNH NAM ĐỊNH

      • 4.2.1. Yếu tố về cơ chế chính sách

      • 4.2.2. Yếu tố thuộc về bản thân người phụ nữ nông thôn

      • 4.2.3. Yếu tố liên quan đến tố chức hội phụ nữ

      • 4.2.4. Ảnh hưởng của các tổ chức chính quyền địa phương đến phụ nữ nôngthôn

      • 4.2.5. Đánh giá của phụ nữ về kết quả thực hiện các tiêu chí Nông thôn mớitại thôn xóm

      • 4.2.6. Đánh giá những thuận lợi, khó khăn của phụ nữ trong việc tham giaxây dựng Nông thôn mới tại huyện Mỹ Lộc tỉnh Nam Đinh

    • 4.3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮTRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN MỸ LỘC

      • 4.3.1. Chính quyền địa phương tăng cường tạo điều kiện cho chị em phụ nữđược hoàn thiện, phát triển bản thân một cách toàn diện

      • 4.3.2. Quan tâm công tác khuyến nông và đào tạo nghề cho phụ nữ

      • 4.3.3. Đổi mới, phát triển hình thức sản xuất, tăng cường áp dụng khoa họckỹ thuật phát triển kinh tế hộ

      • 4.3.4. Nâng cao trình độ học vấn, khả năng nhận thức của phụ nữ

      • 4.3.5. Nâng cao vai trò của Hội phụ nữ

      • 4.3.6. Tăng cường phối hợp hoạt động giữa Hội phụ nữ và các tổ chức chínhtrị xã hội khác

  • PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

    • 5.1. KẾT LUẬN

    • 5.2. KIẾN NGHỊ

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC

Nội dung

Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của phụ nữ trong xây dựng Nông thôn mới

Cơ sở lý luận về vai trò của phụ nữ

2.1.1 Quan điểm về vai trò của phụ nữ

2.1.1.1 Quan điểm về vai trò của phụ nữ a Quan điểm “Phụ nữ trong phát triển” gọi tắt là WID (Women in Development) và “Giới và phát triển” gọi tắt là GAD (Gender and Development)

Trong nghiên cứu về phụ nữ, hai lý thuyết nổi bật là “Phụ nữ trong phát triển” (WID) và “Giới và phát triển” (GAD) đã hình thành nên cơ sở lý luận về giới Vấn đề bình quyền xuất phát từ các phong trào đấu tranh vì quyền lợi của phụ nữ ở Anh, sau đó lan rộng ra Hoa Kỳ và các quốc gia khác Cuộc tranh luận giữa WID và GAD bắt nguồn từ thực tế giải quyết vấn đề nghèo đói ở các nước đang phát triển Hai tiếp cận này xem xét vai trò của phụ nữ trong phát triển từ những khía cạnh khác nhau, đưa ra những câu trả lời đa dạng về vai trò của họ trong cộng đồng, mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi (Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng, 2000).

Quan điểm “Phụ nữ và phát triển”(WID)

Sau Chiến tranh thế giới thứ II, Liên hiệp quốc được thành lập với các hoạt động hỗ trợ phát triển ngày càng mở rộng Tuy nhiên, ban đầu không có sự chú ý đến phụ nữ, vì quan niệm cho rằng phát triển kinh tế xã hội sẽ tự động mang lại lợi ích cho mọi người, bao gồm cả phụ nữ Sự thay đổi này được nhấn mạnh trong Chiến lược phát triển quốc tế cho thập kỷ thứ hai, với mục tiêu khuyến khích sự hòa nhập của phụ nữ và phát triển toàn diện Từ đó, thuật ngữ “Phụ nữ trong phát triển” ra đời, phản ánh tầm quan trọng của vấn đề phụ nữ trong phát triển.

Quan điểm "Phụ nữ trong phát triển" tập trung vào các vấn đề mà phụ nữ gặp phải trong quá trình phát triển, bao gồm cơ hội học tập, việc làm, bình đẳng trong gia đình, tham gia hoạt động xã hội và tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe Cách tiếp cận WID nhấn mạnh sự cần thiết của công bằng xã hội và quyền lợi cho phụ nữ, nhằm tạo điều kiện cho họ phát triển toàn diện.

Trước đây, phụ nữ thường chỉ được nhìn nhận qua vai trò người mẹ và người vợ, dẫn đến chính sách đối với họ chỉ giới hạn ở phúc lợi xã hội và sinh đẻ Tuy nhiên, quan điểm WID đã nhấn mạnh vai trò sản xuất của phụ nữ, khuyến khích họ tham gia vào nền kinh tế và tiếp cận cơ hội việc làm trong sản xuất cũng như công tác xã hội Việc công nhận và phát huy vai trò sản xuất của phụ nữ không chỉ nâng cao địa vị của họ mà còn giúp sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực trong gia đình và xã hội.

Cách tiếp cận WID nhấn mạnh rằng các quá trình phát triển sẽ hiệu quả hơn khi phụ nữ được đặt làm trung tâm trong nghiên cứu và phân phối nguồn lực dự án Phương pháp này cũng phản bác quan điểm cũ cho rằng lợi ích từ các dự án phát triển sẽ tự động mang lại lợi ích cho phụ nữ và các nhóm yếu thế, đồng thời cho rằng sự phát triển và hiện đại hóa sẽ tự động dẫn đến bình đẳng giới.

Quan điểm “Phụ nữ trong phát triển” nhấn mạnh vai trò quan trọng của phụ nữ trong xây dựng và phát triển kinh tế, coi họ là người hưởng thụ thành quả và nắm giữ nguồn lực giúp thoát khỏi sự lệ thuộc Tuy nhiên, cách tiếp cận này chỉ đặt phụ nữ trong khuôn khổ phát triển đã được định sẵn, không công nhận họ là chủ thể của quá trình phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến hạn chế khả năng sáng tạo và chủ động của phụ nữ, đồng thời có thể làm giảm hiệu quả kinh tế Hơn nữa, cách tiếp cận WID xem xét vấn đề phụ nữ một cách tách biệt, quá chú trọng đến khía cạnh sản xuất và thu nhập, trong khi bỏ qua khía cạnh tái sản xuất.

Quan điểm “Giới và phát triển” (GAD)

Tiếp cận “Giới và phát triển” được hình thành dựa trên những bài học từ tiếp cận “Phụ nữ trong phát triển”, chú trọng vào mối liên hệ giữa phụ nữ và sự phát triển, cũng như giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội Phương pháp này nhấn mạnh sự phát triển bền vững, cân bằng giới và các chương trình phát triển đáp ứng nhu cầu của cả nam và nữ GAD không chỉ tạo ra sự thay đổi trong nhận thức về vai trò và trách nhiệm của phụ nữ và nam giới, mà còn điều chỉnh các yếu tố cấu trúc ảnh hưởng để cải thiện tình trạng và vai trò của phụ nữ, từ đó cân bằng các quan hệ giới.

Phương pháp tiếp cận này nhìn nhận phụ nữ như những nhân tố tích cực trong phát triển, nhấn mạnh sự tự lực và sức mạnh của bản thân họ Mục tiêu là tạo cơ hội cho phụ nữ phát huy năng lực và phát triển bình đẳng với nam giới Sự tham gia của phụ nữ trong các hoạt động kinh tế, xã hội và quản lý cộng đồng không chỉ tăng cường năng lực cá nhân mà còn tạo quyền cho họ, thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội Phân tích theo quan điểm GAD giúp đề xuất giải pháp giải quyết cả vấn đề trước mắt và nguyên nhân sâu xa của bất bình đẳng giới, khẳng định hiệu quả của phương pháp này trong việc thúc đẩy sự bình đẳng giới hiện nay.

Quan điểm GAD nhấn mạnh vai trò quan trọng của phụ nữ trong sự phát triển cộng đồng xã hội, cần đánh giá và ghi nhận những đóng góp của họ trên nhiều lĩnh vực Việc tìm hiểu nhu cầu và nguyện vọng của phụ nữ là cần thiết để tạo điều kiện cho họ phát huy năng lực, tham gia chủ động vào các hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị và chăm sóc sức khỏe Hình thành thói quen, chuẩn mực và giá trị mới về vai trò của phụ nữ trong giai đoạn hội nhập và phát triển hiện nay là điều quan trọng (Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng, 2000).

GAD nhấn mạnh rằng phụ nữ và nam giới đều có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và duy trì xã hội, nhưng họ không có sự bình đẳng trong việc hưởng thụ lợi ích và đối mặt với khó khăn, với phụ nữ thường là nhóm yếu thế Mặc dù có mối quan hệ nương tựa, phương thức và phạm vi hoạt động của hai giới không giống nhau, dẫn đến những ưu tiên và cách nhìn nhận khác nhau Nam giới có thể ảnh hưởng đến những khó khăn mà phụ nữ gặp phải, và sự phát triển có tác động khác nhau đến từng giới Để thúc đẩy lợi ích xã hội, cả hai giới cần có cái nhìn chung và cùng tìm ra giải pháp Phương pháp GAD cung cấp cơ sở lý luận cho việc xem xét vai trò của phụ nữ trong mối quan hệ với nam giới trong phát triển cộng đồng, coi phụ nữ là chủ thể của sự biến đổi và không chỉ là đối tượng thụ hưởng thụ động Để thực hiện trao quyền cho phụ nữ, cần lập kế hoạch giới và tích hợp yếu tố giới trong các dự án phát triển quốc tế và quốc gia, với công bằng phải được thể hiện trong thực tiễn.

Tư tưởng của Bác Hồ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng là nhằm giải phóng con người và bảo vệ quyền thiêng liêng của họ, đặc biệt là trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ và đấu tranh cho quyền bình đẳng Những quan điểm của Người về phụ nữ vẫn giữ nguyên giá trị đến ngày nay, xuất phát từ tình cảm đặc biệt và thực trạng bất bình đẳng mà phụ nữ phải chịu đựng dưới chế độ phong kiến và sự cai trị của thực dân Pháp vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX Bác Hồ luôn khẳng định vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Chủ nghĩa xã hội khoa học coi trọng vai trò của phụ nữ trong xã hội, nhấn mạnh rằng việc giải phóng phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới là mục tiêu quan trọng của cách mạng Ngày 8 tháng 3, được công nhận là Ngày Phụ nữ Quốc tế, ra đời từ năm 1910 nhằm đoàn kết phụ nữ toàn cầu trong cuộc đấu tranh giành quyền bình đẳng về kinh tế, chính trị và xã hội Sự kiện này cũng liên quan đến việc thành lập Quốc tế Cộng sản vào tháng 3 năm 1919, khi tổ chức này đã thúc đẩy các mục tiêu bình đẳng giới.

Bác Hồ nhận thức rõ vai trò quan trọng của phụ nữ trong lịch sử dân tộc và thế giới, khi khẳng định rằng "non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ" Người cũng nhấn mạnh rằng "trong lịch sử cách mạng chẳng có lần nào là không có đàn bà tham gia", và khẳng định rằng "An Nam cách mạng cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công" (Khuất Minh Phương, 2014).

Bác Hồ nhấn mạnh rằng phụ nữ chiếm một nửa nhân loại và là lực lượng lao động quan trọng trong xã hội Ông khẳng định rằng nếu phụ nữ chưa được giải phóng, xã hội cũng chưa được giải phóng, và việc xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ đạt được một nửa Để phát triển xã hội, cần phải sản xuất nhiều, mà để sản xuất nhiều thì cần giải phóng lao động của phụ nữ Mặc dù không viết nhiều về vấn đề này, những quan điểm của Bác về bình đẳng giới rất giản dị và dễ hiểu, nhấn mạnh rằng bình đẳng không chỉ đơn thuần là chia sẻ công việc mà là một cuộc cách mạng phức tạp và khó khăn.

Cở sở thực tiễn về vai trò của phụ nữ

2.2.1 Những kinh nghiệm của một số nước về phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới

2.2.1.1 Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong phát huy vai trò của phụ nữ trong phong trào Seamaul Undong

Vào những năm 60, Hàn Quốc vẫn là một quốc gia chậm phát triển, với nông nghiệp là hoạt động kinh tế chính và khoảng 2/3 dân số sống ở nông thôn, trong bối cảnh thường xuyên phải đối mặt với lũ lụt và hạn hán Xã hội thời điểm đó đầy rẫy sự thờ ơ và vô vọng, khiến Chính phủ lo lắng tìm cách thoát khỏi đói nghèo Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các sản phẩm xuất khẩu được xác định là mục tiêu chính, nhưng Tổng thống Park Chung-hee nhận thức rằng sự hỗ trợ của Chính phủ sẽ không hiệu quả nếu người dân không tự giúp mình Khuyến khích sự hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng nông thôn trở thành yếu tố then chốt, đóng vai trò nền tảng cho Phong trào Làng mới.

Mục tiêu chính của chính sách mới là khuyến khích người dân tin tưởng và tích cực tham gia vào sự nghiệp phát triển nông thôn thông qua sự chăm chỉ, cần cù, sáng tạo, độc lập và tinh thần cộng đồng Tổng thống Hàn Quốc Park Jeong-hee nhấn mạnh rằng việc khai thác tinh thần chăm chỉ và hợp tác trong mỗi thành viên khu vực nông thôn sẽ biến các làng xã thành nơi thịnh vượng Phong trào làng mới, hay mô hình Seamaul Undong, được coi là lời tuyên ngôn cho hành động phát triển nông thôn, nhấn mạnh vai trò quan trọng của động lực trong quá trình phát triển.

Phát triển tinh thần của người nông dân là rất quan trọng, vì nó giúp khai thác nội lực tiềm tàng to lớn của họ Việc sử dụng kích thích vật chất nhỏ để khuyến khích tinh thần sẽ góp phần nâng cao năng suất và chất lượng cuộc sống của nông dân (Đinh Quang Hải, 2014).

Lập ra “Ủy ban Phát triển Làng mới” với 5-10 thành viên, bao gồm cả nam và nữ, là bước đầu tiên quan trọng ở cấp cơ sở nhằm đại diện cho cộng đồng và thực hiện các tiểu dự án phát triển nông thôn Ở cấp tỉnh và huyện, cũng thành lập các Ủy ban tương tự để hỗ trợ và tư vấn cho các Ủy ban làng Chương trình này do Tổng thống lãnh đạo, với đội ngũ lãnh đạo thôn gồm một nam và một nữ, tạo ra sự bình đẳng và khuyến khích sự tham gia của phụ nữ Những lãnh đạo này không nhận trợ cấp và được cộng đồng tôn trọng Đào tạo cán bộ, đặc biệt là nữ, theo mô hình phát triển nông thôn, nhằm giảm khoảng cách giữa chính quyền và nhân dân, là rất cần thiết Chính phủ tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn để nâng cao năng lực cho cán bộ Dân chủ được phát huy, mọi người đều tham gia ra quyết định mà không phân biệt giới tính Các làng xây dựng hội trường để thuận lợi cho sinh hoạt cộng đồng, nông dân tự quyết định và quản lý các hoạt động, trong đó phụ nữ được khuyến khích đóng góp ý kiến.

Phong trào “Làng mới” của Hàn Quốc đã chuyển đổi các cộng đồng nông thôn cũ thành những cộng đồng nông thôn mới, đẹp và giàu hơn Khu vực nông thôn hiện nay trở thành xã hội năng động, có khả năng tự tích lũy và phát triển Với mức đầu tư không lớn, phong trào này đã giúp Hàn Quốc từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở nên thịnh vượng Trong vòng 6 năm, thu nhập bình quân của các nông hộ đã tăng gấp 3 lần, sản xuất nông nghiệp trở nên thương mại hóa hơn, và nhiều lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, hệ thống cấp nước, điện, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, bảo vệ môi trường và quỹ tiết kiệm gia đình đều được cải thiện.

2.2.1.2 Kinh nghiệm về phát huy vai trò của phụ nữ trong phong trào “ Mỗi làng, một sản phẩm” của Nhật Bản a Xuất xứ phong trào “ mỗi làng, một sản phẩm”

Công nghiệp hóa và hiện đại hóa tại Nhật Bản đã dẫn đến tình trạng 20% diện tích thành phố chứa 80% dân số, gây ra nhiều hệ lụy như nhà bỏ hoang và nông nghiệp đình trệ Nông thôn chỉ còn người già và trẻ nhỏ, khiến cuộc sống ngày càng nghèo khổ, trong khi cơ hội việc làm tại thành phố ngày càng hạn hẹp Để khắc phục tình trạng này, ông Morihiko Hiramalsu, lãnh đạo tỉnh Oita, đã đề xuất phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” nhằm khôi phục giá trị quê hương, tăng thu nhập và cải thiện bộ mặt nông thôn Mục tiêu sâu xa của phong trào là tạo sức hấp dẫn cho nông thôn, hạn chế di dân về thành phố, xây dựng nguồn nhân lực mạnh mẽ cho công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông thôn, đồng thời hướng tới sự cân bằng kinh tế và xã hội giữa nông thôn và thành phố, giảm phụ thuộc vào ngân sách trung ương.

Mỗi địa phương tại Nhật Bản, từ làng đến huyện, đều có những sản phẩm độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa và lịch sử riêng Những sản phẩm này không chỉ bao gồm các mặt hàng tiêu dùng như rau, quả, đồ gỗ mà còn mở rộng ra các sản phẩm văn hóa và du lịch Điều quan trọng là các sản phẩm này phải thể hiện được đặc trưng địa phương và kết hợp hài hòa các yếu tố địa lý, văn hóa, và truyền thống, đồng thời phải được thị trường Nhật Bản và thế giới chấp nhận Vai trò của phụ nữ Nhật Bản trong phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” cũng rất quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của các sản phẩm địa phương.

Trong bối cảnh dân số giảm và nguồn nhân lực khan hiếm, việc tổ chức các nhóm phụ nữ tham gia chế biến nông sản là cách hiệu quả để khôi phục niềm tự hào địa phương Chính quyền đã hỗ trợ kinh tế ban đầu để xây dựng cơ sở sản xuất và tư vấn công nghệ, trong khi các nhóm phụ nữ tự quản lý mua sắm thiết bị và tổ chức sản xuất Tại xưởng sản xuất nước cà chua cô đặc ở thị trấn Ogi, nhiều nhóm phụ nữ cùng nhau hoạt động trong một cơ sở do chính quyền hỗ trợ Phong trào này không chỉ tạo ra sản phẩm chất lượng mà còn thổi bùng lòng tin và niềm tự hào cho các thành viên, giúp họ nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm (Vũ Hồng Thư, 2013).

Sau hơn 20 năm thực hiện Phong trào, đã có 339 nhóm phụ nữ chế biến nông sản được thành lập và hoạt động hiệu quả Những khẩu hiệu như “Nước ép cà chua Ogi đi lên Hockaido” và “Karinto (bánh vùng Amagase) tiến vào Hoa Kỳ” đã gắn bó với họ, mang lại niềm kiêu hãnh và tự tin để vượt qua khó khăn trong sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm Bên cạnh đó, các mô hình như Điểm dừng xe ven đường cũng góp phần vào sự phát triển của Phong trào.

Mỗi làng tại Nhật Bản đều có sản phẩm đặc trưng, như thị trấn Oyama với cây mận (Ume) và hạt dẻ tiến vào Himeshima, hay Kitsuki, nơi sản xuất tôm lớn nhất Nhật Bản với việc trồng quýt bằng công nghệ cao Yufuin phát triển du lịch phong cảnh, trong khi Nakatsue mang vỏ vàng vào cuộc sống và Showa khôi phục thị trấn từ truyền thống văn hóa và lịch sử Ajimu thu hút khách du lịch đến tận nhà dân, còn Saganoseki xây dựng thương hiệu thành công Tất cả những thành tựu này đều có sự đóng góp lớn lao của chị em phụ nữ Nhật Bản (Vũ Hồng Thư, 2013).

Phụ nữ Nhật Bản đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế, với số lượng sản phẩm thủ công tăng từ 143 loại và thu nhập 35,9 tỷ yên ban đầu lên 336 loại và 141 tỷ yên vào năm 2001 Các mặt hàng nông sản địa phương, như nấm khô Shiitake và rượu sochu, đã trở nên phổ biến hơn, với thị phần nấm khô tăng từ 1% lên 32% và rượu sochu từ 1% lên 30,7% trên thị trường nội địa Chanh Kabosu từ Oita cũng đã trở thành mặt hàng quen thuộc tại Hokkaido (Vũ Hồng Thư, 2013).

Người phụ nữ Nhật Bản ở khu vực này đã chuyển mình từ vai trò nội trợ, phụ thuộc vào chồng, sang việc chủ động tham gia vào chế biến nông sản, thể hiện sự thay đổi tích cực trong cuộc sống và công việc.

Phụ nữ Nhật Bản đang ngày càng khẳng định vị trí của mình trong xã hội, không chỉ thông qua việc chăm sóc gia đình mà còn bằng cách tham gia vào các nhóm phụ nữ tự quản, như 339 nhóm chế biến nông sản, tạo ra thu nhập cho bản thân và gia đình Điều này không chỉ nâng cao đời sống tinh thần mà còn thể hiện ý thức về bình đẳng giới Trong truyền thống Á Đông, phụ nữ được xem là người "giữ lửa" trong gia đình, và sự gần gũi này đã giúp họ truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ, khơi dậy niềm tin và nghị lực để phát triển quê hương, từ đó tạo ra những giải pháp khả thi cho sự phát triển kinh tế nông thôn (Vũ Hồng Thư, 2013).

Sau 20 năm phát triển, phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm” đã gặt hái nhiều thành công trong việc phát triển nông thôn, giúp thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị về kinh tế, văn hóa và lối sống, với sự đóng góp đáng kể của phụ nữ Nhật Bản Họ tích cực tham gia các hoạt động triển lãm sản phẩm của mình, tổ nhóm và địa phương, đồng thời nâng cao chất lượng các sự kiện này tại Tokyo và các thành phố lớn khác, tạo ra ảnh hưởng tích cực trong cộng đồng đô thị Quận Oita, nơi khởi nguồn của phong trào, là minh chứng cho sự phát triển mạnh mẽ này.

Những nghiên cứu có liên quan đến vai trò của phụ nữ nông thôn trong xây dựng cộng đồng

NỮ NÔNG THÔN TRONG XÂY DỰNG CỘNG ĐỒNG

Nhận thức về vai trò quan trọng của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình, nông nghiệp và xây dựng Nông thôn mới đã dẫn đến sự gia tăng nghiên cứu trong những năm gần đây Nhiều tác giả đã tập trung vào việc phân tích sự đóng góp của phụ nữ trong các lĩnh vực này, nhấn mạnh tầm ảnh hưởng của họ đối với sự phát triển bền vững của nông thôn.

Phát triển kinh tế hộ của phụ nữ nông thôn là một chủ đề quan trọng, như được thể hiện trong nghiên cứu “Khảo sát vai trò của phụ nữ nông thôn trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn huyện Phụng Hiệp tỉnh Hậu Giang” của Phạm Ngọc Nhàn và cộng sự (2014) Nghiên cứu chỉ ra rằng phụ nữ đóng vai trò thiết yếu trong phát triển kinh tế gia đình và quyết định các vấn đề sản xuất, nhưng vẫn chưa hoàn toàn bình đẳng trong việc tham gia vào các quyết định lớn Mặc dù phụ nữ có khả năng kiểm soát nguồn lực hộ gia đình, cần thiết phải nâng cao năng lực cho họ thông qua các chương trình tập huấn và khuyến nông để hỗ trợ phát triển kinh tế hộ hiệu quả hơn.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành nhiều nghiên cứu về vai trò của phụ nữ nông thôn, trong đó có đề tài “Khảo sát vai trò của phụ nữ trong nông nghiệp nông thôn ở xã Nghĩa Hiệp, Yên Mỹ, Hưng Yên” của tác giả Quyền Đình Hà và cộng sự (2006) Nghiên cứu này so sánh vai trò của phụ nữ với nam giới trong sản xuất và kiểm soát nguồn lực kinh tế Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng khảo sát sự tham gia của phụ nữ trong các tổ chức chính quyền, đoàn thể, cũng như việc tiếp cận thông tin và quan hệ xã hội thông qua các hoạt động cộng đồng, từ đó phát hiện ra những vấn đề quan trọng liên quan đến vai trò của họ.

Phụ nữ nông thôn thường gặp khó khăn trong việc tham gia các hoạt động hội họp và tiếp cận thông tin truyền thông Tuy nhiên, họ có những ưu thế và trách nhiệm lớn hơn nam giới trong các lĩnh vực xã hội, môi trường và phát triển nông thôn Dựa trên kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy năng lực của phụ nữ nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi để họ thực hiện tốt vai trò trong sản xuất, đời sống và xã hội.

Vai trò của cộng đồng trong xây dựng Nông thôn mới đã được nhiều nghiên cứu và bài viết đề cập, trong đó có bài viết "Vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng Nông thôn mới" của Nguyễn Linh Khiếu (2017) đăng trên Tạp chí Cộng sản Tác giả nhấn mạnh rằng nông dân đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của quốc gia Đặc biệt, trong quá trình xây dựng Nông thôn mới tại Việt Nam, vai trò của nông dân càng được khẳng định và thể hiện rõ nét.

Nghiên cứu của Cao Thị Kim Dung (2015) về "Vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới tại huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh" đã chỉ ra những quan điểm quan trọng về sự đóng góp của phụ nữ trong quá trình này Bài viết tổng hợp vai trò của phụ nữ ở huyện Hương Sơn và các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của họ trong xây dựng nông thôn mới Đồng thời, tác giả cũng đưa ra các giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ, góp phần hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới cho toàn huyện trong thời gian tới.

Hiện tại, tại tỉnh Nam Định, đặc biệt là huyện Mỹ Lộc, chưa có nghiên cứu nào về vai trò của phụ nữ trong việc xây dựng Nông thôn mới.

Đề tài này trình bày các lý luận và thực tiễn nhằm làm rõ vai trò quan trọng của phụ nữ trong việc xây dựng Nông thôn mới tại huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.

Tóm lại, qua quá trình nghiên cứu lí luận và thực tiễn, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:

Vai trò của phụ nữ trong xã hội phụ thuộc vào vị thế mà họ nắm giữ và những hành động cần thiết để duy trì giá trị của vị thế đó Để hiểu rõ hơn về vai trò của phụ nữ, cần xem xét mối quan hệ của họ với cộng đồng và nam giới, đồng thời cần có sự hỗ trợ từ cộng đồng và chính quyền các cấp Sự chia sẻ và hợp tác của nam giới là rất quan trọng để giúp phụ nữ thích ứng với sự phát triển xã hội, từ đó đảm nhận tốt nhiều vai trò trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống.

Nhà nước Việt Nam khẳng định vai trò quan trọng của phụ nữ trong việc xây dựng Nông thôn mới, nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới và nâng cao công tác phụ nữ để họ có thể tham gia tích cực hơn Sự đóng góp của phụ nữ không chỉ cho gia đình và cộng đồng mà còn cho sự phát triển của đất nước, đặc biệt trong Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM.

Vai trò của phụ nữ trong xây dựng NTM được thể hiện qua các nội dung sau:

Vai trò của phụ nữ trong việc tham gia Ban chỉ đạo xây dựng Nông thôn mới;

Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong quy hoạch tổng thể và lập kế hoạch xây dựng nông thôn mới (NTM), góp phần vào sự phát triển bền vững của cộng đồng Họ không chỉ tham gia vào các quyết định quy hoạch mà còn thúc đẩy sự tham gia của các thành viên khác trong gia đình và cộng đồng Bên cạnh đó, phụ nữ cũng có ảnh hưởng lớn trong việc xây dựng đời sống văn hóa, thông tin và truyền thông tại nông thôn, giúp nâng cao nhận thức và kết nối các giá trị văn hóa truyền thống với sự phát triển hiện đại Sự tham gia tích cực của phụ nữ trong các lĩnh vực này là yếu tố then chốt để xây dựng một xã hội nông thôn phát triển toàn diện và bền vững.

Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong việc đóng góp nguồn lực cho xây dựng Nông thôn mới, giúp cải thiện đời sống cộng đồng Họ cũng là những người tiên phong trong việc tiếp cận và ứng dụng khoa học kỹ thuật mới, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh tế hộ gia đình Sự tham gia tích cực của phụ nữ không chỉ thúc đẩy sự phát triển bền vững mà còn nâng cao vị thế của họ trong xã hội.

Vai trò của phụ nữ trong việc ra quyết định về phát triển kinh tế hộ và xây dựng Nông thôn mới;

Vai trò của phụ nữ trong việc kiểm tra giám sát, sử dụng các công trình xây dựng NTM;

Vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới bị ảnh hưởng bởi ba nhóm yếu tố chính: đầu tiên là các cơ chế chính sách hỗ trợ; thứ hai là những đặc điểm và khả năng của bản thân phụ nữ; cuối cùng là sự liên kết và hoạt động của tổ chức hội phụ nữ trong cộng đồng.

Nhóm yếu tố cơ chế chính sách bao gồm đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới Đồng thời, cần nâng cao nhận thức và tạo điều kiện từ chính quyền địa phương về vai trò của phụ nữ trong quá trình này Bên cạnh đó, công tác khuyến nông và tổ chức tập huấn khoa học kỹ thuật mới cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sản xuất nông nghiệp.

Nhóm yếu tố ảnh hưởng đến phụ nữ bao gồm trình độ học vấn, chuyên môn và nhận thức của họ, khả năng tiếp nhận thông tin, điều kiện kinh tế hộ gia đình, cũng như vai trò trong việc ra quyết định Bên cạnh đó, sự tham gia của Hội phụ nữ trong việc vận động phụ nữ tham gia xây dựng Nông thôn mới cũng là một yếu tố quan trọng.

Phương pháp nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Ngày đăng: 15/07/2021, 08:41

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
19. Nguyễn Thị Phương (2017). Từ “Phụ nữ trong phát triển” đến “Giới và phát triển” với vấn đề tham gia chính trị của phụ nữ ở Việt Nam. Truy cập ngày 15/10/2017 từ trang : http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2017/ 43836/Tu- Phu-nu-trong-phat-trien-den-Gioi-va-phat-trien-voi.aspx Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phụ nữ trong phát triển” đến “Giới và phát triển
Tác giả: Nguyễn Thị Phương
Năm: 2017
1. Ban biên tập cổng thông tin điện tử huyện Phú Ninh (2015). Tài liệu hỏi đáp về xây dựng NTM, Truy cập ngày 09/02/2017 từ trang http://phuninh.gov.vn/index .php/y- ban-nhan-dan/nong-thon-mi/2055-tai-li-u-h-i-dap-v-xay-d-ng-nong-thon-m-i Link
6. Đinh Quang Hải (2014). Phong trào làng mới ở Hàn Quốc. Truy cập ngày 23/10/2017 từ trang http://www.inas.gov.vn/719-phong-trao-lang-moi-o-han-quoc.html Link
7. Đoàn Trần (2018). 37 tỉnh nợ đọng xây dựng nông thôn mới. Truy cập ngày 10/6/2018 tại trang: http://vneconomy.vn/37-tinh-no-dong-xay-dung-nong-thon-moi-20180515143010588.htm Link
8. Hà Nam (2016). Phong trào làng mới ở Hàn Quốc và vai trò của phụ nữ. 'Làng mới' và sự phát triển thần kì của Hàn Quốc (P3). Truy cập ngày 23/10/2017 từ trang http://phunuvietnam.vn/kho-bau/lang-moi-va-su-phat-trien-than-ki-cua-han-quoc-p3-post7589.html Link
13. Khuất Minh Phương (2014). Tư tưởng của Bác Hồ về vai trò của phụ nữ trong xã hội. Truy cập ngày 15/10/2017 từ trang http://baolamdong.vn/chinhtri/201402/tu- Link
14. Minh Tâm (2015) Phát huy vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới. Truy cập ngày 27/10/2017 từ trang https://hanoi.gov.vn/huong_toi_dai_hoi_dang/-/hn/FJNMlsYREDd4/7320/2764485/6/phat-huy-vai-tro-cua-phu-nu-trong-xay-dung-nong-thon-moi.html;jsessionid=gUZLur00b+URGV5HDrG9Qyx8.app2 Link
15. Nguyên Hảo (2016). Phụ nữ Hải Hậu chung tay giữ gìn vệ sinh môi trường, tạo cảnh quan xanh – sạch – đẹp. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2017 từ trang:http://haihau.namdinh.gov.vn/huyenhaihau/1207/26918/37386/70676/tin-trong--huyen/phu-nu-hai-hau-chung-tay-giu-gin-ve-sinh-moi-truong--tao-canh-quan-xanh---sach---dep.aspx Link
16. Nguyễn Hồng Thư (2013). Phát triển Nông nghiệp, nông thôn của Nhật Bản - kinh nghiệm cho Việt Nam. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2017 từ trang:http://iasvn.org/tin-tuc/Phat-trien-Nong-nghiep,-nong-thon-cua-Nhat-Ban---kinh-nghiem-cho-Viet-Na m-2392.html Link
17. Nguyễn Linh Khiếu (2017). Vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng nông thôn mới. Truy cập ngày 21/10/2017 từ trang http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2017/45045/Vai-tro-chu-the-cua-nong-dan-trong-xay-dung-nong-thon.aspx Link
20. Nguyễn Thị Thu Chầm (2016). Phát huy vai trò phụ nữ Vĩnh Phúc trong xây dựng nông thôn mới. Truy cập ngày 18/01/2018 từ http://sonnptnt.vinhphuc.gov.vn/xaydungnongthonmoi/Pages/tin-tuc-hoat-dong.aspx?ItemID=33228 Link
25. Phưong Vi (2017). Diện mạo nông thôn mới ở Nam Định: Không còn xã dưới 10 tiêu chí. Truy cập ngày 15/10/2017 từ: http://nongnghiep.vn/dien-mao-nong-thon-moi-o-nam-dinh-khong-con-xa-duoi-10-tieu-chi-post207041.html Link
26. Quyền Đình Hà, Nguyễn Tuyết Lan và Nguyễn Viết Đăng (2006). Khảo sát vai trò của phụ nữ trong nông nghiệp và nông thôn xã Nghía Hiệp, Yên Mỹ, Hưng Yên. Truy cập ngày 27/ 10/2017 tại: http://www1.vnua.edu.vn/tapchi/Upload/vaitrocuaphunu_yenmyHY_ktptnt452006.pdf Link
27. Thành Chung (2018). Phó thủ tướng: Nam Định sẽ là tỉnh Nông thôn mới đầu tiên. Truy cập ngày 20/5/2018 từ trang http://vuongdinhhue.chinhphu.vn/Home/ Link
30. Tuấn Anh (2012). Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở một số nước trên thế giới. Truy cập ngày 23/10/2017 tại: http://www.tapchicongsan .org.vn/Home/nong- nghiep-nong-thon/2012/14689/Kinh-nghiem-xay-dung-nong-thon-moi-o-mot-so-nuoc-tren.aspx Link
35. Vũ Lan Hương (2014). Phụ nữ và khát vọng lãnh đạo trong công việc và tại gia đình. Truy cập ngày 15/10/2017 từ http://www.worldbank.org/vi/news/feature/ Link
2. Bộ Nông nghiệp và PTNT- Hội LHPN Việt Nam (2018). Chương trình phối hợp về đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, vận động hỗ trợ phụ nữ tham gia xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2018-2020 (Văn bản số 243/CTPH- BNN&HLHPNVN Ngày 1/1/2018) Khác
3. Cao Thị Kim Dung (2015). Vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới tại huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh Khác
5. Dương Thị Bích Diệp (2014). Chương trình Nông thôn mới ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp. Trong, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. 8(81). Tr.61-68 Khác
9. Hội liên hiệp phụ nữ huyện Mỹ Lộc (2017). Báo cáo tổng kết công tác Hội và phong trào phụ nữ năm 2017, phương hướng nhiệm vụ năm 2018 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w