Vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu
Địa điểm nghên cứu
- Viện bảo vệ thực vật
- Một số tỉnh vùng ĐBSH như: Nam Định, Vĩnh Phúc, Hà Nội
Thời gian
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 7/2015 đến tháng 7/2016
- Phạm vi thời gian của số liệu được thu thập: Từ năm 2011 đến năm
Vật liệu nghiên cứu
- Các giống lúa đang được trồng phổ biến ở vùng ĐBSH và tập đoàn lúa nhập nội từ IRRI
- Các dòng/giống lúa triển vọng
- Rầy nõu (Nilaparvata lugens Stồl)
Trong thí nghiệm, một số dụng cụ cần thiết bao gồm bút bi, bút lông, sổ ghi chép, hộp nhựa, ống nghiệm, khay gieo mạ, lồng lưới nuôi rầy, chậu nhựa và ống hút côn trùng Những dụng cụ này hỗ trợ đắc lực cho quá trình nghiên cứu và thực hiện các thí nghiệm một cách hiệu quả.
Nội dung nghiên cứu
Hiện nay, việc sử dụng giống lúa chống chịu rầy nâu đang trở thành một vấn đề quan trọng tại một số tỉnh trồng lúa ở vùng Đồng bằng Sông Hồng, như Nam Định, Vĩnh Phúc và Hà Nội Đánh giá thực trạng cho thấy sự cần thiết phải áp dụng các giống lúa này nhằm giảm thiểu thiệt hại do rầy nâu gây ra, đồng thời nâng cao năng suất và chất lượng lúa gạo trong bối cảnh biến đổi khí hậu và dịch bệnh ngày càng gia tăng.
- Nội dung 2: Xác định nguồn gen kháng rầy nâu cho vùng ĐBSH
- Nội dung 3: Đánh giá khả năng chống chịu rầy nâu cho một số giống lúa đang được trồng phổ biến ở ĐBSH trong điều kiện lây nhiễm nhân tạo
- Nội dung 4: Đánh giá khả năng chống chịu rầy nâu của tập đoàn giống lúa nhập nội từ IRRI
- Nội dung 5: Giới thiệu dòng triển vọng có khả năng chống chịu rầy nâu cho vùng ĐBSH.
Phương pháp nghiên cứu
3.5.1 Đánh giá thực trạng việc sử dụng giống chống chịu rầy nâu hiện nay ở một số tỉnh trồng lúa vùng ĐBSH
Hiện nay, việc sử dụng giống lúa chống chịu rầy nâu đang được đánh giá dựa trên việc điều tra và thu thập số liệu về diện tích trồng lúa trong những năm gần đây Các dữ liệu này giúp xác định hiệu quả của giống lúa trong việc kháng lại rầy nâu, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng.
+ Thu thập số liệu từ các Chi cục Bảo vệ thực vật về tình hình rầy nâu hại lúa trong những năm gần đây
+ Thu thập một số giống lúa đang được gieo trồng phổ biến tại các địa phương
3.5.2 Xác định nguồn gen kháng rầy nâu cho vùng ĐBSH
- Thu thập, nhân nuôi rầy nâu trong nhà lưới:
Để thu thập rầy nâu, có thể sử dụng máy hút hoặc nhổ cả khóm lúa chứa trứng, rầy non và rầy trưởng thành Rầy nâu thường được thu thập từ các giống lúa phổ biến tại Hà Nội như Bắc thơm 7 và Nếp.
Rầy nâu được nuôi trong lồng lưới kích thước 1m x 1m x 0.6m, sử dụng lúa giống TN1 (20 – 30 ngày tuổi) làm thức ăn Quá trình này giúp nhân quần thể rầy và thích ứng với điều kiện nhà lưới trước khi đánh giá khả năng chống chịu của các giống cây trồng đối với rầy nâu.
Đánh giá và xác định nguồn gen kháng rầy nâu là một quá trình quan trọng nhằm kiểm tra khả năng kháng của các giống lúa như Mudgo, ASD7, Rathuheenati và Babawee Các giống này mang các gen kháng rầy nâu Bph1, bph2, Bph3, bph4, giúp xác định hiệu quả chống chịu với rầy nâu tại vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH).
Các giống lúa mang gen kháng rầy nâu được đánh giá bằng phương pháp khay mạ của IRRI Cụ thể, các giống cần đánh giá được gieo trong khay có kích thước 60 x 40 x 10 cm, với một khung gỗ ô bàn cờ đặt trong khay Mỗi giống sẽ được gieo ở 3 ô ngẫu nhiên, mỗi ô chứa từ 15-20 hạt, trong khi hàng viền xung quanh khay được gieo giống đối chứng TN1 để so sánh.
Khay gieo các giống được đặt trong lồng lưới và giữ nước đủ để cung cấp cho cây và độ ẩm cho rầy nâu sinh sống
Năm ngày sau khi gieo, khi mạ đã có từ 3 lá thật, tiến hành thả rầy nâu tuổi 2-3 tại 5 điểm khác nhau với mật độ 5-8 con/dảnh Sau đó, cần theo dõi và đánh giá tình hình.
Monitor the rice plants for 1 to 2 days until the TN1 variety begins to show signs of brown planthopper infestation At this point, assess the plants using the 9-point scale established by IRRI in the Standard Evaluation System for Rice (2002) The evaluation scores will be recorded when the control variety exhibits symptoms of brown planthopper damage.
Thang điểm đánh giá tính chống chịu rầy nâu trong nhà lưới
Thang điểm Triệu chứng Mức độ nhiễm
0 Không bị hại Kháng cao
1 Bị hại rất nhẹ Kháng cao
3 Lá thứ nhất và lá thứ 2 của hầu hết các cây biến vàng cục bộ
5 Cây biến vàng và còi cọc rõ rệt hoặc 10-25% số cây héo hoặc chết, số cây còn lại còi cọc nghiêm trọng
7 Hơn một nửa số cây chết Nhiễm
9 Tất cả các cây chết Nhiễm nặng
(Nguồn: Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế - IRRI, 2002)
3.5.3 Đánh giá khả năng chống chịu rầy nâu cho một số giống lúa đang được trồng phổ biến ở ĐBSH trong điều kiện lây nhiễm nhân tạo
- Thu thập, nhân nuôi rầy nâu trong nhà lưới:
Để thu thập rầy nâu, có thể sử dụng máy hút rầy hoặc nhổ cả khóm lúa chứa trứng, rầy non và rầy trưởng thành Rầy nâu thường được thu thập từ các đồng ruộng trồng các giống lúa phổ biến ở Hà Nội như Bắc thơm 7 và Nếp.
Rầy nâu được nhân nuôi trong lồng lưới kích thước 1m x 1m x 0.6m, sử dụng lúa giống TN1 (20 – 30 ngày tuổi) làm thức ăn Quá trình này giúp quần thể rầy thích ứng với điều kiện nhà lưới trước khi đánh giá tính chống chịu của các giống lúa đối với rầy nâu.
Hình 3.1 Sử dụng máy hút rầy để thu thập rầy nâu (Nam Định, 2015)
- Phương pháp đánh giá tính chống chịu rầy nâu của các giống lúa:
Các giống được đánh giá theo phương pháp khay mạ của IRRI, sử dụng khay có kích thước 60 x 40 x 10 cm Trong mỗi khay, một khung gỗ hình ô bàn cờ được đặt, với mỗi giống được gieo ở 3 ô ngẫu nhiên, mỗi ô chứa 15-20 hạt Giống đối chứng kháng và giống đối chứng nhiễm được gieo ở 1 ô mỗi loại, và hàng viền xung quanh khay được gieo giống đối chứng nhiễm TN1.
Hình 3.2 Đánh giá nhân tạo tính kháng rầy nâu (Viện bảo vệ thực vật, 2015)
Khay gieo các giống được đặt trong lồng lưới và giữ nước đủ để cung cấp cho cây và độ ẩm cho rầy nâu sinh sống
Năm ngày sau khi gieo, khi cây mạ đã có 3 lá thật, tiến hành thả rầy nâu tuổi 2-3 tại 5 điểm khác nhau, với mật độ 5-8 con trên mỗi dảnh Sau đó, cần theo dõi và đánh giá tình hình phát triển.
Monitor the seedlings for 1 to 2 days until the TN1 variety starts showing signs of leafhopper damage At this point, evaluate the plants using the 9-point scale established by IRRI (Standard Evaluation System for Rice, 2002) The assessment score will be recorded when the control variety exhibits leafhopper infestation.
3.5.4 Đánh giá khả năng chống chịu rầy nâu của tập đoàn giống lúa nhập nội từ IRRI
- Thu thập, nhân nuôi rầy nâu trong nhà lưới:
Để thu thập rầy nâu, người nông dân có thể sử dụng máy hút hoặc nhổ cả khóm lúa chứa trứng, rầy non và rầy trưởng thành Rầy nâu thường được thu thập từ các đồng ruộng trồng các giống lúa phổ biến như Bắc Thơm 7 và Nếp tại Hà Nội, Nam Định, và Vĩnh Phúc.
Rầy nâu được nuôi trong lồng lưới kích thước 1m x 1m x 0.6m, với thức ăn là lúa giống TN1 (20 – 30 ngày tuổi) để phát triển quần thể và giúp rầy thích ứng với điều kiện nhà lưới Việc này là cần thiết trước khi đánh giá khả năng chống chịu rầy nâu của các giống cây trồng.
- Phương pháp đánh giá tính chống chịu rầy nâu của các giống lúa:
Sử dụng các giống lúa nhập nội từ IRRI để đánh giá khả năng chống chịu với nguồn rầy nâu thu được ở vùng ĐBSH
Các giống lúa được đánh giá theo phương pháp khay mạ của IRRI, sử dụng khay có kích thước 60 x 40 x 10 cm Trong mỗi khay, một khung gỗ hình ô bàn cờ được đặt để gieo giống Mỗi giống được gieo ở 3 ô ngẫu nhiên, với mỗi ô chứa từ 15-20 hạt Hàng viền xung quanh khay được gieo giống đối chứng nhiễm TN1 để so sánh.
Khay gieo các giống được đặt trong lồng lưới và giữ nước đủ để cung cấp cho cây và độ ẩm cho rầy nâu sinh sống
Phương pháp xử lý số liệu
- Các số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel 2007.
Kết quả nghiấn cứu và thảo luận
Đánh giá thực trạng sử dụng giống lúa chống chịu rầy nâu hiện nay ở một số tỉnh trồng lúa vùng ĐBSH
Đồng bằng sông Hồng, hay châu thổ sông Hồng, là vùng đất rộng lớn quanh hạ lưu sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam, bao gồm 11 tỉnh và thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, và Thái Bình, với tổng diện tích 23.336 km², chiếm 7,1% diện tích cả nước Địa hình vùng này tương đối bằng phẳng và có hệ thống sông ngòi dày đặc, nhưng vào mùa mưa, lưu lượng dòng chảy lớn có thể gây lũ lụt, đặc biệt tại các cửa sông Ngược lại, mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4, dòng nước chỉ còn 20-30% tổng lượng nước cả năm, dẫn đến tình trạng thiếu nước Đất nông nghiệp là tài nguyên chính của vùng, nhờ phù sa từ sông Hồng và sông Thái Bình, với hơn 103 triệu ha đất đã được sử dụng, chiếm 82,48% diện tích tự nhiên và 5,5% tổng diện tích đất sử dụng của cả nước Đồng bằng sông Hồng có mức sử dụng đất cao nhất so với các vùng khác, rất thích hợp cho thâm canh lúa nước, trồng màu và cây công nghiệp ngắn ngày, với diện tích trồng cây lương thực đứng thứ hai cả nước, đạt 1.242,9 nghìn ha.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Thống kê, diện tích đất trồng lúa tại các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) trong giai đoạn 2011-2015 cho thấy sự gia tăng đáng kể, đặc biệt ở những tỉnh có diện tích trồng lúa lớn như Nam Định.
Diện tích đất trồng lúa tại các tỉnh như Hà Nội và Vĩnh Phúc đang có xu hướng giảm Cụ thể, tổng diện tích đất trồng lúa của vùng Đồng bằng sông Hồng đã giảm từ 1.144,5 nghìn ha vào năm 2011 xuống còn 1.110,4 nghìn ha vào năm 2015 Tương tự, Nam Định cũng ghi nhận sự giảm diện tích từ 158,4 nghìn ha xuống còn 154,4 nghìn ha trong cùng thời gian.
Hà Nội đã giảm diện tích trồng lúa từ 204,9 nghìn ha xuống còn 200,5 nghìn ha, trong khi các giống lúa cao sản và lúa lai đang được gieo trồng phổ biến, thay thế cho các giống địa phương năng suất thấp Mặc dù hệ thống tưới tiêu và việc sử dụng phân bón ngày càng được cải thiện, nhưng sản xuất lúa vẫn đối mặt với nhiều thách thức như độ phì nhiêu đất suy giảm do chế độ sử dụng phân bón không hợp lý, thiên tai như hạn hán và lũ lụt Việc bố trí thời vụ và cơ cấu giống lúa chưa đồng bộ đã dẫn đến sự xuất hiện của các dịch hại nguy hiểm, trong đó dịch rầy nâu là một vấn đề nghiêm trọng cho các tỉnh có diện tích trồng lúa lớn Các địa phương vùng ĐBSH đang gặp khó khăn với quá nhiều giống lúa có năng suất cao nhưng khả năng chống chịu sâu bệnh kém Dù đã có kế hoạch gieo trồng để giảm thiểu thiệt hại từ dịch hại, nhưng diện tích lúa bị rầy nâu gây hại vẫn lớn, ảnh hưởng đến năng suất thu hoạch Để nắm rõ tình hình sản xuất lúa ở vùng ĐBSH, chúng tôi đã tiến hành điều tra về diện tích, năng suất và sản lượng lúa trong 5 năm qua ở một số tỉnh trồng lúa chính, với kết quả được trình bày trong bảng 4.1 – 4.4.
Bảng 4.1 Tình hình sản xuất lúa của tỉnh Nam Định (2011-2015)
Lúa đông xuân Lúa mùa
Nguồn: Tổng cục thống kê Báo cáo thống kê nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Nam Định là một tỉnh quan trọng trong sản xuất lúa của ĐBSH, với diện tích trồng lúa hàng năm gần 90 nghìn ha và năng suất đạt 69 tạ/ha vụ xuân, 52 tạ/ha vụ mùa Tuy nhiên, diện tích trồng lúa đang giảm dần, từ 78,1 nghìn ha năm 2011 xuống 76,1 nghìn ha năm 2015 ở vụ xuân và từ 80,3 nghìn ha xuống 78,3 nghìn ha trong vụ mùa Đất nông nghiệp tại đây chủ yếu là phù sa sông, có độ phì cao, thích hợp cho cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày Gần đây, Nam Định chịu tác động nặng nề từ biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng, dẫn đến giảm năng suất và chất lượng sản phẩm Theo thống kê, nhiệt độ trung bình tăng 0,7°C trong 22 năm qua, trong khi độ ẩm giảm 2,01% Mỗi năm, tỉnh phải đối mặt với 4-6 cơn bão và nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan như nắng nóng, mưa rét kéo dài, và triều cường bất thường Tình trạng hạn hán kết hợp với triều cường đã làm 38 nghìn ha đất canh tác bị ảnh hưởng, trong đó hơn 11 nghìn ha thiếu nước trầm trọng Trung bình, diện tích cấy lúa giảm khoảng 635 ha mỗi năm do BĐKH.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn qua các năm từ 2009 – 2014)
Bảng 4.2 Tình hình sản xuất lúa của tỉnh Vĩnh Phúc (2011-2015)
Lúa đông xuân Lúa mùa
Nguồn: Tổng cục thống kê Báo cáo thống kê nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (2011-2015)
Vĩnh Phúc là tỉnh nằm trong vùng chuyển tiếp giữa gò đồi trung du và đồng bằng Châu thổ Sông Hồng, được chia thành ba vùng sinh thái: đồng bằng, trung du và miền núi Diện tích trồng lúa tại Vĩnh Phúc trong những năm qua ổn định, với vụ xuân khoảng 30-31 nghìn ha và vụ mùa 27-28 nghìn ha Đặc biệt, năm 2016, diện tích lúa vụ đông xuân đạt 33 nghìn ha và vụ mùa 27 nghìn ha Năng suất lúa ở đây cũng khá cao, với vụ xuân đạt 60 tạ/ha và vụ mùa đạt 53 tạ/ha, theo thông tin từ Chi cục Bảo vệ Thực vật Vĩnh Phúc.
Bảng 4.3 Tình hình sản xuất lúa của Hà Nội (2011-2015)
Lúa đông xuân Lúa mùa
Nguồn: Tổng cục thống kê Báo cáo thống kê nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (2011-2015)
Hà Nội là tỉnh có diện tích đất trồng lúa lớn nhất trong vùng Đồng bằng sông Hồng, với hơn 200 nghìn ha mỗi năm Tuy nhiên, trong những năm gần đây, diện tích đất trồng lúa đã có xu hướng giảm dần, từ 102 nghìn ha vụ Xuân năm 2011 xuống còn 101 nghìn ha.
2015 Tương tự, vụ mùa giảm từ 102,9 nghìn ha xuống 99,5 nghìn ha Năng suất đạt 61-62 tạ/ha vụ xuân và 52-56 tạ/ha vụ mùa
Bảng 4.4 Tình hình sản xuất lúa của vùng ĐBSH (2011-2015)
Lúa đông xuân Lúa mùa
Nguồn: Tổng cục thống kê Báo cáo thống kê nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản (2011-2015)
Trong giai đoạn 2011-2015, diện tích trồng lúa tại vùng Đồng bằng sông Hồng có xu hướng giảm, từ 566 nghìn ha năm 2011 xuống 522,6 nghìn ha năm 2015 ở vụ đông xuân, và từ 578 nghìn ha xuống 557 nghìn ha ở vụ mùa Mặc dù diện tích giảm, năng suất trung bình toàn vùng vẫn duy trì ổn định, đạt 65-66 tạ/ha ở vụ xuân và 52 tạ/ha ở vụ mùa.
Theo thống kê, diện tích đất trồng lúa tại vùng Đồng Bằng Sông Hồng (ĐBSH) đang giảm, đặc biệt ở một số tỉnh trọng điểm như Nam Định.
Hà Nội và Vĩnh Phúc đối mặt với nhiều thách thức trong sản xuất lúa gạo, bao gồm đô thị hóa, giá lúa gạo thấp và điều kiện thời tiết không thuận lợi Một trong những nguyên nhân chính là chi phí đầu tư cho sản xuất lúa quá cao, với giống, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật chiếm tới 46,5% tổng chi phí, theo tác giả Nguyễn Văn Bộ (2016) Việc phụ thuộc vào thuốc hóa học trong bảo vệ thực vật, đặc biệt là trong phòng trừ rầy nâu, làm gia tăng chi phí đầu vào, ảnh hưởng đến lợi nhuận của nông dân.
600 tên thuốc bảo vệ thực vật được đăng ký cho phòng trừ rầy nâu
Bảng 4.5 Cơ cấu giá thành sản xuất lúa
Giống, phân bón, thuốc BVTV 1.699 46.5
Theo Cục Bảo vệ thực vật (2016), từ năm 2003 đến 2005, tại Vĩnh Phúc và Hà Nội, có tới 20 - 88,8% nông dân vẫn sử dụng thuốc cấm và thuốc ngoài danh mục Đến năm 2010, tỷ lệ này giảm xuống còn 5,19% hộ sử dụng thuốc cấm, nhưng vẫn còn 10,22% không tuân thủ thời gian cách ly và 51% không thực hiện theo khuyến cáo trên nhãn Dữ liệu về nhập khẩu thuốc bảo vệ thực vật vào Việt Nam trong năm năm qua cho thấy xu hướng gia tăng, với mức tăng 20% vào năm 2014 và 14,4% vào năm 2015 so với năm 2011 Điều này chỉ ra rằng việc sử dụng thuốc hóa học ngày càng gia tăng, làm tăng chi phí sản xuất và nhấn mạnh sự cần thiết phải đầu tư vào nghiên cứu và phát triển giống cây trồng chống chịu sâu bệnh.
Bảng 4.6 Nhập khẩu thuốc bảo vệ thực vật
Cơ cấu giống lúa tại ĐBSH khá đa dạng, theo Trần Xuân Định và ctv
(2016), hiện nay có 133 giống lúa khác nhau được gieo trồng tại ĐBSH trong đó lúa tẻ thuần 61 giống, lúa lai 55 giống, lúa nếp 17 giống (Bảng 4.7)
Bảng 4.7 Diện tích phân theo nhóm giống tại ĐBSH (2015)
Nhóm giống Số lượng giống Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
Theo số liệu từ Cục Trồng trọt, Bộ NN & PTNT (2016), diện tích gieo trồng ở Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) năm 2015 đạt 1,18 triệu ha, trong đó vụ đông xuân chiếm 541,9 nghìn ha và vụ mùa 574,6 nghìn ha Lúa tẻ thuần vẫn là loại cây trồng chủ yếu, chiếm 75% diện tích gieo trồng, trong khi lúa lai chiếm 18% Các giống lúa được gieo trồng tại ĐBSH chủ yếu là lúa tẻ và lúa lai.
10 giống có diện tích lớn trong top 10 chiếm tới 63,4% diện tích vụ xuân và 70% diện tích vụ mùa
Bảng 4.8 Các giống lúa tẻ chủ lực ở ĐBSH
TT Giống lúa tẻ Tổng Diện tích
Vụ Đông xuân (Nghìn ha)
Nguồn: Cục Trồng trọt, Bộ NN & PTNT (2016)
Trong các giống lúa tẻ chủ lực, Khang dân 18, Bắc thơm số 7 và BC 15.Q5 là những giống được gieo trồng với diện tích lớn nhất Bên cạnh đó, các giống hương thơm 1 và thiên ưu 8 cũng được trồng rộng rãi.
Năm 2015, diện tích trồng lúa lai ở Đồng bằng sông Hồng đạt 201.249 ha, bao gồm 55 giống lúa, trong đó các giống chủ lực chiếm 146,93 nghìn ha, tương đương 13,14% tổng diện tích lúa Danh sách các giống lúa lai chủ lực được liệt kê trong bảng 4.9.
Bảng 4.9 Diện tích các giống lúa lai chủ lực của ĐBSH (2015)
TT Giống lúa lai Tổng Diện tích
Vụ Đông xuân (Nghìn ha)
Theo Cục Trồng trọt, Bộ NN & PTNT (2016), các giống lúa lai chủ lực chủ yếu có nguồn gốc từ Trung Quốc và thường dễ bị nhiễm sâu bệnh, đặc biệt là rầy nâu Đối với lúa nếp, vùng Đồng bằng sông Hồng có 6 giống chủ lực, trong đó giống lúa nếp được gieo trồng nhiều nhất là nếp 97, nếp cái hoa vàng và IR352.
Bảng 4.10 Một số giống lúa nếp chủ lực vùng ĐBSH
TT Giống Tổng Diện tích
Vụ Đông xuân (Nghìn ha)
6 Các giống nếp cổ truyền 3,40 0,73 3,27
Xác định nguồn gen kháng rầy nâu cho vùng đồng bằng sông hồng
Biotype rầy nâu tại vùng ĐBSH đã được xác định thông qua các giống lúa chỉ thị như Mudgo, ASD7, Rathuheenati và Babawee Kết quả nghiên cứu cho thấy rầy nâu có khả năng gây hại nặng đối với giống lúa mang gen Bph1 và mức độ nhiễm vừa đối với giống mang gen bph2 Điều này chỉ ra rằng quần thể rầy nâu thu thập thuộc biotype 2 và đang có xu hướng chuyển dịch sang biotype 3.
Bảng 4.15 Xác định biotype nguồn rầy nâu tại Hà Nội
(Viện Bảo vệ Thực vật, 2014)
Giống Nguồn gen Cấp nhiễm (0-9)
Nguồn gen kháng rầy nâu cho vùng ĐBSH đã được xác định thông qua việc đánh giá các giống lúa nhập nội mang gen kháng rầy nâu, sử dụng nguồn rầy nâu từ Hà Nội.
Bảng 4.16 Khả năng chống chịu rầy nâu của một số giống lúa mang gen kháng rầy nâu (Viện Bảo vệ thực vật, 2014)
TT Tên Giống Nguồn gen Cấp kháng/nhiễm
Các giống lúa RATHUHEENATI, BABAWEE, IR65482-4-136-2-2 và ADR52 thể hiện khả năng kháng cao với rầy nâu tại ĐBSH nhờ mang các gen Bph3, bph4, Bph10 và Bph25,26 Trong khi đó, các giống SWAMANALATA, IR65482-7-216-1-2 và IR71033-121-15 có mức kháng trung bình với rầy nâu, mang gen Bph6, Bph18 và Bph20 Những giống này là nguồn gen kháng rầy nâu tiềm năng cho công tác chọn tạo giống lúa tại vùng ĐBSH.
Đánh giá khả năng chống chịu rầy nâu cho một số giống lúa đang được trồng phổ biến ở ĐBSH trong điều kiện lây nhiễm nhân tạo
Để kiểm tra mức độ kháng và nhiễm của các giống lúa phổ biến, nghiên cứu đã thu thập và tiến hành thí nghiệm đánh giá tính kháng rầy nâu cho một số giống lúa ở vùng ĐBSH bằng phương pháp nhân tạo trong nhà lưới Kết quả cho thấy hầu hết các giống lúa được đánh giá đều có phản ứng nhiễm từ trung bình đến nặng đối với nguồn rầy nâu thu được tại khu vực này.
Bảng 4.17 Đánh giá nhân tạo khả năng chống chịu rầy nâu của một số giống lúa thuần được trồng phổ biến ở vùng ĐBSH (Viện Bảo vệ thực vật, 2016)
TT Giống lúa thuần Cấp nhiễm Mức độ kháng/nhiễm
10 Khang dân đột biến 7 Nhiễm
11 Xi23 7 Nhiễm ĐC nhiễm TN1 9 Nhiễm nặng ĐC kháng Ptb 33 1 Kháng cao
Bảng 4.18 Đánh giá nhân tạo khả năng chống chịu rầy nâu của một số giống lúa lai được trồng phổ biến ở vùng ĐBSH (Viện Bảo vệ thực vật, 2016)
TT Giống lúa lai Cấp nhiễm Mức độ kháng/nhiễm
6 Bắc ưu 903 5 Nhiễm trung bình
Các giống giống lúa lai được đánh giá đều nhiễm rầy nâu từ mức trung bình đến nhiễm nặng Trong đó, các giống Nhị ưu 838, D ưu 527 bị nhiễm nặng
Ngoài những giống lúa chủ lực đang được trồng rộng rãi ở vùng Đồng bằng sông Hồng, còn tồn tại một số giống lúa khác với diện tích trồng nhỏ lẻ, được nhiều địa phương gieo trồng trong cả vụ Đông Xuân và vụ Hè Thu.
Bảng 4.19 Đánh giá nhân tạo khả năng chống chịu rầy nâu của một số giống lúa khác được trồng phổ biến ở vùng ĐBSH (Viện Bảo vệ thực vật, 2016)
TT Giống Cấp nhiễm Mức độ nhiễm
7 Tám xoan đột biến 7 Nhiễm
8 Lúa thơm thế hệ mới 7 Nhiễm
9 Tám Hải Hậu 9 Nhiễm nặng ĐC nhiễm TN1 9 Nhiễm nặng ĐC kháng Ptb 33 1 Kháng cao
Các giống lúa thuần và lúa lai phổ biến, cùng với một số giống lúa khác như Hồng Đức 9, Lúa CLC T10 và Tám Hải Hậu, đều cho thấy mức độ nhiễm cao với quần thể rầy nâu tại vùng ĐBSH Trong số này, Hồng Đức 9, Lúa CLC T10 và Tám Hải Hậu là những giống bị nhiễm nặng nhất.
So sánh với kết quả theo dõi hàng năm của các Chi cục bảo vệ thực vật cho thấy hầu hết các giống lúa được ghi nhận có phản ứng nhiễm từ trung bình đến nặng đều có phản ứng tương tự khi đánh giá trong nhà lưới Việc gieo trồng quá nhiều giống lúa nhiễm rầy nâu và thiếu giống kháng sẽ làm tăng nguy cơ dịch rầy nâu, có thể dẫn đến hiện tượng cháy rầy nhanh chóng nếu không có biện pháp phòng trừ kịp thời Do đó, trong công tác phòng trừ rầy nâu, tỷ lệ giống kháng và nhiễm cần được duy trì hợp lý Xu thế sản xuất lúa bền vững hiện nay là duy trì đa dạng nguồn gen theo cơ cấu hợp lý.
Các địa phương nên áp dụng tỷ lệ cơ cấu giống lúa do Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất, bao gồm: 15-20% giống lúa chất lượng trung bình, năng suất cao, thích nghi rộng; 60% giống lúa chất lượng cao, năng suất tốt và chống chịu sâu bệnh; và 15-20% giống lúa thơm, đặc sản Không để một giống nào chiếm quá 20% diện tích sản xuất Đồng thời, các Trạm bảo vệ thực vật cần khuyến cáo nông dân không sử dụng thóc thịt làm giống cho vụ sau, cùng với việc bố trí mùa vụ gieo trồng hợp lý, hạn chế phân đạm và lạm dụng thuốc trừ sâu để phòng trừ rầy nâu hiệu quả.
Hình 4.1 Đánh giá khả năng chống chịu rầy nâu của các giống lúa đang được gieo trồng phổ biến ở vùng ĐBSH (Viện Bảo vệ thực vật, 2016)
Đánh giá khả năng chống chịu rầy nâu của tập đoàn giống lúa nhập nội từ
Trong quá trình chọn tạo giống lúa, việc sử dụng giống địa phương có khả năng kháng cao với rầy nâu và các nguồn vật liệu từ IRRI mang gen kháng rầy là rất quan trọng Những dòng/giống này không chỉ giúp nâng cao năng suất mà còn tăng cường khả năng kháng với quần thể rầy nâu trong sản xuất Đặc biệt, các dòng/giống lúa nhập nội từ viện nghiên cứu lúa Quốc Tế IRRI được đánh giá khả năng chống chịu với nguồn rầy nâu thu thập tại Hà Nội, đại diện cho vùng ĐBSH và thuộc biotype 2.
Bảng 4.20 Kết quả đánh giá tính kháng rầy nâu của một số dòng/giống lúa nhập nội từ IRRI (Viện Bảo vệ thực vật, 2015)
Năm Tổng số dòng/giống Cấp nhiễm
Bảng 4.21 Các dòng/giống lúa kháng rầy nâu nhập nội từ IRRI
(Viện Bảo vệ thực vật, 2015)
TT Tên dòng/giống Cấp nhiễm
Bảng 4.22 Các dòng/giống lúa nhiễm trung bình rầy nâu nhập nội từ IRRI
(Viện Bảo vệ thực vật, 2015)
TT Tên dòng/giống Cấp nhiễm
Kết quả đánh giá từ IRRI cho thấy có 18 dòng/giống lúa kháng cao và 42 dòng/giống lúa nhiễm vừa với quần thể rầy nâu ở ĐBSH Những dòng/giống này là nguồn vật liệu tiềm năng cho việc chọn tạo giống lúa chống chịu rầy nâu và các bệnh virus mà rầy nâu truyền bệnh.
Hình 4.2 Đánh giá nhân tạo tính kháng rầy nâu của các giống lúa nhập nội
(Viện Bảo Vệ Thực Vật, 2015)
Giới thiệu dòng triển vọng có khả năng chống chịu rầy nâu cho vùng đồng bằng Sông Hồng
4.5.1 Khả năng chống chịu của một số dòng triển vọng
Chúng tôi đã tiến hành đánh giá khả năng kháng rầy nâu của một số dòng lúa triển vọng được chọn lọc từ tập đoàn giống lúa nhập nội, nhằm mục đích phát triển các giống lúa có khả năng kháng cao với rầy nâu Các dòng giống này được đánh giá dựa trên các bộ giống của IRRI liên quan đến tính kháng rầy nâu, bạc lá và đạo ôn.
Bảng 4.23 Đánh giá khả năng kháng rầy nâu của một số dòng/giống triển vọng (Viện bảo vệ thực vật, 2015)
TT Tên dòng/giống Nguồn gốc Cấp nhiễm
4.5.2 Nghiên cứu và đánh giá các đặc điểm nông học
Từ tập đoàn dòng giống lúa nhập nội, đã chọn lọc và làm thuần được 6 dòng lúa triển vọng với khả năng chống chịu bệnh đạo ôn, bạc lá và rầy nâu Các dòng lúa này đã được đánh giá tính thích ứng tại các vùng sinh thái khác nhau, trong đó có vùng ĐBSH, được trồng thử nghiệm tại Hà Nội và Nam Định trong 2 vụ lúa chính Kết quả thu được đã được thể hiện qua các bảng.
Bảng 4.24 Đặc điểm nông học của các dòng triển vọng
(Hà Nội và Nam Định, 2014) Đặc điểm nông học và kháng sâu bệnh hại
Dòng IR84675-134-6-1, được gọi là RN40, đã nhận được sự đánh giá cao từ nông dân và đang trong quá trình thử nghiệm, khảo nghiệm Dòng giống này được chọn lọc từ nguồn vật liệu nhập nội của IRRI, là kết quả của sự lai tạo giữa IR84674 và IR82855, và đã được đánh giá khả năng chống chịu rầy nâu từ năm 2012.
Vụ mùa 2012, tập đoàn nhập nội đã phát hiện dòng gốc IR84675-134-6 với những đặc điểm nông học ưu việt thông qua thí nghiệm quan sát và tiến hành chọn lọc cá thể.
Năm 2013-2014: Tiếp tục chọn lọc cá thể, chọn lọc dòng bông và chọn được dòng triển vọng được đặt tên là RN40
Năm 2014: Thử nghiệm dòng triển vọng RN40 tại một số tỉnh Nam Định,
Từ năm 2012-2015, đã đánh giá tính chống chịu của RN 40 với các đối tượng sâu bệnh hại chính
Kết quả trồng thử nghiệm giống lúa RN 40 tại một số tỉnh thuộc ĐBSH cho thấy giống này có nhiều đặc tính nông học ưu việt Cụ thể, độ thoát cổ bông, độ cứng cây, độ rụng hạt và độ thuần đồng ruộng đều đạt điểm 1 Cây lúa RN 40 có hình dáng gọn gàng, lá xanh đậm, góc lá hẹp, khả năng đẻ nhánh tốt, thời gian sinh trưởng ngắn và hạt thon dài với màu vỏ trấu vàng sáng.
Bảng 4.25 Một số đặc điểm nông học của dòng RN 40
(Hà Nội và Nam Định, 2014)
TT Các chỉ tiêu đánh giá Điểm
4 Độ dài giai đoạn trỗ 5
Hình 4.3 Trồng thử nghiệm dòng RN 40 (Hà Nội, Vụ mùa - 2016)
Dòng RN40 đã được đánh giá khả năng chống chịu với rầy nâu, bệnh đạo ôn và bệnh bạc lá Kết quả cho thấy RN40 có khả năng chống chịu cao với rầy nâu (điểm 3), chống chịu trung bình với bệnh bạc lá vi khuẩn và bệnh đạo ôn Bên cạnh đó, RN40 cũng thể hiện khả năng chịu rét tốt (điểm 3).
Bảng 4.26 Khả năng chống chịu một số sâu bệnh hại chính
Sâu bệnh Đánh giá nhân tạo (điểm) Đánh giá đồng ruộng (điểm) Đạo ôn 5 5
Hình 4.4 Trồng thử nghiệm so sánh khả năng kháng bệnh bạc lá của dòng
RN 40 và TBR 225 (Hà Nội, Vụ mùa – 2016) Trồng thử nghiệm RN40 ở một số tỉnh vùng ĐBSH để đánh giá khả năng thích nghi cũng như so sánh năng suất thu được so với một số giống được trồng phổ biến ở vùng ĐBSH, kết quả cho thấy (Bảng 4.27)
Bảng 4.27 Năng suất của dòng RN 40 trồng thử nghiệm tại Hà Nội và Nam Định (Vụ mùa – 2014)
RN40 Bắc thơm 7 RN40 Bắc thơm 7
Năng suất trung bình của RN 40 (tạ/ha) 55,30
RN40 là giống lúa triển vọng với tiềm năng năng suất cao và khả năng chống chịu tốt với rầy nâu (điểm 3), đạo ôn (điểm 3-5) và bệnh bạc lá (điểm 5) Năng suất trung bình trong vụ xuân đạt 63,5 tạ/ha và vụ mùa đạt 53,5 tạ/ha tại các điểm thí nghiệm ở Nam Định và Hà Nội Giống lúa này có thời gian sinh trưởng ngắn, từ 90-105 ngày trong vụ mùa và 110-120 ngày trong vụ xuân, đồng thời có khả năng chịu rét tốt.
Mật độ rầy nâu điều tra ngoài đồng trên dòng RN40 luôn thấp hơn mật độ trên các giống được gieo trồng phổ biến như Bắc thơm 7, AC5
Dòng triển vọng RN 40 đã được gửi đi khảo nghiệm tại Trung tâm Khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng và phân bón Quốc gia, và kết quả khảo nghiệm được trình bày trong bảng 4.28.
Bảng 4.28 Kết quả khảo nghiệm dòng RN 40 ở một số tỉnh vùng ĐBSH
TT Tên giống Năng suất tại các điểm khảo nghiệm (tạ/ha)
Trung bình Hưng Yên Hải Dương Bắc Giang
Kết quả khảo nghiệm Quốc gia vụ mùa 2014 cho thấy giống lúa RN40 đạt năng suất từ 47-57 tạ/ha, với năng suất trung bình 51,36 tạ/ha Giống này được đánh giá cao với gạo trắng, cơm mềm và dẻo, đồng thời có khả năng chống chịu rầy nâu Cần tiếp tục khảo nghiệm để đưa giống RN40 vào sản xuất.