1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tìm hiểu quan điểm giáo dục của khổng tử trong luận ngữ ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay

60 45 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong Luận ngữ Ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay
Tác giả Nguyễn Thị Kiều Miên
Người hướng dẫn CN – Lê Em
Thể loại luận văn
Định dạng
Số trang 60
Dung lượng 527,22 KB

Cấu trúc

  • A. Phần mở đầu (3)
    • 1. Lý do chọn đề tài (3)
    • 2. Tính cấp thiết của đề tài (4)
    • 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề mà đề tài quan tâm (5)
    • 4. Mục tiêu, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu và kết cấu của đề tài (6)
  • B. Nội dung (7)
  • Chương I: Sơ lược về tác giả và tác phẩm (8)
    • I. Thời đại Xuân Thu và Khổng Tử (8)
      • 1. Tình hình kinh tế xã hội thời Xuân Thu (8)
      • 2. Tiểu sử Khổng Tử (0)
    • II. Tác phẩm Luận ngữ (11)
      • 1. Ghi chép và biên soạn Luận ngữ (12)
      • 2. Các bản Luận ngữ (13)
  • Chương II: Những quan điểm cơ bản về giáo dục của Khổng Tử (17)
    • I. Một số phạm trù đạo đức trong Luận ngữ (17)
      • 1. Nhân – nghĩa (17)
      • 2. Lễ – nhạc (20)
      • 3. Hiếu - đễ (24)
      • 4. Tri – hành (25)
      • 5. Ngôn – hành (26)
    • II. Một số vấn đề về quan điểm giáo dục của Khổng Tử (28)
      • 1. Đối tƣợng giáo dục (28)
      • 2. Nhiệm vụ giáo dục (0)
      • 3. Mục đích giáo dục (0)
      • 4. Phương pháp giáo dục (36)
    • C. Kết luận (7)
      • I. Nhìn nhận lại giá trị về quan điểm giáo dục của Khổng Tử (42)
      • II. Ý nghĩa của quan điểm giáo dục của Khổng Tử đối với công tác giáo dục hiện nay (48)
      • III. Đánh giá chung (56)
  • Tài liệu tham khảo (59)

Nội dung

Phần mở đầu

Lý do chọn đề tài

Thời kỳ Xuân Thu chứng kiến sự hỗn loạn trong xã hội với tình trạng con giết cha, tôi giết vua, em giết anh diễn ra thường xuyên Mối quan hệ giữa vua và nhân dân trở nên căng thẳng, khi vua áp bức và sống xa hoa trên nỗi khổ của dân Sự phân hóa giai cấp ngày càng sâu sắc, dẫn đến những cuộc chiến khốc liệt vì quyền lực và ngôi vị Đây là giai đoạn mà cái cũ đã suy tàn nhưng cái mới chưa hình thành, khiến xã hội rơi vào vòng xoáy hỗn độn, đạo đức xuống cấp trầm trọng, khiến Tề Cảnh Công phải bày tỏ nỗi lo lắng với Khổng Tử về tình trạng hỗn loạn này.

Khổng Tử mong muốn vượt qua định kiến để thực thi lễ nghĩa, với ước vọng xây dựng một quốc gia theo đạo lý Ông nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử của mình và mang trong lòng nỗi khổ tâm về nhân sinh Khổng Tử khao khát một thời kỳ thịnh vượng, nơi văn võ được quy củ, dù biết rằng công việc của mình không hợp thời Ông đã chu du khắp nơi với hy vọng phát triển hoài bão Tư tưởng nhân sinh của Khổng Tử gắn liền với chiều sâu lịch sử, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Trung Quốc và nhân loại Đặc biệt, những tư tưởng giáo dục trong "Luận ngữ" vẫn có giá trị hướng dẫn cho giáo dục phương Đông ngày nay.

Tư tưởng Khổng Tử, đặc biệt là trong Luận ngữ, đã khởi xướng một trào lưu giáo dục mới tại vùng Hoa Hạ và có ảnh hưởng sâu rộng đến lịch sử các triều đại phong kiến phương Đông Những quan điểm giáo dục của ông không chỉ được dân tộc hóa mà còn trở thành một phần văn hóa của chính các dân tộc đó Do vậy, tôi muốn nghiên cứu và đánh giá lại những giá trị tích cực, tiêu cực cũng như ý nghĩa của tư tưởng này đối với công tác giáo dục hiện nay.

Tính cấp thiết của đề tài

Luận ngữ là một hệ thống triết thuyết phong phú, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về con người Khổng Tử, người có vẻ ôn hòa nhưng nghiêm nghị Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục hơn chính trị, cho rằng người làm chính trị cần tự sửa mình để xứng đáng với vị trí của mình Dân chúng chỉ tin tưởng khi người cầm quyền giữ được phẩm hạnh và danh dự, từ đó bảo đảm sự ổn định của đất nước.

Vấn đề giáo dục của Khổng Tử thể hiện rõ kinh nghiệm dạy và học của ông, khi ông không chỉ học cho bản thân mà còn truyền đạt kiến thức để đào tạo nhân tài Phạm vi giáo dục của ông bao gồm mọi người, mọi nhà hữu đạo và thiên hạ hữu đạo Khổng Tử nhấn mạnh rằng mục đích giáo dục không phải để tranh giành danh lợi hay mưu cầu quyền lực, mà trước tiên là để nâng cao phẩm hạnh và tri thức của con người.

“Cha cho đúng là cha, con cho đúng là con, anh cho đúng là anh, em cho đúng là em, chồng cho đúng là chồng, vợ cho đúng là vợ” thể hiện rõ quan điểm về vai trò và trách nhiệm trong gia đình Đề tài “Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong ‘Luận ngữ’ và ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay” nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục đạo đức và nhân cách, từ đó góp phần xây dựng xã hội văn minh và phát triển bền vững.

*************************************************************** đào tạo ra những con người có đủ khả năng và đức độ để vực dậy cái xã hội đang trên đà tuột dốc

Quan điểm giáo dục của Khổng Tử mang giá trị sâu sắc, được Phùng Hữu Lan, triết gia Trung Quốc cận đại, nhận xét là “đại giải phóng” trong lịch sử Trung Quốc, khi ông là người đầu tiên mở trường tư và dạy học.

Trong bối cảnh khó khăn, 3000 đệ tử đã áp dụng những điển tích từ Thư, Thi, Lễ, Dịch, Nhạc, và Xuân Thu để giảng dạy cho những người bình thường, từ đó làm cho "lục nghệ mang tính quần chúng" trở nên gần gũi và dễ tiếp cận hơn.

Tìm hiểu về “Quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong Luận ngữ” là một cách để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập hiện nay Bài viết này nhằm góp phần nhỏ bé vào việc phát triển giáo dục trong bối cảnh hiện đại.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề mà đề tài quan tâm

Đã có nhiều nghiên cứu về Khổng Tử và quan điểm giáo dục của ông, với Luận ngữ là một tác phẩm phong phú được phân tích từ nhiều góc độ khác nhau bởi các học giả như Hồ Văn Phi và Nguyễn Hiến Lê Mặc dù trong quá trình thực hiện luận văn gặp phải một số hạn chế về tư liệu và tư tưởng chỉ đạo, nhưng điều này không làm giảm đi sự nhiệt huyết của tôi trong việc nghiên cứu đề tài.

Dù đã nỗ lực tối đa, luận văn này vẫn không thể tránh khỏi những sai sót và hạn chế Tôi hy vọng rằng những quan điểm của tôi về đề tài “Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong ‘Luận ngữ’ và ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay” sẽ đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về giáo dục hiện đại.

*************************************************************** trong Luận ngữ Ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay” Tôi rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn.

Mục tiêu, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu và kết cấu của đề tài

Bài viết phân tích quan điểm giáo dục của Khổng Tử, nêu rõ những ưu điểm và hạn chế trong tư tưởng của ông, từ đó nhấn mạnh ý nghĩa của những quan điểm này đối với công tác giáo dục hiện nay, nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập.

Luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau:

4.2.1 Làm rõ một số phạm trù đạo đức trong Luận ngữ

4.2.2 Chỉ ra được quan điểm và phương pháp dạy học cũng như nguyên tắc và phương châm học tập

4.2.3 Nhìn nhận lại giá trị của những quan điểm trên ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay

Trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng nhiều phương pháp phân tích và tổng hợp để đạt được mục tiêu đã đề ra Đề tài nghiên cứu mang tên “Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong ‘Luận ngữ’ và ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay.”

4.4 Kết cấu của luận văn:

*/ A: Phần mở đầu ( Giới thuyết chung).

Nội dung

Chương I : Sơ lược về tác giả và tác phẩm

Chương II : Những quan điểm cơ bản của Khổng Tử trong Luận ngữ

*/ Mục lục Đề tài: “Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong “Luận ngữ” Ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay”

Sơ lược về tác giả và tác phẩm

Thời đại Xuân Thu và Khổng Tử

1 TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI THỜI XUÂN THU:

Nhà Chu, một triều đại quan trọng trong lịch sử Hoa Hạ, không chỉ trị vì vùng đất này mà còn được coi là thống trị toàn bộ thiên hạ Họ chia vùng lãnh thổ thành hàng trăm nước nhỏ, phong cho các công thần và con cháu làm chư hầu, tạo nên một hệ thống phong kiến vững mạnh.

Trong thời kỳ Ân - Chu, các nước chư hầu tự chủ nhưng phải triều cống thiên tử và tuân theo mệnh lệnh xuất quân khi có chiến tranh Trung Quốc lúc bấy giờ chủ yếu nằm quanh sông Hoàng Hà, với khoảng 5 – 6 tỉnh ở Bắc Trung Quốc hiện nay Khi nhà Chu thịnh vượng, trật tự xã hội được duy trì, nhưng sự suy yếu của nhà Chu dẫn đến loạn lạc và chiến tranh liên miên Các chư hầu mạnh mẽ tranh giành quyền lực và đất đai, không còn coi trọng mệnh lệnh của vua Chu, gây ra sự hỗn loạn trong xã hội Thời kỳ giao thời giữa Ân và Chu là giai đoạn khốc liệt, khi nhà Ân bị diệt và tình trạng cát cứ kéo dài Mặc dù xã hội Hoa Hạ có vẻ thống nhất, nhưng thực tế là đầy rẫy xung đột và hỗn loạn Cuối đời Chu, xã hội chuyển sang mô hình kết hợp giữa chế độ phong kiến và chế độ nô lệ, phản ánh sự thay đổi trong quan điểm giáo dục và xã hội.

Hoa Hạ là một nền văn minh nông nghiệp lúa nước, phát triển vào thời kỳ Xuân Thu, khi người Trung Quốc đã biết sử dụng đồ sắt và áp dụng các phương pháp canh tác tiên tiến như bón phân, canh tác hai mùa, và đào kênh dẫn nước Sự phát triển này đã dẫn đến sự giàu có của một số địa chủ và sự xuất hiện của tầng lớp thương nhân Với nhu cầu học hỏi ngày càng cao, Khổng Tử đã mở trường học tư đầu tiên, trong khi một số nhân vật nổi bật như Bách Lí Hề, Quản Trọng, và Ninh Thích đã đạt được địa vị cao trong xã hội, cùng với các môn sinh của Khổng Tử như Tử Cống, Tử Lộ, và Nhiễm Cầu.

Thời kỳ Chu không chỉ nổi bật với các thể chế, lễ nghi và tế tự mà còn đạt được những cải tiến đáng kể trong chữ viết Họ đã chuyển từ việc sử dụng mai rùa và xương thú vật sang thẻ tre, giúp ghi chép dễ dàng và thuận tiện hơn Việc sử dụng cây nhọn nhúng sơn để viết lên thẻ tre hoặc lụa cũng nhanh chóng hơn so với khắc, từ đó mỗi nhà Chu và các chư hầu đều có quan chép sử riêng cho triều đình.

Trong gần 370 năm thời Xuân Thu, các chư hầu đã trở thành những lãnh chúa và “sứ quân”, trong đó một số nổi lên thành bá Cuối thời Chiến Quốc, chỉ còn lại bảy nước: Tần, Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Sở và Tề Cuối cùng, Tần Doanh Chính đã đánh bại cả sáu nước còn lại, thống nhất đất nước và lập nên nước Tần rộng lớn, đánh dấu sự kết thúc của triều đại nhà Chu.

Trong thời kỳ Xuân Thu loạn lạc, khi đạo làm Vua trở nên mờ tối và con người chỉ chú trọng vào danh lợi, Khổng Tử đã đưa ra học thuyết của mình nhằm khôi phục trật tự xã hội Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của nhân nghĩa trong bối cảnh xã hội đang biến động và nhân dân phải chịu đựng khổ sở Qua tác phẩm "Luận ngữ", quan điểm giáo dục của Khổng Tử không chỉ phản ánh giá trị đạo đức mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với công tác giáo dục hiện nay, giúp xây dựng một xã hội văn minh và nhân ái hơn.

Khổng Tử (551 – 479 TCN), tên tự là Trọng Ni, sinh ra tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) Ông thuộc dòng dõi quý tộc Khổng Phòng Thúc từ nước Tống, nhưng gia đình đã sa sút và chuyển đến nước Lỗ Cha ông, Thúc Lương Ngột, từng giữ chức quan võ tại ấp Trâu, có 9 người con gái với vợ đầu và một con trai tên Mạnh Bì với vợ lẽ Khi Khổng Tử được 3 tuổi, cha ông qua đời, và ông được sinh ra khi cha đã ngoài 60 tuổi.

Năm 15 tuổi, Khổng Tử đã dốc lòng vào việc học Năm 17 tuổi, ông được đại phu nước Lỗ là Mạnh Ly Tử rất quý trọng, khen là người hiếu lễ và thông đạt Cho nên sau khi Mạnh Ly Tử mất thì con của Mạnh Ly Tử là Ý Tử và con của một ông quan đại phu nước Lỗ Trọng Tôn Cồ là Nam Cung Quát đã theo học lễ Khổng Tử Năm 19 tuổi Khổng Tử thành gia thất, sinh đƣợc người con trai đặt tên là Lý ( Bá Ngư ), Khi đó ông làm chức uỷ lại coi việc đong lường thóc ở kho, rồi làm chức lại trông nom việc chăn nuôi dê Không bao lâu, Khổng Tử rời nước Lỗ đi chu du 3 nước Tề, Tống, Vệ Nhưng không ở đâu được hoan nghênh, ông lại trở về nước Lỗ Vào năm 525 TCN, Khổng

Vào năm 516 TCN, Khổng Tử rời nước Lỗ sang Tề trong bối cảnh loạn lạc, được vua Tề Cảnh Công mời gọi nhưng không được trọng dụng do sự ngăn cản của quan đại phu Án Anh Năm sau, khi trở về Lỗ, Khổng Tử từ chối làm quan dưới triều đại Quý Hoàn Tử, người kế nhiệm cha và lạm quyền Thay vào đó, ông tập trung vào việc dạy học, thu hút ngày càng nhiều học trò Đến năm 500 TCN, vua Lỗ Định Công phong ông làm quan tể tại Trung Đô, đánh dấu sự công nhận giá trị giáo dục của Khổng Tử, điều này vẫn còn có ý nghĩa quan trọng trong công tác giáo dục hiện nay.

Vào năm 51 tuổi, Khổng Tử được thăng chức quan Tư không và sau đó là Đại ti khấu, phụ trách hình pháp Với quyền lực của mình, ông đã ra lệnh xử án đại phu Thiếu Chính Mão vì tội nguỵ biện Chỉ sau 3 tháng cầm quyền, nước Lỗ trở nên thịnh trị, hình pháp không cần áp dụng, trai gái sống trong khuôn khổ, và người dân không nhặt của rơi Tuy nhiên, để làm suy yếu nước Lỗ, vua Tề đã sử dụng kế ly gián, gửi 80 gái đẹp giỏi múa hát đến dâng cho vua Lỗ.

Vua Lỗ, nghe lời đại phu Quý Tôn Tử, đã sa vào mê tửu sắc và bỏ bê việc triều chính, khiến Khổng Tử quyết định từ chức và rời bỏ nước Lỗ vào năm 496 TCN Ông bắt đầu hành trình qua nước Vệ, rồi tới nước Trần Trong chuyến đi qua đất Khuông thuộc nước Vệ, Khổng Tử bị hiểu lầm là Dương Hổ, một kẻ tàn bạo, và bị vây hãm Sau khi rời Khuông, ông tiếp tục qua đất Bồ và trở lại Vệ Tiếp theo, Khổng Tử sang nước Tống nhưng bị mưu sát bởi quan tư mã Hoàn Khôi, buộc ông phải đến Trịnh Sau đó, ông quay lại Trần, rồi lại về Vệ, nhưng Vua Vệ Linh Công không trọng dụng ông, khiến Khổng Tử phải trở lại Trần, sang Sái, rồi lại về Vệ.

Năm 484 TCN, ở tuổi 68, Khổng Tử trở về quê hương nước Lỗ sau 13 năm truyền bá học thuyết mà không được vua các nước chư hầu trọng dụng Ông quyết định mở trường dạy học, biên soạn các tác phẩm như Thi, Thư, hiệu đính Lễ, Nhạc và giải thích Kinh Dịch, đồng thời viết Xuân Thu Khổng Tử qua đời vào tháng 4 năm thứ 16 đời Lỗ Ai Công, tức năm 479 TCN, hưởng thọ 68 tuổi.

Tác phẩm Luận ngữ

Đề tài: “Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong “Luận ngữ” Ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay”

1 GHI CHÉP VÀ BIÊN SOẠN LUẬN NGỮ :

Luận ngữ là một tác phẩm quan trọng ghi lại những cuộc đối thoại giữa Khổng Tử và các học trò, cũng như những người đương thời Sau mỗi cuộc trò chuyện, các học trò đã ghi nhớ và biên soạn lại những lời dạy của Khổng Tử sau khi ông qua đời.

Việc ghi chép Luận ngữ ban đầu là xuất phát từ các học trò của Khổng

Sự bất tiện của công cụ viết sách trong quá khứ đã dẫn đến nhiều cuộc nói chuyện không được ghi chép, gây ra tranh cãi và khó xác định nguồn gốc Trong sách "Kinh điển Thích Văn", có ý kiến cho rằng "Luận ngữ" là do Trọng Ni và Tử Hạ tuyển chọn Hình Bính Chú từ đời Tống cũng cho rằng Trọng Ni đã nhắc đến hai chữ Tử Du.

Lời nói của Trịnh Huyền và Hình Bính có thể chỉ dựa vào sự phỏng đoán, vì nếu Luận ngữ có ba người biên soạn thì không thể đủ tính xác thực Trong Luận ngữ, có đoạn ghi lại câu hỏi của ông Hiến về khái niệm xấu hổ, và Khổng Tử đã trả lời rằng: “Khi nước nhà yên ổn thì làm quan ăn lương, nhưng khi nước nhà loạn lạc vẫn làm quan ăn lương thì đó là xấu hổ.” Hoàng Khảm trong tác phẩm “Luận ngữ nghĩa” cũng cho rằng Luận ngữ là sản phẩm của nhiều tác giả.

70 học trò sau khi Khổng Tử qua đời cùng ghi chép và biên soạn” Nhận định này dễ chấp nhận hơn

Sách Luận ngữ hiện nay bao gồm 20 thiên, với mỗi thiên được tóm gọn bằng 2 hoặc 3 chữ Có hai cách hiểu về tên gọi của mỗi thiên: một là do người dạy và người học Luận ngữ đặt tên, sử dụng 2 hoặc 3 chữ đầu tiên của mỗi thiên để làm tiêu biểu.

3 Luận ngữ: Hiến Vấn 2 Đề tài: “Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong “Luận ngữ” Ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay”

*************************************************************** Thứ hai là có thể do người viết sách đặt tên gọi để làm đề mục cho mỗi thiên

Cả 20 thiên của Luận ngữ đều có ý nghĩa

Luận ngữ là một tác phẩm có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng Nho gia, được ghi chép một cách đơn giản và rõ ràng Đây là cuốn sách đầu tiên của Trung Quốc với ngôn ngữ tinh tế, chứa đựng những câu văn ngắn gọn nhưng sâu sắc Mặc dù có thể không thu hút ngay từ lần đọc đầu tiên, nhưng để hiểu rõ giá trị của Luận ngữ, người đọc cần dành thời gian suy ngẫm về những câu nói thâm thuý trong tác phẩm.

2 CÁC BẢN LUẬN NGỮ : Đời nhà Hán lúc bấy giờ có 3 bộ sách Luận ngữ được lưu hành Hoàng Khảm trong “ Luận ngữ nghĩa” sơ dẫn theo biệt lục của Lưu Hướng đời nhà Hán nói rằng: người nước Lỗ giỏi việc học, vì vậy có “ Lỗ luận” Người nước

Tề giỏi vệc học, vì vậy có “ Tề luận” Bức tường họ Khổng thu nhập được sách vở, vì vậy có “ Cổ luận”

Hai mươi mốt thiên của “ Cổ luận” là đem thiên cuối “Nghiêu Viết” thành “ Tử Trương vấn ư Khổng Tử” làm thành một thiên riêng, đặt tên thiên

“Tử Trương” và “Cổ Luận” có hai thiên “Tử Trương” khác nhau, trong khi “Tề Luận” gồm 22 thiên, trong đó 20 thiên tương đồng với “Lỗ Luận” Bản “Ngoại An xương hầu Trương Vũ” chịu ảnh hưởng từ “Lỗ Luận” và giảng giải “Tề Thuyết”, được gọi là “Trương Hầu luận” “Cổ Luận” bao gồm lời giảng của Khổng An Quốc và sau này là giáo huấn của Mã Dung Cuối đời Hán, Trịnh Huyền đã dựa vào “Lỗ Luận” để nghiên cứu và biên soạn “Tề Luận” Đề tài nghiên cứu là “Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong ‘Luận ngữ’ và ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay”.

Luận ngữ là một tác phẩm quan trọng, bao gồm các tư tưởng về đạo đức, chính trị, văn hóa, giáo dục, nghệ thuật và mỹ học Hai bộ sách "Ngoại Vương Túc" và "Chu Sinh Liệt" cũng mang tính chất thuyết minh Hà Anh thời Ngụy đã tập hợp các tác phẩm này lại, tạo nên nội dung phong phú của Luận ngữ, vẫn được lưu hành cho đến ngày nay.

Luận ngữ, với giá trị tư tưởng vượt thời gian, vẫn là nguồn cảm hứng cho con người trong việc khôi phục trật tự xã hội, học vấn và rèn luyện kỹ năng sống Tình cảm tôn kính dành cho Luận ngữ thể hiện sự trân trọng đối với những giáo huấn của Khổng Tử, người nhấn mạnh rằng sống vì nhân loại và nỗ lực vì con người là trách nhiệm cá nhân không thể né tránh.

Luận ngữ gồm 20 thiên, trong đó thiên X (Hương Đảng) ghi chép về lối sống và cách cư xử hàng ngày của Khổng Tử tại triều đình, làng xóm và ở nhà, tương đối nhất trí 19 thiên còn lại không tập trung vào một chủ đề cụ thể nào, mà đề cập đến nhiều khía cạnh như con người, lễ, hiếu, việc học, hành vi của Khổng Tử, tâm sự của ông và ý chí của môn sinh Nhiều thiên còn xen kẽ các bài về ngôn hành của môn sinh, do đó, người xưa đã phải lấy vài chữ đầu ở mỗi thiên làm nhan đề như Học Nhi, Ung Dã, Tử Hãn…

Thiên I Học Nhi : Thiên II Vi Chính : Đề tài: “Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong “Luận ngữ” Ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay”

*************************************************************** Thiên III Bát Dật : Thiên IV Lí Nhân :

Thiên V Công dã tràng : Thiên VI Ung Dã :

Thiên VII Thuật Nhi : Thiên VIII Thái Bá :

Thiên IX Tử Hãn : Thiên X Hương Đảng : Thiên XI Tiên Tiến : Thiên XII Nhan Uyên :

Thiên XIII Tử Lộ : Thiên XIV Hiến Vấn :

Thiên XV Vệ Linh Công : Thiên XVI Quý Thị :

Thiên XVII Dương Hoá : Thiên XVIII Vi Tử :

Thiên XIX Tử Trương : Thiên XX Nghiêu Viết :

Tuy không có sự đồng nhất về các thiên nhƣng về nội dung cơ bản của các bản Luận ngữ đề cập đến những vấn đề sau:

*/ Quan điểm về thiên mệnh ( đạo đức )

*/ Quan điểm về luân lý đạo đức và nhận thức ( Nhân – Lễ – Hiếu – Dũng – Tín – Tu thân – Nhạc – Trí – Việc học )

Trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá quan điểm giáo dục của Khổng Tử được trình bày trong tác phẩm “Luận ngữ”, đặc biệt là học thuyết về chính trị xã hội, phân biệt giữa quân tử và tiểu nhân Những tư tưởng này không chỉ phản ánh giá trị đạo đức mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với công tác giáo dục hiện nay, nhấn mạnh vai trò của việc rèn luyện nhân cách và phát triển trí tuệ trong quá trình giáo dục Việc áp dụng những nguyên tắc này trong giáo dục hiện đại có thể giúp hình thành những thế hệ có trách nhiệm và phẩm hạnh.

Luận ngữ chứa đựng những câu nói đơn giản nhưng sâu sắc, phù hợp với nhận thức của con người Tác phẩm này đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục nhân cách, vì những người có nhân cách tốt sẽ góp phần xây dựng đất nước vững mạnh hơn Đề tài "Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong 'Luận ngữ' và ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay" mang lại cái nhìn sâu sắc về vai trò của giáo dục trong việc phát triển con người và xã hội.

Những quan điểm cơ bản về giáo dục của Khổng Tử

Một số phạm trù đạo đức trong Luận ngữ

Trung Quốc là nơi khởi nguồn của nền triết học phương Đông, với những quan điểm đạo đức quan trọng được kế thừa qua các thời kỳ lịch sử Khổng Tử là nhân vật tiêu biểu trong lĩnh vực này, khi ông đề ra các giáo lý và giá trị tinh thần thông qua các phạm trù đạo đức như nhân nghĩa, lễ nhạc, hiếu đễ, ngôn hành và tri hành Những phạm trù này không chỉ được Khổng Tử quy định chặt chẽ mà còn là cốt lõi của tư tưởng triết học Nho giáo, ảnh hưởng sâu sắc đến suy nghĩ và hành động của con người.

Khổng Tử coi nhân là cốt lõi của đạo đức và là nền tảng vững chắc cho cuộc sống Ông cho rằng nhân và thánh có mối liên hệ chặt chẽ, khi đã đạt đến trình độ thánh thì cũng đồng nghĩa với việc thực hành nhân Việc trở thành thánh khó khăn như thế nào thì việc thực sự trở thành nhân cũng tương tự như vậy.

Trong Luận ngữ, Khổng Tử và các học trò coi "nhân" là tiêu chuẩn cao nhất trong đạo lý làm người, nhấn mạnh rằng mọi hành động của con người đều phải dựa vào nhân Nhân được hiểu là yêu người và yêu bản thân, và người đạt đến đạo Nhân là người có đạo đức tốt Phương pháp thực hành nhân được khái quát thành hai chữ.

Khổng Tử, qua tác phẩm "Luận ngữ", nhấn mạnh tầm quan trọng của "trung" và "thứ" trong giáo dục, phản ánh đạo đức và nhân cách con người Quan điểm giáo dục của ông không chỉ đề cao tri thức mà còn khuyến khích sự phát triển nhân văn, nhấn mạnh vai trò của đạo đức trong cuộc sống Ý nghĩa của những tư tưởng này vẫn còn nguyên giá trị trong công tác giáo dục hiện nay, khi mà việc hình thành nhân cách và đạo đức cho thế hệ trẻ ngày càng trở nên cần thiết.

Đối với mình, điều quan trọng là không nên ép buộc người khác làm những điều mà bản thân không mong muốn Con người cần sống theo đạo Nhân, tức là không nên đối xử với người khác theo cách mà mình không muốn nhận Theo Khổng Tử, một người có đức nhân cần sở hữu năm đức tính tốt đẹp: khiêm nhường, khoan hậu, chân thành, nhạy bén và biết ơn Khiêm nhường và cung kính giúp không bị lừa dối; khoan hậu tạo được lòng tin từ mọi người; chân thành dễ được sử dụng; nhạy bén giúp đạt được thành công; và biết ơn là cách để chế ngự người khác.

Khổng Tử nhấn mạnh rằng bậc quân tử nếu giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ và bà con sẽ khiến dân chúng cảm động và phát triển lòng nhân ái Tuy nhiên, ông cũng nhận thấy rằng nhân dân không hứng thú và không thể thực hiện những giá trị nhân mà ông đề xướng Điều này dẫn đến sự than thở của ông về việc quân tử không có lòng nhân, phản ánh rõ ràng tính giai cấp trong tư tưởng của Khổng Tử.

Khổng Tử đã đề xuất khẩu hiệu “ái nhân”, nhấn mạnh rằng yêu thương con người xuất phát từ lòng nhân ái Chỉ khi có nhân, con người mới có khả năng thương yêu lẫn nhau và đối xử tốt với mọi vật xung quanh Lòng nhân ái được phát triển từ sự tự giác, không bị ép buộc, giúp con người sống hòa hợp như anh em trong một gia đình, coi mọi sự vật trong vũ trụ như một thể thống nhất.

4 Luận ngũ: Vệ Linh Công 23

7 luận ngữ: Hiến vấn 7 Đề tài: “Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong “Luận ngữ” Ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay”

Đức nhân là tinh túy của tất cả các đức khác, thể hiện trong mọi mối quan hệ giữa người với người Trong bất kỳ mối quan hệ nào, nếu có sự sai lệch về đức riêng thì cũng đồng nghĩa với việc vi phạm đức nhân Chẳng hạn, bạn hữu thiếu đức tín, không kính trọng bề trên, không trung thực hay không cương trực đều trái với đức nhân Mối quan hệ đầu tiên của con người là với cha mẹ và anh em ruột thịt, do đó đức hiếu và đức đễ là biểu hiện cụ thể của đức nhân Bất hiếu và bất đễ được coi là những vi phạm nặng nề nhất đối với đức nhân.

“ đức nhân tức là đức người đấy” 8

Đức nhân được xem là đỉnh cao trong tháp đạo đức Nho gia, đồng thời cũng gần gũi với bản chất tự nhiên của con người Khổng Tử khẳng định rằng: “Nhân có xa xôi gì đâu, ta muốn nhân thế là nhân tới,” tức là đức nhân tồn tại trong lòng mỗi người, chỉ cần chúng ta nghĩ đến nó thì sẽ gần gũi hơn Ngược lại, nếu không nghĩ đến đức nhân, thì gần gũi với nó cũng không có ý nghĩa gì.

Theo Khổng Tử, hành động đúng đắn cần được thực hiện mà không tính toán lợi ích cá nhân hay lo lắng về hậu quả Những gì được nói và làm khi cảm thấy thanh thản, thoải mái và hứng thú trong lương tâm chính là những hành động đúng đắn.

8 Đề tài: “Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong “Luận ngữ” Ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay”

Việc nghĩa là những điều nên nói và làm, nếu không thực hiện sẽ gây bứt rứt trong lương tâm Điều này thể hiện rõ ràng qua câu nói "kiến nghĩa bất vi, vô dũng giã", tức là thấy việc nghĩa mà không hành động thì không phải là dũng cảm Khổng Tử nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện nghĩa vụ, và ông đã dành tâm huyết để giáo dục con người về việc làm điều đúng đắn.

Khổng Tử cho rằng người quân tử coi trọng nghĩa lý hơn cả, vì chỉ có dũng cảm mà không có nghĩa lý sẽ dẫn đến hỗn loạn Kẻ tiểu nhân cũng có thể dũng cảm nhưng nếu không hợp lý thì chỉ làm việc xấu Do đó, để theo đuổi điều nghĩa, mỗi cá nhân cần rèn luyện đức hạnh và học hỏi để hiểu rõ đạo lý, tránh làm trái lương tâm.

Tử cho rằng, trong các mối quan hệ như cha con, Vua tôi và vợ chồng, con người cần sống có trách nhiệm và nghĩa vụ với nhau Điều này thể hiện rõ trong câu nói: “Quân tử chi ư thiên hạ giã, vô thích giã, vô mịch giã, nghĩa chi dữ tỷ”, nhấn mạnh rằng bậc quân tử phải có quyết tâm thực hiện nghĩa vụ của mình Khổng Tử khuyên người quân tử trong chính trị không nên áp dụng các chính sách độc đoán, mà phải tuân theo công lý và thực hiện nghĩa vụ một cách có trách nhiệm.

Vậy mọi đức khác của con người đều do nhân nghĩa sinh ra, cũng như muôn vật trên trời dưới đất đều do Âm dương, Nhu cương mà ra

12 Luận ngữ: Lý Nhân 10 Đề tài: “Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong “Luận ngữ” Ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay”

Lễ, theo Khổng Tử, là công cụ để duy trì đẳng cấp xã hội và tôn ti, với quan điểm rằng “Một ngày biết nén mình theo lễ thì thiên hạ quy về nhân.” Lễ có hai khía cạnh chính: tổ chức xã hội thể hiện qua nghi lễ và quy chế, được coi là lễ giáo phong kiến, và khía cạnh đạo đức, thể hiện qua thái độ và nếp sống tôn trọng lễ nghi Khổng Tử nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa Lễ và Nhân, trong đó Nhân là nội dung, còn Lễ là hình thức biểu hiện Ông khuyên mọi người không nên vi phạm các quy định lễ nghi, bởi ai làm trái sẽ không có đạo đức.

Lễ là những quy tắc ứng xử mà Khổng Tử yêu cầu con người tuân thủ, nhằm ràng buộc và kết nối mọi người lại với nhau Dựa trên tâm lý học, ông đề xuất các biện pháp giáo dục hiệu quả về lễ, sử dụng ngôn ngữ và hành động để thể hiện tầm quan trọng của lễ nghĩa Khổng Tử nhấn mạnh rằng lễ tạo ra một không khí tôn trọng, khuyến khích mọi người hành động đúng đắn mà không cần nhận thức rõ ràng Ông khuyên mọi người nên điều chỉnh hành vi của mình bằng lễ, để luôn phù hợp với đạo trung, và nhắc nhở rằng “cung nhi vô lễ, tắc lao; thận nhi vô lễ.”

14 Đề tài: “Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong “Luận ngữ” Ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay”

Kết luận

*/ Mục lục Đề tài: “Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong “Luận ngữ” Ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay”

CHƯƠNG I: SƠ LƯỢC VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM:

I THỜI ĐẠI XUÂN THU VÀ KHỔNG TỬ:

1 TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI THỜI XUÂN THU:

Nhà Chu, một triều đại thống trị vùng Hoa Hạ, được coi là lãnh đạo toàn bộ thiên hạ và đã chia đất nước thành hàng trăm nước nhỏ, phong cho các công thần và con cháu làm chư hầu.

Trong thời kỳ Ân - Chu, các nước chư hầu tuy được tự chủ nhưng hàng năm vẫn phải triều cống thiên tử và tuân theo mệnh lệnh khi có chiến tranh Trung Quốc thời bấy giờ chủ yếu nằm trong khu vực sông Hoàng Hà, bao gồm khoảng 5 - 6 tỉnh phía Bắc hiện nay Khi nhà Chu thịnh vượng, trật tự xã hội được duy trì, nhưng khi nhà Chu suy yếu, mệnh lệnh của thiên tử không còn ai tuân theo, dẫn đến chiến tranh liên miên và loạn lạc Các chư hầu mạnh mẽ tranh giành quyền lực và đất đai, coi thường mệnh lệnh của vua Chu, gây ra tình trạng xung đột và chinh phạt lẫn nhau Điều này cho thấy xã hội Hoa Hạ thời kỳ này vô cùng hỗn loạn, với sự chuyển giao giữa mô hình quân chủ và các chế độ khác vào cuối thời Chu.

Hoa Hạ là nền văn minh nông nghiệp lúa nước, phát triển vào thời kỳ Xuân Thu với sự xuất hiện của đồ sắt Người dân đã áp dụng các phương pháp canh tác tiên tiến như sử dụng phân bón, canh tác hai vụ và xây dựng hệ thống kênh mương để quản lý nước Sự phát triển này dẫn đến sự giàu có của một số địa chủ và sự xuất hiện của tầng lớp thương nhân Với nhu cầu học hỏi gia tăng, Khổng Tử đã mở trường học tư đầu tiên Trong thời kỳ này, một số nhân vật nổi bật như Bách Lí Hề, Quản Trọng, Ninh Thích, cùng với các môn sinh của Khổng Tử như Tử Cống, Tử Lộ, Nhiễm Cầu đã đạt được địa vị cao trong xã hội.

Thời kỳ Chu không chỉ nổi bật với thể chế và lễ nghi mà còn có sự cải tiến đáng kể trong chữ viết Họ đã sử dụng thẻ tre thay cho mai rùa và xương thú vật, giúp việc ghi chép trở nên thuận tiện hơn Việc khắc chữ trên thẻ tre dễ dàng hơn và có thể sắp xếp gọn gàng Ngoài ra, họ còn phát minh ra cách dùng cây nhọn nhúng sơn để viết lên thẻ tre hoặc lụa, nhanh chóng hơn nhiều so với việc khắc Nhờ những cải tiến này, các triều đình và chư hầu thời Chu đều có quan chép sử, góp phần vào việc lưu giữ lịch sử.

Trong gần 370 năm thời Xuân Thu, các chư hầu đã trở thành lãnh chúa và “sứ quân”, trong đó có những người nổi bật thành bá Cuối thời Chiến Quốc, chỉ còn lại bảy nước: Tần, Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Sở và Tề Cuối cùng, Tần Doanh Chính đã đánh bại cả sáu nước còn lại, thống nhất đất nước và lập nên nước Tần rộng lớn, đánh dấu sự kết thúc của triều đại nhà Chu.

Trong thời kỳ Xuân Thu đầy biến động, đạo làm Vua trở nên mờ mịt, con người chỉ chăm chăm vào danh lợi, ít ai còn nhớ đến nhân nghĩa Xã hội rối ren, nhân dân chịu đựng khổ cực, kỷ cương bị suy đồi Trước tình hình đó, Khổng Tử đã đưa ra học thuyết của mình nhằm khôi phục trật tự xã hội Đề tài “Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong ‘Luận ngữ’ và ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay” sẽ giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về giá trị của nhân nghĩa và vai trò của giáo dục trong việc xây dựng xã hội văn minh.

Khổng Tử (551 – 479 TCN), tự là Trọng Ni, sinh ra tại ấp Trâu, làng Xương Bình, nước Lỗ (nay thuộc huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc) Tổ tiên của ông là Khổng Phòng Thúc, xuất thân từ dòng dõi quý tộc nước Tống, đã di cư sang nước Lỗ Cha của Khổng Tử, Thúc Lương Ngột, là quan võ tại ấp Trâu, đã có 9 người con gái với vợ trước, và sau đó có một con trai tên là Mạnh Bì với vợ lẽ Khi đã ngoài 60 tuổi, ông kết hôn với Nhan thị (Nhan Trung Tại) và sinh ra Khổng Tử, nhưng ông qua đời khi Khổng Tử mới 3 tuổi.

Năm 15 tuổi, Khổng Tử đã dốc lòng vào việc học Năm 17 tuổi, ông được đại phu nước Lỗ là Mạnh Ly Tử rất quý trọng, khen là người hiếu lễ và thông đạt Cho nên sau khi Mạnh Ly Tử mất thì con của Mạnh Ly Tử là Ý Tử và con của một ông quan đại phu nước Lỗ Trọng Tôn Cồ là Nam Cung Quát đã theo học lễ Khổng Tử Năm 19 tuổi Khổng Tử thành gia thất, sinh đƣợc người con trai đặt tên là Lý ( Bá Ngư ), Khi đó ông làm chức uỷ lại coi việc đong lường thóc ở kho, rồi làm chức lại trông nom việc chăn nuôi dê Không bao lâu, Khổng Tử rời nước Lỗ đi chu du 3 nước Tề, Tống, Vệ Nhưng không ở đâu được hoan nghênh, ông lại trở về nước Lỗ Vào năm 525 TCN, Khổng

Vào năm 516 TCN, Khổng Tử rời nước Lỗ đến Tề để tránh loạn lạc, nhưng không được vua Tề Cảnh Công trọng dụng do bị ngăn cản bởi quan đại phu Án Anh Sau khi trở về nước Lỗ, Khổng Tử từ chối làm quan dưới triều đại của Quý Hoàn Tử, người kế nhiệm cha mình, và chọn ở nhà dạy học Sự nổi tiếng của ông thu hút ngày càng nhiều học trò Đến năm 500 TCN, vua Lỗ Định Công đã phong Khổng Tử làm quan tể tại Trung Đô Bài viết sẽ tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong "Luận ngữ" và ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay.

Năm 51 tuổi, Khổng Tử được thăng chức Tư không và sau đó là Đại ti khấu, phụ trách hình pháp Với quyền lực của mình, ông đã ra lệnh xử án đại phu Thiếu Chính Mão vì tội nguỵ biện gây rối Chỉ sau 3 tháng cầm quyền, nước Lỗ trở nên thịnh trị, luật pháp không cần thi hành, trai gái sống trong khuôn khổ, và người dân không nhặt của rơi Tuy nhiên, để phá hoại sự hùng cường của nước Lỗ, vua Tề đã dùng mưu kế ly gián, gửi 80 gái đẹp đến dâng cho vua.

Vua Lỗ nghe lời đại phu Quý Tôn Tử, mê tửu sắc và ham đàn hát, dẫn đến việc chểnh mảng công việc triều đình Khổng Tử thấy vậy đã từ chức và rời khỏi nước Lỗ để chu du thiên hạ vào năm 496 TCN Ông lần lượt đi qua nước Vệ, nước Trần, và bị người Khuông vây hãm do nhầm lẫn là Dương Hổ, một kẻ tàn bạo Sau khi rời Khuông, Khổng Tử tiếp tục đến đất Bồ, rồi trở về Vệ Tiếp theo, ông sang nước Tống nhưng bị quan tư mã Hoàn Khôi mưu sát, buộc ông phải đi Trịnh Sau đó, ông quay lại Trần, rồi sang Sái và cuối cùng trở về Vệ, nhưng vua Vệ Linh Công không sử dụng ông.

Năm 484 TCN, ở tuổi 68, Khổng Tử trở về quê hương nước Lỗ sau 13 năm chu du truyền bá học thuyết mà không được vua các nước chư hầu trọng dụng Ông quyết định mở trường dạy học, biên soạn các tác phẩm như Thi, Thư, hiệu đính Lễ, Nhạc và giải thích Kinh Dịch, đồng thời viết tác phẩm Xuân Thu Khổng Tử qua đời vào tháng 4 năm 479 TCN, thọ 73 tuổi.

II TÁC PHẨM LUẬN NGỮ : Đề tài: “Tìm hiểu quan điểm giáo dục của Khổng Tử trong “Luận ngữ” Ý nghĩa của nó đối với công tác giáo dục hiện nay”

1 GHI CHÉP VÀ BIÊN SOẠN LUẬN NGỮ :

Luận ngữ là một bộ sách ghi chép những cuộc đối thoại giữa Khổng Tử và các học trò cũng như những người đương thời Sau mỗi cuộc trao đổi, các học trò đã ghi nhớ lại, và khi Khổng Tử qua đời, họ cùng với những người sưu tầm đã biên soạn lại những lời dạy của ông.

Việc ghi chép Luận ngữ ban đầu là xuất phát từ các học trò của Khổng

Sự bất tiện của công cụ viết sách trong quá khứ đã dẫn đến nhiều cuộc nói chuyện không được ghi chép lại, gây ra tranh cãi và khó xác định nguồn gốc Trong sách “Kinh điển Thích Văn”, có ý kiến cho rằng “Luận ngữ” được tuyển chọn bởi Trọng Ni và Tử Hạ Hình Bính Chú, từ thời sơ đời Tống, cũng cho rằng Trọng Ni đã đề cập đến hai chữ Tử Du.

Ngày đăng: 15/07/2021, 07:30

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Luận ngữ - Nguyễn Hiến Lê - NXB Văn hoá 1994 Khác
2. Tuyển tập triết học Trung Quốc cổ đại – Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh – NXB Trẻ Khác
3. Lịch sử triết học – NXB Giáo dục 1999 Khác
4. Đạo triết học phương Đông – Trương Lập Văn chủ biên – NXB khoa học xã hội Hà Nội – 1998 Khác
5. Đàm đạo với Khổng Tử - Hồ Văn Phi – NXB Văn học 1998 Khác
6. Triết học Trung Hoa – NXB Thế giới 1999 Khác
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX – NXB Chính trị quốc gia Khác
8. Vấn đề văn hoá và phát triển – GS.VS Hoàng Trinh. – NXB Chính trị quốc gia Khác
9. Suy nghĩ về văn hoá giáo dục VN – GS.TS Dương Thiệu Tống – NXB trẻ Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w