Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận
2.1.1.1 Khoáng sản, khai thác khoáng sản
Theo Luật Khoáng sản Việt Nam 2010, tại Điều 2, khoản 1, khoáng sản được định nghĩa là các khoáng vật và khoáng chất có ích, tồn tại tự nhiên dưới dạng rắn, lỏng hoặc khí, nằm trong lòng đất, trên bề mặt đất, bao gồm cả các khoáng vật và khoáng chất ở bãi thải của mỏ.
Theo Luật Khoáng sản Việt Nam (2010), khai thác khoáng sản được định nghĩa là hoạt động thu hồi khoáng sản, bao gồm các công đoạn như xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động liên quan khác.
2.1.1.2 Thuế, thuế tài nguyên khoáng sản, đối tượng chịu thuế tài nguyên khoáng sản và người nộp thuế a Thuế
Cho đến nay, khái niệm thuế vẫn chưa được thống nhất trong các sách báo kinh tế trên thế giới, với nhiều định nghĩa khác nhau tùy thuộc vào quan điểm của các nhà kinh tế Theo Mác, thuế là "cơ sở kinh tế của bộ máy Nhà nước", là phương tiện để Nhà nước thu được tiền và sản vật từ người dân nhằm phục vụ cho các chi tiêu công cộng Ăng-ghen cũng nhấn mạnh rằng "để duy trì quyền lực công cộng, cần có sự đóng góp của công dân cho Nhà nước", điều này khẳng định vai trò quan trọng của thuế trong xã hội.
Theo cuốn từ điển kinh tế của Christopher Pass và Bryan Lowes, thuế được định nghĩa là biện pháp của chính phủ nhằm đánh thuế trên thu nhập, tài sản và chi tiêu của cá nhân hoặc doanh nghiệp Thuế có thể được chia thành hai loại: thuế trực thu, áp dụng cho thu nhập và tài sản, và thuế gián thu, áp dụng cho chi tiêu về hàng hóa và dịch vụ.
Thuế được định nghĩa là khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền hoặc hàng hóa, dịch vụ từ các công ty và hộ gia đình cho chính phủ, mà không có sự đổi chác trực tiếp về hàng hóa, dịch vụ nào Đây không phải là khoản tiền phạt do vi phạm pháp luật mà là một nghĩa vụ tài chính cần thực hiện.
Thuế, theo định nghĩa cổ điển của nhà kinh tế học Gaston Jèze, là khoản trích nộp bằng tiền không hoàn trả trực tiếp mà công dân đóng góp cho nhà nước để bù đắp chi tiêu của Nhà nước Tại Việt Nam, chưa có khái niệm thống nhất về thuế, nhưng có thể hiểu rằng thuế đóng vai trò trong việc phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, tạo ra quỹ tiền tệ cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước Theo góc độ người nộp thuế, thuế là khoản đóng góp bắt buộc mà tổ chức, cá nhân phải thực hiện theo quy định của pháp luật Từ khía cạnh kinh tế học, thuế là công cụ để Nhà nước chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội Theo từ điển tiếng Việt, thuế là khoản tiền hoặc hiện vật mà cá nhân hoặc tổ chức kinh doanh phải nộp cho nhà nước dựa trên tài sản, thu nhập và nghề nghiệp của họ.
Dựa vào các định nghĩa đã nêu, thuế có thể được hiểu là khoản nộp tiền mà cá nhân và tổ chức phải thực hiện theo quy định của pháp luật đối với Nhà nước Khoản thuế này không mang tính chất đối khoản và không được hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế, mà được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu công cộng Trong đó, thuế tài nguyên khoáng sản là một phần quan trọng trong hệ thống thuế, đóng góp vào ngân sách Nhà nước.
Tài nguyên thiên nhiên là tài sản quốc gia, thuộc quyền sở hữu và quản lý của Nhà nước Đối với các quốc gia sở hữu nguồn tài nguyên phong phú, việc quản lý và khai thác hiệu quả sẽ mang lại lợi ích lâu dài cho sự phát triển Ngược lại, quản lý kém và lãng phí tài nguyên có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho kinh tế và môi trường Để bảo vệ và sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả, các quốc gia áp dụng nhiều biện pháp quản lý khác nhau, trong đó thuế tài nguyên là công cụ quan trọng giúp Nhà nước kiểm soát hoạt động khai thác, tăng thu ngân sách, và định hướng sử dụng tài nguyên bền vững.
Thuế TNKS là một loại thuế gián thu áp dụng cho hoạt động khai thác tài nguyên của tổ chức và cá nhân Mục tiêu của thuế này là khuyến khích việc sử dụng tài nguyên một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả Điều này không chỉ góp phần bảo vệ tài nguyên quốc gia mà còn đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhằm phục vụ cho các hoạt động bảo vệ, tái tạo, tìm kiếm và thăm dò tài nguyên.
Thuế tài nguyên khoáng sản (TNKS) là loại thuế gián thu, được tính vào giá sản phẩm tài nguyên và thực chất do người tiêu dùng chi trả, trong khi người khai thác chỉ là người nộp thuế hộ Về mặt sở hữu, thuế này phản ánh mối quan hệ giữa Nhà nước và các tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên, tương tự như việc các tổ chức, cá nhân trả tiền để mua tài nguyên từ nước ngoài phục vụ sản xuất và kinh doanh Đối tượng chịu thuế TNKS bao gồm các tổ chức và cá nhân khai thác tài nguyên.
Đối tượng chịu thuế tài nguyên theo Điều 2 của Thông tư 152/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015 của Bộ Tài chính bao gồm các tài nguyên thiên nhiên nằm trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Khoáng sản không kim loại,
Sản phẩm từ rừng tự nhiên bao gồm các loại thực vật và sản phẩm khác, ngoại trừ động vật và các loại gia vị như hồi, quế, sa nhân, thảo quả, được trồng bởi nông dân tại khu vực rừng tự nhiên đã được giao khoanh nuôi và bảo vệ.
- Hải sản tự nhiên, gồm động vật và thực vật biển,
Nước thiên nhiên bao gồm nước mặt và nước dưới đất, ngoại trừ nước sử dụng cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp và nước biển dùng để làm mát máy.
Yến sào thiên nhiên là sản phẩm thu được từ tổ yến do chim yến tự nhiên làm ra, không bao gồm yến sào được thu hoạch từ các tổ chức hay cá nhân có hoạt động đầu tư xây dựng nhà để dụ chim yến về nuôi và khai thác.
Người nộp thuế tài nguyên khoáng sản (TNKS) được quy định tại Điều 3, Thông tư 152/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015 của Bộ Tài chính, bao gồm các tổ chức và cá nhân khai thác TNKS thuộc đối tượng chịu thuế TNKS.
2.1.1.4 Quản lý thuế và cơ quan quản lý thuế a Quản lý thuế
Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Thực tiễn về công tác quản lý thu thuế tài nguyên đối với hoạt động khai thác khoáng sản của một số nước trên thế giới
Trong Luật khai khoáng số 289, ngày 20/12/1950 được sửa đổi năm 1962 của
Nhật Bản không có quy định riêng về quyền sở hữu tài nguyên khoáng sản, tuy nhiên, theo Điều 2 của Luật Khai khoáng, Nhà nước có quyền cấp phép khai thác và quyền sở hữu khoáng sản chưa khai thác Điều này có nghĩa là nếu mỏ khoáng sản chưa được cấp phép, nó vẫn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước Theo Điều 7, không tổ chức nào được phép khai thác hoặc thu gom khoáng sản mà không có giấy phép, ngoại trừ một số loại khoáng sản nhất định phục vụ cho nhu cầu gia đình Điều 8 quy định rằng chủ giấy phép khai thác có quyền sở hữu khoáng sản đã khai thác trong khu vực được cấp phép Điều 9 nêu rõ rằng quyền lợi và nghĩa vụ của chủ sở hữu giấy phép sẽ được chuyển nhượng khi giấy phép hoặc hợp đồng khai thác được chuyển nhượng Điều 12 khẳng định rằng quyền khai thác mỏ được coi là quyền thực sự và áp dụng theo quy định liên quan đến bất động sản Cuối cùng, Điều 17 quy định rằng chỉ công dân và công ty Nhật mới được sở hữu quyền khai thác mỏ, trừ khi có hiệp ước khác Thời hạn giấy phép thăm dò là 2 năm kể từ ngày đăng ký.
Trong Luật Khai khoáng của Hàn Quốc, tương tự như Luật Khai khoáng của Nhật Bản, không có quy định cụ thể về quyền sở hữu khoáng sản Tuy nhiên, Điều 2 xác định rằng Nhà nước có quyền cấp phép khai thác và quyền chiếm hữu khoáng sản chưa được khai thác Theo Điều 6, các cá nhân và pháp nhân nước ngoài, cũng như các pháp nhân thành lập theo pháp luật Hàn Quốc với hơn một nửa vốn hoặc phần lớn quyền biểu quyết thuộc về nước ngoài, sẽ không được cấp quyền khai thác trừ khi có đề nghị chính thức.
Bộ trưởng Bộ Thương mại, Công nghiệp và Tài nguyên đã nhận được sự chấp thuận từ Hội đồng Quốc gia Theo Điều 7, khoáng sản chưa khai thác không được phép khai thác nếu chưa thiết lập quyền khai thác Điều 14 quy định rằng thời hạn của giấy phép khai thác không vượt quá 25 năm, và người nắm giữ quyền khai thác có thể gia hạn thời hạn này với sự phê duyệt của Bộ trưởng trước khi hết hạn, theo các điều kiện được quy định bởi Sắc lệnh Tổng thống Sự gia hạn này không được kéo dài quá 25 năm (Trần Bá Khang, 2015).
Thuế tài nguyên được tính dựa trên giá trị tuyệt đối của sản lượng khai thác, với số thuế phải nộp được xác định bằng cách nhân số thuế tuyệt đối với sản lượng tài nguyên khai thác Mức thuế cụ thể sẽ được áp dụng tùy thuộc vào loại tài nguyên và sản lượng khai thác thực tế.
Bảng 2.3 Mức thu các loại tài nguyên khoáng sản tại Trung Quốc
Theo Bộ Tài chính (2009), cách đánh thuế tuyệt đối trên sản lượng tài nguyên khai thác đảm bảo tính đơn giản, dễ thực hiện và tạo sự bình đẳng trong việc khai thác tài nguyên Phương pháp này tương tự với mức thu phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản và thu tiền sử dụng nước tại Việt Nam, đều áp dụng mức thu tuyệt đối dựa trên sản lượng tài nguyên.
Trung Quốc đã ban hành Luật thuế tài nguyên (TN) áp dụng cho dầu thô và khí thiên nhiên sản xuất trong nước, với mức thuế từ 5% đến 10% trên doanh thu bán sản phẩm Hiện tại, Bộ Tài chính Trung Quốc đang áp dụng mức thuế 5% cho cả dầu thô và khí thiên nhiên Phương pháp thu thuế này tương tự như Việt Nam, khi đánh thuế dựa trên giá bán sản phẩm tài nguyên.
2.2.2 Thực tiễn quản lý thu thuế tài nguyên đối với hoạt động khai thác khoáng sản tại một số địa phương ở Việt Nam
2.2.2.1 Tại Cục thuế tỉnh Lào Cai
Lào Cai là một trong các tỉnh giàu tài nguyên khoáng sản trên cả nước với
Tỉnh Lào Cai sở hữu 150 mỏ và điểm mỏ, khai thác trên 30 loại khoáng sản, trong đó có nhiều mỏ quy mô lớn như mỏ A Pa Tit Cam Đường với trữ lượng 2,5 tỷ tấn, mỏ sắt Quý Sa 124 triệu tấn, và mỏ đồng Sin Quyền 53 triệu tấn Ngành công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản trở thành mũi nhọn, đóng góp lớn vào ngân sách tỉnh qua thu thuế tài nguyên Nhằm quản lý hiệu quả thuế tài nguyên, Cục Thuế tỉnh Lào Cai thực hiện đúng quy định pháp luật và áp dụng các biện pháp quản lý chặt chẽ đối với các đơn vị khai thác trên địa bàn.
Cục Thuế tỉnh Lào Cai quản lý các Tập đoàn và Tổng công ty lớn trong nước đầu tư vào lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản Tổng công ty hoá chất Việt Nam là đơn vị lớn nhất, đầu tư vào khai thác và chế biến quặng Apatít, trong khi Tổng công ty khoáng sản Việt Nam thực hiện dự án khai thác tinh quặng đồng và Tổng công ty thép Việt Nam đầu tư vào khai thác tinh quặng sắt Mặc dù các doanh nghiệp này đặt nhà máy tại Lào Cai, sản phẩm của họ không được tiêu thụ tại địa phương mà được bán cho tổng công ty theo giá nội bộ, thường bằng hoặc thấp hơn chi phí sản xuất của các công ty con.
Kể từ khi các công ty con thuộc các tổng công ty khai thác khoáng sản bắt đầu hoạt động, Cục Thuế tỉnh Lào Cai đã phát hiện hiện tượng chuyển giá nội bộ Theo quy định, giá tính thuế tài nguyên phải dựa trên giá bán tại nơi khai thác, nhưng các tổng công ty lại định giá bán sản phẩm cho các đơn vị trực thuộc theo giá nội bộ Hệ quả là các đơn vị này kê khai thuế tài nguyên theo giá bán cho tổng công ty, rồi thực hiện xuất khẩu sang Trung Quốc qua cửa khẩu Lào Cai Tuy nhiên, thực tế hàng hóa không được chuyển về tổng công ty để chế biến, mà vẫn do các đơn vị phụ thuộc vận chuyển trực tiếp sang cửa khẩu Trung Quốc.
Công ty mỏ tuyển đồng Sinh Quyền đã cho thấy giá xuất khẩu chênh lệch 7.018.276 đồng/tấn so với giá bán nội bộ, trong khi giá xuất khẩu quặng sắt của Tổng công ty thép Việt Nam cũng chênh lệch 290.000 đồng/tấn so với giá bán của Công ty khoáng sản luyện kim Việt Trung Để đối phó với tình trạng này, Cục Thuế Lào Cai đã phối hợp với Sở Tài chính đề xuất UBND tỉnh điều chỉnh giá tính thuế tài nguyên, dẫn đến 8 quyết định điều chỉnh từ năm 2006 Từ năm 2010, Thông tư số 66/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính đã cung cấp công cụ cho Cục Thuế trong việc kiểm soát gian lận chuyển giá, mặc dù cơ chế hiện tại vẫn chưa thể bao quát hết các phức tạp do chuyển giá gây ra.
2.2.2.2 Tại Cục thuế tỉnh Bắc Giang
* Về phân cấp quản lý thuế
Việc phân cấp quản lý thuế, đặc biệt là thuế thu nhập, là cần thiết và thường dựa vào đối tượng quản lý, quy mô, ngành nghề kinh doanh, đặc điểm của doanh nghiệp, độ phức tạp trong quản lý, cùng với cơ sở vật chất và nhân lực của cơ quan thuế Mỗi đối tượng chỉ chịu sự quản lý của một cơ quan thuế, giúp giảm thiểu phiền hà cho người nộp thuế khi chỉ cần liên hệ với một cơ quan duy nhất Phân cấp quản lý này cũng giúp cơ quan thuế chủ động hơn trong việc theo dõi tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc theo dõi thường xuyên và liên tục hoạt động kinh doanh cũng như sản lượng khai thác tài nguyên là rất quan trọng để đảm bảo nguồn thu ổn định từ thuế tài nguyên Điều này không chỉ tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi doanh nghiệp, mà còn giúp các nhà đầu tư thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước, từ đó thúc đẩy đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh.
* Về cấp phép và kê khai thuế
Tại tỉnh Bắc Giang, số doanh nghiệp khai thác được cấp giấy phép đã có sự biến động qua các năm Cụ thể, năm 2012 có 68 doanh nghiệp được cấp phép, nhưng đến năm 2013, con số này đã giảm xuống.
Tính đến nay, tỉnh Bắc Giang đã cấp phép cho 65 doanh nghiệp khai thác, trong đó có 5 doanh nghiệp bị thu hồi giấy phép do vi phạm quy chế và không đủ điều kiện khai thác Ngoài ra, 2 doanh nghiệp được cấp phép khai thác đất san lấp, và đến năm 2014, thêm 3 doanh nghiệp được cấp phép khai thác nước, đất và quặng, cùng với 2 doanh nghiệp được tái cấp phép Hoạt động khai thác chủ yếu tập trung vào đất, nước và sỏi, tuy nhiên, nhu cầu tài nguyên khoáng sản ngày càng tăng cao đã tạo áp lực cho ngành khai thác và sản xuất khoáng sản Điều này dẫn đến việc quản lý hoạt động khai thác khoáng sản chưa kịp thời, gây ra tình trạng khai thác lậu, bừa bãi và lãng phí nhiều loại vật liệu như đá xây dựng, cát, đất san lấp và đất sét.
Tại tỉnh Bắc Giang, tình trạng khai thác lậu diễn ra phổ biến hơn so với các doanh nghiệp được cấp phép, mặc dù UBND tỉnh đã chỉ đạo tăng cường quản lý để ngăn chặn hoạt động này Hiện nay, việc thu thuế tài nguyên đối với khai thác khoáng sản chỉ khả thi với các cơ sở cố định, trong khi các cá nhân khai thác cát, sỏi, đất, đá lại khó quản lý do thiếu quy hoạch và địa bàn rộng lớn Hoạt động khai thác chủ yếu diễn ra ở các vùng sâu bằng phương pháp thủ công, với địa điểm không cố định, dẫn đến việc không kê khai hoặc kê khai thiếu số lượng Các bến bãi khai thác nguyên liệu thường do chính quyền xã cho thuê và thu phí định kỳ để đóng góp cho địa phương.
Tổng quan về các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về quản lý thu thuế tài nguyên trong hoạt động khai thác khoáng sản Trong khuôn khổ nghiên cứu này, tác giả đã lựa chọn một số công trình tiêu biểu để phân tích và tổng hợp.
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Quang Tuấn (2016) tập trung vào việc tăng cường quản lý thu thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang Nghiên cứu này đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu ngân sách từ tài nguyên khoáng sản, đồng thời bảo vệ môi trường trong quá trình khai thác.
Đề tài nghiên cứu tập trung vào các giải pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường trong kinh tế xã hội tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
Đề tài đã phân tích thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý thu thuế TN và phí BVMT tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang Dựa trên đó, năm giải pháp cơ bản được đề xuất bao gồm: nâng cao năng lực cán bộ thu thuế, trang bị cơ sở vật chất cho cơ quan thuế, tăng cường tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế, nâng cao công tác kiểm tra và phối hợp tổ chức thu, cùng với việc đổi mới cơ chế và chính sách.
Bài viết đưa ra bốn kết luận chính về tầm quan trọng của thuế tài nguyên (TN) và phí bảo vệ môi trường (BVMT) trong quản lý kinh tế - xã hội (KTKS) Đầu tiên, nó nhấn mạnh các nguồn tài nguyên chủ yếu được khai thác tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang Thứ hai, bài viết chỉ ra những tồn tại và hạn chế trong công tác quản lý thu thuế tại huyện này Thứ ba, các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý thu thuế TN và phí BVMT cũng được phân tích Cuối cùng, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện công tác quản lý thu thuế TN và phí BVMT hiệu quả hơn.
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Văn Khánh (2012) tập trung vào việc đề xuất các giải pháp nhằm chống thất thu thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản tại tỉnh Ninh Bình Nghiên cứu này không chỉ phân tích tình hình thu thuế hiện tại mà còn đưa ra những biện pháp cụ thể để cải thiện hiệu quả quản lý thuế và bảo vệ môi trường trong lĩnh vực khai thác khoáng sản.
Đề tài này nghiên cứu các giải pháp hiệu quả nhằm ngăn chặn tình trạng thất thu thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản tại tỉnh Ninh Bình.
Đề tài đã phân tích thực trạng và nguyên nhân thất thu thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường tại Ninh Bình, từ đó đưa ra năm nhóm giải pháp chính Các giải pháp này bao gồm: hoàn thiện chính sách thuế, cải thiện công tác tổ chức phân cấp quản lý thu thuế, nâng cao năng lực cho cán bộ thuế, tuyên truyền và giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của người nộp thuế, cùng với việc đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ quản lý thuế.
Đề tài này đưa ra những kết luận quan trọng về thuế tài nguyên, hệ thống hóa các vấn đề cơ bản từ góc độ lý luận và thực tiễn Nó phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường đối với khai thác tài nguyên khoáng sản tại Ninh Bình Từ đó, đề xuất các kiến nghị với các cơ quan chức năng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế tại địa phương.
Luận văn Thạc sĩ của Trần Bá Khang (2014) tập trung vào việc đề xuất giải pháp nhằm chống thất thu thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản tại tỉnh Bắc Giang Nghiên cứu này phân tích tình hình thu ngân sách từ tài nguyên khoáng sản và đưa ra các biện pháp cải thiện hiệu quả quản lý thuế, góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững cho khu vực.
Đề tài này nghiên cứu các giải pháp quan trọng nhằm ngăn chặn tình trạng thất thu thuế tài nguyên và phí bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản tại tỉnh Bắc Giang.
Đề tài đã phân tích thực trạng công tác quản lý thu thuế và các yếu tố ảnh hưởng, từ đó đề xuất năm nhóm giải pháp chính nhằm chống thất thu thuế thu nhập và phí bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản tại tỉnh Bắc Giang Các giải pháp bao gồm: hoàn thiện chính sách thuế, tổ chức phân cấp quản lý thu thuế, nâng cao năng lực cho cán bộ thuế, tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm của người nộp thuế, và đầu tư trang thiết bị kỹ thuật phục vụ quản lý thuế.
Đề tài đưa ra những kết luận chính nhằm hoàn thiện chính sách thuế theo hướng đơn giản, ổn định và pháp lý cao Cần cải thiện công tác tổ chức phân cấp quản lý thu thuế để nâng cao hiệu quả quản lý Đồng thời, cần nâng cao hiệu lực của cơ quan quản lý thuế và tuyên truyền, giáo dục để nâng cao ý thức trách nhiệm của người nộp thuế Việc đầu tư vào trang thiết bị và cơ sở vật chất kỹ thuật cũng là yếu tố quan trọng để cải thiện công tác quản lý thuế tài nguyên Từ những kết luận này, đề tài đưa ra các kiến nghị với các cơ quan chức năng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế tại địa phương.
Bài học kinh nghiệm cho quản lý thu thuế tài nguyên đối với hoạt động
Công tác cấp phép và quản lý các tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên khoáng sản (TNKS) là trách nhiệm của UBND tỉnh, yêu cầu thẩm định năng lực kinh doanh, nhu cầu thị trường và trữ lượng tài nguyên để đảm bảo tính khả thi của dự án, tránh tình trạng dự án treo và mua bán mỏ UBND tỉnh cần kịp thời thông báo cho cơ quan Thuế về các đơn vị được cấp phép khai thác để quản lý hiệu quả Đối với các doanh nghiệp vi phạm pháp luật thuế, UBND tỉnh sẽ xem xét thu hồi giấy phép khai thác hoặc kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường thu hồi theo thẩm quyền.
Ngành Thuế sẽ phối hợp chặt chẽ với các sở, ban, ngành trong việc giám sát các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng và mua bán tài nguyên khoáng sản (TNKS) Đồng thời, các cơ quan sẽ công khai thông tin về các doanh nghiệp vi phạm Luật thuế, Luật khoáng sản và các quy định của UBND tỉnh qua các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí, đài phát thanh, truyền hình và cổng thông tin điện tử Ngoài ra, thông tin sẽ được thông báo đến các tổ, thôn, phố và chi bộ nơi doanh nghiệp hoạt động để đảm bảo doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chính sách thuế tài nguyên.
UBND tỉnh cần ban hành văn bản chỉ đạo các cấp chính quyền và ngành Thuế phối hợp thực thi chính sách, đồng thời gắn trách nhiệm cho từng ngành và cấp chính quyền trong việc nâng cao ý thức thực hiện chính sách Ngoài ra, UBND tỉnh cần chỉ đạo các ngành xây dựng quy chế phối hợp giữa Công an, Cục Thuế tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Công thương trong quản lý tài nguyên Quy chế này cần phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhằm phối hợp hiệu quả trong việc thực hiện chính sách thuế tài nguyên và các chính sách kinh tế - xã hội liên quan.
PHẦN 3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đặc điểm của tỉnh Hòa Bình
3.1.1.1 Về vị trí địa lý
Hoà Bình là tỉnh miền núi nằm ở vùng Tây Bắc, cách trung tâm Hà Nội 73 km và sân bay quốc tế Nội Bài 93 km Tỉnh này tiếp giáp với đồng bằng sông Hồng và có nhiều tuyến đường bộ, đường thủy kết nối với các tỉnh lân cận như Phú Thọ, Hà Nam, Ninh Bình, và Sơn La.
La, Thanh Hóa và thủ đô Hà Nội là cửa ngõ quan trọng của vùng núi Tây Bắc, với đường QL 6 chạy qua, kết nối thủ đô Hà Nội và các tỉnh miền xuôi với khu vực Tây Bắc của Tổ quốc.
Hòa Bình có tổng diện tích tự nhiên là 459.062,52 ha, chiếm 1,39% tổng diện tích cả nước Tỉnh này bao gồm 11 đơn vị hành chính cấp huyện và có vị trí địa lý thuận lợi: phía Bắc giáp Phú Thọ và Hà Nội, phía Nam giáp Ninh Bình và Thanh Hóa, và phía Đông giáp Hà Nội.
Hà Nam, phía Tây giáp Sơn La (Niên giám thống kê tỉnh Hòa Bình, 2016).
Vị trí của Hòa Bình có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế:
Giao thông đường bộ tại tỉnh Hòa Bình được kết nối qua các tuyến đường quan trọng như QL 6, nối liền Hòa Bình với Hà Nội và các tỉnh Tây Bắc, với điểm gần trung tâm Hà Nội nhất cách khoảng 40km QL 15A kết nối huyện Mai Châu với các huyện vùng cao tỉnh Thanh Hóa, trong khi QL 12B đi qua các huyện Yên Thủy, Lạc Sơn, Tân Lạc, kết nối tỉnh Ninh Bình với Tây Bắc QL 21 nối các huyện Lương Sơn, Kim Bôi, Lạc Thủy với thành phố Phủ Lý (tỉnh Hà Nam) Hệ thống giao thông hiện tại đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội giữa các huyện trong tỉnh và với các tỉnh lân cận.
Giao thông đường thuỷ tại tỉnh Hòa Bình chủ yếu được hình thành từ sông Đà, con sông lớn nhất với chiều dài 151 km, kết nối Hòa Bình với Sơn La và chảy qua Phú Thọ, Hà Nội, nơi nó giao với sông Hồng Hồ sông Đà giúp điều tiết nước, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển vận tải thuỷ Ngoài sông Đà, tỉnh còn có các sông Bưởi, sông Bôi, sông Bùi và sông Lạng, góp phần vào hệ thống giao thông đường thuỷ đa dạng.
Hòa Bình sở hữu tiềm năng du lịch to lớn nhờ vào địa hình đồi núi trùng điệp, mang đến nhiều cảnh quan hấp dẫn như hang động, rừng nhiệt đới nguyên sinh và các hoạt động du lịch mạo hiểm như leo núi, đi bộ, săn bắn, tắm suối Bên cạnh đó, du lịch vùng lòng hồ và ven hồ sông Đà cùng với du lịch làng bản cũng thu hút du khách Thị trường du lịch tại Hòa Bình khá rộng lớn, mở ra nhiều cơ hội giao lưu kinh tế và văn hóa trong nước.
Hà Nội và các tỉnh trong vùng đồng bằng Sông Hồng, cùng với vùng kinh tế trọng điểm Tây Bắc, các thành phố lớn và khu công nghiệp lớn, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và môi trường tại Việt Nam (Sở Tài nguyên và Môi trường Tỉnh Hòa Bình, 2016).
Hình 3.1 Vị trí tỉnh Hòa Bình trong vùng Tây Bắc
Hòa Bình có tiềm năng lớn về vị trí địa lý và giao thông, đóng vai trò là cửa ngõ vào khu vực Tây Bắc và là giao điểm giao thương với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ nhờ vào hệ thống đường bộ phát triển Điều này không chỉ mở rộng thị trường hàng hóa mà còn kích thích phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiệu quả Bên cạnh đó, vị trí gần thủ đô Hà Nội giúp Hòa Bình thu hút nguồn vốn đầu tư, công nghệ và lao động chất lượng cao, đồng thời hưởng lợi từ sự lan tỏa của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và đồng bằng sông Hồng.
Tỉnh Hòa Bình, nằm ở chí tuyến Bắc trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu, có khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa nóng (mưa nhiều) từ cuối tháng 4 đến cuối tháng 10 và mùa lạnh (mưa ít) từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau Địa hình chia cắt mạnh và độ cao lớn tạo ra các tiểu vùng khí hậu khác nhau Tiểu vùng núi cao, như các xã ở huyện Mai Châu và Tân Lạc, có khí hậu á nhiệt đới, mát mẻ quanh năm với nhiệt độ bình quân từ 18 - 19°C Tiểu vùng ảnh hưởng gió Lào khô hanh, nằm ở các xã vùng thấp huyện Mai Châu, thường chịu đợt gió Tây khô nóng vào tháng 5 và tháng 6 Khu vực xung quanh hồ thủy điện Hòa Bình có khí hậu mát mẻ và mưa nhiều, trong khi các tiểu vùng thấp còn lại có khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ bình quân năm từ 22 - 30°C.
11 đến tháng 3) lượng bốc hơi thường lớn hơn lượng mưa (Sở Tài nguyên và Môi trường Tỉnh Hòa Bình, 2016).
Khí hậu đặc trưng của vùng này rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp đa dạng, cho phép gieo trồng nhiều vụ trong năm và đạt năng suất cao với các loại cây trồng nhiệt đới và á nhiệt đới Tuy nhiên, điều này cũng tạo ra không ít khó khăn và cản trở cho việc khai thác tài nguyên khoáng sản hàng năm của tỉnh.
Tại trang 8, Báo cáo thuyết minh điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016-2020) của tỉnh Hòa Bình năm
Địa hình Hòa Bình nổi bật với vùng núi cao, có cấu trúc phức tạp và độ dốc lớn, kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, được chia thành hai vùng rõ rệt.
- Địa hình vùng núi cao nằm về phía Tây Bắc, chiếm 43,8% diện tích của tỉnh; độ dốc trung bình 20 - 35 o , độ cao trung bình so với mặt biển khoảng 600 -
Khu vực này có nhiều đỉnh núi cao trên 1.000 m, với đỉnh cao nhất là Phu Canh (huyện Đà Bắc) đạt 1.373 m, theo sau là đỉnh Dục Nhan (huyện Đà Bắc) cao 1.320 m và đỉnh Psi Lung (huyện Mai Châu) cao 1.287 m Địa hình nơi đây hiểm trở và việc di chuyển gặp nhiều khó khăn.
Vùng núi thấp ở phía Đông Nam chiếm 56,2% diện tích tỉnh, với địa hình bao gồm các dải núi thấp có độ dốc trung bình từ 8 - 20 độ và độ cao trung bình từ 100 - 200 m Khu vực này ít bị chia cắt và không hiểm trở như vùng núi cao.
3.1.3 Điều kiện kinh tế - xã hội
3.1.3.1 Tình hình dân số, lao động
Hòa Bình được tổ chức thành 11 huyện và thành phố, bao gồm 191 xã và
19 phường, thị trấn Dân số toàn tỉnh năm 2016 là 832.543 người.
84,2% dân số Việt Nam sinh sống ở khu vực nông thôn, cao hơn nhiều so với mức trung bình toàn quốc, cho thấy cần tập trung vào phát triển kinh tế xã hội và xóa đói giảm nghèo tại đây Với 67% dân số trong độ tuổi lao động, việc giải quyết vấn đề việc làm trở thành yêu cầu cấp bách.
Hòa Bình là một tỉnh đa dạng về sắc tộc và văn hóa với 6 dân tộc cùng chung sống, trong đó:
Dân tộc Mường chiếm 63% cư trú tập trung chủ yếu tại các huyện Tân Lạc, Lạc Sơn, Kim Bôi, Lương Sơn, Yên Thủy, Cao Phong và Kỳ Sơn.
Dân tộc Kinh chiếm hơn 28% dân số, chủ yếu sinh sống tại thành phố Hòa Bình và các huyện Lạc Sơn, Yên Thủy, Lương Sơn Dân tộc Thái chiếm 4%, tập trung chủ yếu ở huyện Mai Châu, trong khi dân tộc Tày chiếm 2,7% và cư trú chủ yếu tại huyện Đà Bắc Dân tộc Dao chiếm 1,7% và sinh sống tại Kim Bôi, Đà Bắc, Cao Phong, còn dân tộc Mông chiếm 0,6% tại hai xã Hang Kia và Pà Cò thuộc huyện Mai Châu (Niên giám Thống kê tỉnh Hòa Bình, 2016).
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2016 có 554.975 người, chiếm 67,32% dân số; trong đó lực lượng lao động có việc làm là 552.607 người, chiếm 67,04% dân số.
Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Phương pháp thu thập tài liệu
3.2.1.1 Thu thập tài liệu thứ cấp
- Các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn, văn bản chỉ đạo của các cấp về quản lý, KTKS; về thu thuế TN,
Tài liệu này cung cấp cái nhìn tổng quan về điều kiện tự nhiên, tài nguyên khoáng sản và tình hình phát triển kinh tế - xã hội tại tỉnh Hòa Bình, dựa trên số liệu từ niên giám thống kê năm 2016 Những thông tin này không chỉ phản ánh đặc điểm địa lý và tài nguyên của tỉnh mà còn nhấn mạnh sự phát triển kinh tế và xã hội, góp phần vào việc hoạch định chiến lược phát triển bền vững cho khu vực.
- Các tài liệu phản ánh số lượng tài nguyên khoáng sản đã khai thác của các
DN và của các cơ quan quản lý,
Tài liệu này phân tích thực trạng quản lý thu thuế tài nguyên đối với hoạt động kiểm tra, kiểm soát trên địa bàn tỉnh Hòa Bình Nó cũng chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả thu thuế, từ đó đưa ra những khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế trong khu vực này.
Các báo cáo và dữ liệu từ các cơ quan liên quan như Văn phòng UBND tỉnh Hòa Bình, Cục Thống kê, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài chính, Cục Thuế, Sở Kế hoạch và Đầu tư, cùng Sở Công thương cung cấp thông tin quan trọng cho việc phân tích và đánh giá tình hình kinh tế-xã hội tại địa phương.
- Các bài báo và các thông tin được đăng tải trên các trang web của các cơ quan quản lý Nhà nước.
* Phương pháp thu thập: tìm đọc, phân tích, sử dụng và trích dẫn.
3.2.1.2 Thu thập tài liệu sơ cấp
Tài liệu thu thập bao gồm thông tin và đặc điểm của các doanh nghiệp kinh tế xã hội, cùng với ý kiến của họ về chế độ chính sách và thực trạng quản lý thu thuế thu nhập của các cơ quan liên quan đối với hoạt động kinh tế xã hội.
Dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc chọn mẫu nghiên cứu, bao gồm thông tin từ phiếu điều tra các doanh nghiệp kinh tế xã hội và ý kiến của cán bộ từ cơ quan quản lý thuế Phương pháp phỏng vấn trực tiếp và sử dụng bảng câu hỏi là các công cụ chính trong quá trình thu thập dữ liệu này.
* Phương pháp thu thập: Điều tra chọn mẫu các doanh nghiệp KTKS; phỏng vấn cán bộ của cơ quan quản lý thuế Cụ thể như sau:
Trong tỉnh Hòa Bình, có 40 doanh nghiệp (DN) hoạt động khai thác khoáng sản, chiếm khoảng 22,6% tổng số DN trong lĩnh vực này Việc lựa chọn các DN này dựa trên khối lượng tài nguyên khai thác lớn, theo dữ liệu mà Cục Thuế và các Chi Cục thuế theo dõi hàng năm Cụ thể, thành phố Hòa Bình có 13 DN, huyện Đà Bắc có 13 DN, huyện Kim Bôi có 14 DN và huyện Lương Sơn có 31 DN.
Bảng 3.1 Phân bổ mẫu điều tra các doanh nghiệp có hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Hòa Bình ĐVT: Doanh nghiệp
Theo tổng hợp phiếu điều tra năm 2017, có 40 phiếu điều tra các doanh nghiệp kinh tế tư nhân tại tỉnh Hòa Bình Trong đó, Công ty TNHH chiếm tỷ lệ cao nhất với 19/40 phiếu (47,5%), tiếp theo là Công ty Cổ phần với 15/40 phiếu (37,5%) Công ty TNHH Một thành viên có 4/40 phiếu (10%), trong khi Doanh nghiệp tư nhân chỉ có 2/40 phiếu (5%) Tỷ lệ này phản ánh đúng tình hình các loại hình doanh nghiệp hiện nay trên địa bàn tỉnh.
Bảng 3.2 Thông tin chung về các doanh nghiệp được điều tra
Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra (2017)
Trong tỉnh Hòa Bình, Công ty Cổ phần nổi bật với số năm hoạt động trung bình cao hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác, trong khi các loại hình doanh nghiệp còn lại có số năm hoạt động tương đối đồng đều.
Chúng tôi sẽ chọn 20 cán bộ quản lý thu thuế TN cho bộ phận KTKS Tiêu chí lựa chọn là cán bộ trực tiếp tham gia quản lý, và phương pháp lựa chọn sẽ được thực hiện theo cách chọn chủ đích.
3.2.2 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
* Xử lý dữ liệu: Kết hợp xử lý số liệu thủ công với xử lý số liệu bởi các phần mềm tin học như Word, Excel.
* Phương pháp thống kê mô tả
Sử dụng các phương pháp phân tích thống kê mô tả như số tương đối, số tuyệt đối, số trung bình, giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất để đánh giá tình hình nộp thuế của doanh nghiệp Bài viết cũng đề cập đến cơ cấu doanh nghiệp được điều tra, số năm hoạt động trung bình của các doanh nghiệp, cùng với năng lực của cơ quan quản lý thuế.
Để làm rõ mục tiêu nghiên cứu, tác giả áp dụng phương pháp so sánh dữ liệu thu thập qua các năm và giữa các chỉ tiêu trong cùng một năm Phương pháp này giúp nhận diện sự biến động tăng, giảm và mức độ ảnh hưởng của các chỉ tiêu đến vấn đề nghiên cứu.
* Phương pháp phân tổ thống kê
- Phân tổ các DN theo quy mô, theo mức tuân thủ pháp luật, v.v ;
- Phân tổ cán bộ quản lý theo trình độ, lứa tuổi, giới tính, v.v để đánh giá năng lực và khả năng hoàn thành nhiệm vụ.
Phương pháp tổng hợp tài liệu được áp dụng bằng cách thu thập và tổng hợp toàn bộ dữ liệu thành bảng thống kê, sử dụng biểu đồ so sánh để phân tích thực trạng thu thuế tài nguyên đối với hoạt động kinh tế xã hội tại tỉnh Hòa Bình.
3.2.3 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
Chỉ tiêu đánh giá hoạt động chung phản ánh loại hình và quy mô doanh nghiệp, cũng như số năm hoạt động của doanh nghiệp Nó còn xem xét số lượng cán bộ quản lý thuế tại Cục Thuế và các Chi cục Thuế, đồng thời đánh giá năng lực, trình độ của cán bộ thuế Cuối cùng, sự hài lòng của doanh nghiệp về cán bộ làm công tác thuế cũng là một yếu tố quan trọng trong chỉ tiêu này.
Chỉ tiêu đánh giá việc áp dụng chính sách thuế tài nguyên bao gồm ý thức tuân thủ pháp luật thuế của doanh nghiệp và sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan trong công tác quản lý thu thuế.
- Chỉ tiêu đánh giá công tác tuyên truyền, hỗ trợ, kê khai và kế toán thuế:
Số lượt tuyên truyền qua thông tin đại chúng và cung cấp tài liệu, tờ rơi, ấn phẩm từ ngành Thuế, cùng với số lượt tiếp nhận và giải quyết hồ sơ của người nộp thuế (NNT), cho thấy sự nỗ lực trong việc nâng cao nhận thức về chính sách thuế Số lượt tập huấn chính sách thuế và số lượt trả lời vướng mắc của NNT cũng phản ánh sự hỗ trợ tích cực từ cơ quan thuế Ngoài ra, số doanh nghiệp có hoạt động khai thác tài nguyên qua các năm và số thuế tài nguyên nộp ngân sách nhà nước (NSNN) theo từng đơn vị thu cho thấy sự phát triển của ngành này Tỷ lệ thực hiện dự toán thu thuế tài nguyên trên tổng dự toán giao qua các năm, cùng với công suất khai thác tài nguyên so với sản lượng kê khai, là những chỉ số quan trọng đánh giá hiệu quả quản lý thuế Cuối cùng, số tờ khai thuế thực hiện đúng trên tổng số tờ khai qua các năm cũng chứng minh sự tuân thủ của người nộp thuế.