1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu, tuyển chọn giống hồng hoa nhập nội (carthamus tinctorius l ) thích hợp với các tỉnh miền bắc

97 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 97
Dung lượng 10,87 MB

Cấu trúc

  • PHẦN 1. MỞ ĐẦU (14)
    • 1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI (14)
    • 1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI (15)
    • 1.3. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI (15)
      • 1.3.1. Ý nghĩa khoa học (15)
      • 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn (15)
    • 1.4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI (16)
      • 1.4.1. Đối tượng nghiên cứu (16)
      • 1.4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài (16)
  • PHẦN 2. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU (17)
    • 2.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI (17)
    • 2.2. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC CỦA HỒNG HOA (18)
      • 2.2.1. Đặc điểm thực vật cây hồng hoa (18)
      • 2.2.2. Hệ thống sinh sản của hồng hoa (20)
      • 2.2.3. Phân loại hồng hoa (20)
    • 2.3. NGUỒN GỐC, PHÂN BỐ TRÊN THẾ GIỚI VÀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT HỒNG HOA (24)
    • 2.4. THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ CÔNG DỤNG (25)
    • 2.5. SÂU BỆNH HẠI VÀ CÔNG TÁC CHỌN GIỐNG CHỐNG CHỊU SÂU BỆNH (27)
    • 2.6. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHỌN TẠO GIỐNG HỒNG HOA (28)
      • 2.6.1. Nhập nội và chọn lọc dòng thuần (28)
      • 2.6.2. Lai tạo giống (29)
      • 2.6.3. Chọn giống lai (32)
    • 2.7. CÔNG TÁC BẢO TỒN, KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN HỒNG HOA TẠI VIỆT NAM (33)
  • PHẦN 3. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (35)
    • 3.1. VẬT LIỆU VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU (35)
      • 3.1.1. Vật liệu nghiên cứu (35)
      • 3.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu (35)
    • 3.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU (35)
    • 3.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (37)
      • 3.3.1. Đánh giá khả năng thích nghi của các mẫu giống hồng hoa trồng tại Hà Nội (37)
      • 3.3.2. Chọn lọc giống hồng hoa có tiềm năng năng suất, đạt chất lượng theo dược điển và thích hợp với điều kiện sinh thái miền Bắc (43)
    • 3.3. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU (44)
  • PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN (45)
    • 4.1. ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THÍCH NGHI CỦA CÁC MẪU GIỐNG HỒNG HOA TRỒNG TẠI THANH TRÌ - HÀ NỘI (45)
      • 4.1.1. Kết quả đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của các mẫu giống hồng hoa nhập nội trồng tại Thanh Trì – Hà Nội (vụ 2013-2014) (45)
      • 4.1.3. Nghiên cứu đánh giá tình hình sâu bệnh hại trên các giống hồng hoa nhập nội trồng tại Thanh Trì – Hà Nội (vụ 2013-2014) (57)
      • 4.1.4. Nghiên cứu đánh giá chất lượng dược liệu các mẫu giống hồng hoa nhập nội trồng tại Thanh Trì – Hà Nội (62)
    • 4.2. NGHIÊN CỨU CHỌN LỌC GIỐNG HỒNG HOA CÓ TIỀM NĂNG NĂNG SUẤT, ĐẠT CHẤT LƯỢNG THEO DƯỢC ĐIỂN VÀ THÍCH HỢP VỚI ĐIỀU KIỆN SINH THÁI MIỀN BẮC (69)
  • PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ (80)
    • 5.1. KẾT LUẬN (80)
    • 5.2. KIẾN NGHỊ (80)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (81)
  • PHỤ LỤC (88)

Nội dung

CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI

Di thực và nhập nội cây thuốc là cần thiết để tăng nguồn vật liệu cho nghiên cứu và sản xuất Tuy nhiên, thành công của việc di thực phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là khả năng thích nghi của cây trồng với điều kiện tự nhiên tại vùng sinh thái mới Đánh giá này dựa trên sự sinh trưởng và phát triển của cây, cùng với hàm lượng hoạt chất trong dược liệu so với tiêu chuẩn dược điển Những giống cây có khả năng sinh trưởng tốt và đạt yêu cầu dược điển cần được chọn lọc tiếp tục, trong khi giống không thích nghi hoặc không đạt tiêu chuẩn cần được loại bỏ và thay thế bằng các mẫu giống khác.

Nghiên cứu cho thấy nhập nội và chọn lọc là phương pháp hiệu quả để chọn giống hồng hoa, một loại cây trồng đã được nhập nội thành công tại Việt Nam Cây hồng hoa đã được đánh giá và cho thấy khả năng thích nghi tốt với nhiều vùng sinh thái khác nhau, đặc biệt tại Thanh Trì - Hà Nội, nơi cây sinh trưởng và phát triển tốt, mang lại năng suất và chất lượng dược liệu cao Khí hậu Hà Nội, với đặc trưng cận nhiệt đới ẩm, mùa hè nóng và mùa đông lạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho hồng hoa Theo tài liệu nghiên cứu, cây hồng hoa phù hợp với điều kiện lạnh và khô, do đó việc thí nghiệm đánh giá trong thời vụ đầu mùa đông tại Hà Nội là hợp lý.

Hồng hoa là cây giao phấn chéo, cho phép áp dụng phương pháp chọn lọc hiệu quả Để nâng cao tính thích nghi, quần thể hạt giống ban đầu cần được đánh giá và chọn lọc các cá thể có đặc điểm hình thái tốt Sau đó, hạt của những cá thể này sẽ được trộn lẫn và tiếp tục đánh giá trong các vụ mùa tiếp theo.

ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC CỦA HỒNG HOA

2.2.1 Đặc điểm thực vật cây hồng hoa

Safflower, scientifically known as Carthamus tinctorius L., is a flowering plant belonging to the Asteraceae family Commonly referred to as Rum in India and known as hồng lam hoa or thảo hồng hoa in China, this versatile plant is recognized for its vibrant blooms and various uses.

Hình 2.1 Hình thái bên ngoài của cây hồng hoa: a,b Hình thái thân; c cụm hoa hồng hoa

Hồng hoa là loại cây nhỏ, sống hàng năm, cao trung bình 0,6 –

1 m, có thể đến 1,5 m Thân đứng, nhẵn, có vạch dọc, phân cành ở ngọn, cây phân nhánh cấp 1, 2, 3

Lá cây có hình bầu dục hoặc hình trứng thuôn, không cuống, dài từ 4 đến 9 cm và rộng từ 1 đến 3 cm Gốc lá tròn ôm lấy thân cây, đầu lá nhọn sắc và mép có răng không đều với dạng gai nhọn Mặt trên của lá có màu xanh lục sẫm, trong khi gân giữa nổi bật ở mặt sau.

Cụm hoa đầu mọc ở ngọn, hình thành ngù hoa với tổng bao gồm những lá bắc ngoài có dạng lá, hình mác và mép có gai Bên cạnh đó, còn có những lá bắc nhỏ hơn có hình trứng.

Hoa có 5 - 7 gai ở đầu và các dạng sợi mỏng, trong suốt ở vòng trong cùng Hoa có màu đỏ cam, đính trên đế hoa dẹt Bao hoa hình ống dạng sợi với đỉnh có 5 thuỳ rất hẹp.

5, đính ở họng của bao hoa thành ống bao quanh nhuỵ, không có mào lông.

Quả bế có hình dạng trứng, kích thước dài từ 5 – 8 mm và rộng từ 4 - 5 mm, với đặc điểm 4 cạnh lồi ở đỉnh Thời gian ra hoa và kết quả diễn ra từ tháng 5 đến tháng 8 Hình thái bên ngoài của cây hồng hoa được minh họa trong Hình 2.1 (Đỗ Tất Lợi, 1991).

Hồng hoa chủ yếu được trồng trên đất khô để sản xuất dầu ăn và làm dược liệu trong y học cổ truyền Trong giai đoạn đầu, cây sinh trưởng chậm và tạo ra một số lá ở gốc Sau đó, thân cây phát triển nhanh chóng và phân nhánh với góc từ 30° đến 75°, tùy thuộc vào giống Khả năng phân nhánh được kiểm soát bởi gen di truyền và các yếu tố môi trường Hồng hoa có hệ thống rễ phát triển sâu tới 2-3 m, giúp cây hấp thu nước và dinh dưỡng từ lớp đất sâu hơn Thời gian nở hoa kéo dài một tháng, bắt đầu từ các nhánh chính và tiếp theo là các nhánh cấp II và III, với hoa nở từ ngoài vào trong trong khoảng 3-5 ngày Màu hoa của hồng hoa được phân chia thành bốn nhóm theo giống.

1 Hoa mầu vàng, chuyển sang màu đỏ khi khô

2 Hoa mầu vàng, chuyển sang màu vàng khi khô

3 Hoa mầu cam, chuyển sang màu đỏ sẫm khi khô

4 Hoa mầu trắng, chuyển sang màu trắng khi khô

2.2.2 Hệ thống sinh sản của hồng hoa

Hồng hoa, thuộc họ Cúc, mọc thành cụm với số lượng từ 20 đến 250 hoa, được bao bọc bởi lá bắc đế tròn Mỗi hoa có cánh hoa gắn vào ống tràng, với chiều dài 1,8-3 cm và 5 thùy cánh dài 6,5-8,5 mm Phấn hoa màu vàng, được vận chuyển chủ yếu bởi côn trùng, đặc biệt là ong mật Tỷ lệ thụ phấn chéo ở hồng hoa dao động từ 0 đến 59%, và ở các dòng bất dục đực có thể đạt tới 100% Mỗi cụm hoa kép tạo ra từ 15 đến 60 hạt, trong khi năng suất hạt của cây bất dục đực và hữu dục đực không có sự khác biệt trong điều kiện thụ phấn mở.

Chi Carthamus bao gồm 25 loài phân bố toàn cầu, trong đó chỉ có loài Carthamus tinctorius L được trồng rộng rãi và chứa 12 cặp nhiễm sắc thể Hồng hoa, hay còn gọi là Carthamus tinctorius, có số nhiễm sắc thể là 2n, điều này đã được nghiên cứu bởi nhiều tác giả như Patel và Narayana (1935), Richharia và Kotval (1940), Ashri và Knowles (1960), cũng như Kumar et al (1981).

Theo nghiên cứu của Ashri và Knowles (1960), các loài trong chi đã được phân thành bốn nhóm dựa trên bốn lớp của số nhiễm sắc thể, với số lượng nhiễm sắc thể cơ bản được xác định là 10 và 12, không phải 8 và 12 như đề xuất của Darlington và Wylie (1956).

Nhóm I (2n = 24) bao gồm các loài hàng năm như C tinctorius, C palaestinus, và C oxyacantha, có khả năng lai tạo với nhau để tạo ra cây con hữu thụ, cho thấy mối quan hệ họ hàng gần gũi và khả năng bắt cặp nhiễm sắc thể Tuy nhiên, khả năng chuyển gen tự nhiên giữa C tinctorius và các loài hoang dã như C palaestinus, C oxyacantha rất thấp do chúng được trồng ở các vùng và mùa khác nhau C oxyacantha phân bố từ phía tây bắc Ấn Độ đến Iraq, trong khi C palaestinus chỉ được trồng ở miền Nam Israel C tinctorius phổ biến ở Ấn Độ, một số khu vực của Pakistan, miền bắc và miền trung Iran, cùng với một số nơi ở Jordan, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Israel C oxyacantha được coi là tổ tiên hoang dã của hồng hoa trồng Các loài trong nhóm 1 có đặc điểm lá bắc ngoài màu xanh lá cây, hình dạng từ hình trứng đến thẳng, tràng hoa màu vàng, cam, đỏ hoặc trắng, hạt phấn hoa màu vàng, và quả có thể có hoặc không có chùm lông.

Nhóm II (2n = 20) bao gồm các loài C Alexandrinus, C syriacus và C tenuis C glaucus, tất cả đều phân bố ở phía đông biển Địa Trung Hải Các loài này có hoa màu xanh hoặc hồng, với ba loài đầu có hình thái tương tự nhau, trong khi C glaucus nổi bật với đầu hoa lớn hơn và lá bắc hình trứng Ngoài ra, nhóm này còn có C boissier Halacsy, C dentatus Vahl, C leucocaulos Sibth và Sm., C glaucus subsp anatolicus, C ambiguus Heldr, C nitidus Boiss, C rechingeri Davis, C ruber Link và C Sartori Held Nghiên cứu của Ashri và Knowles (1960) cho thấy các loài trong nhóm I và II không có mối liên hệ chặt chẽ Mặc dù có thể thực hiện lai nhân tạo giữa các loài của hai nhóm, nhưng tất cả đều bất dục, cho thấy khả năng bắt cặp của các nhiễm sắc thể rất thấp và không có trao đổi vật liệu di truyền xảy ra giữa chúng.

Nhóm III (2n D) chỉ bao gồm loài C lanatus với 22 cặp nhiễm sắc thể, hiện diện tự nhiên tại Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Morocco, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ Loài này được cho là kết quả của sự lai tạo giữa các loài thuộc nhóm I và II, dẫn đến việc bộ nhiễm sắc thể bị tăng gấp đôi Mặc dù C lanatus có khả năng bắt cặp thấp với các nhiễm sắc thể của nhóm I, nhưng lại bắt cặp tốt với các nhiễm sắc thể của nhóm II, trong đó một số loài nhóm II đã đóng góp 10 cặp nhiễm sắc thể cho C lanatus (Ashri và Knowles, 1960).

Nhóm IV (2n = 64) bao gồm hai loài: C baeticus và C turkestanicus C baeticus có 32 cặp nhiễm sắc thể tại giảm phân, cho thấy đây là thể đa dị bội với ba bộ gen khác nhau Các giống lai giữa C baeticus và C lanatus cho thấy sự bắt cặp hoàn hảo của 22 nhiễm sắc thể, chứng minh C lanatus là tổ tiên của C baeticus C glaucus, với bộ nhiễm sắc thể 2n = 20, được coi là tổ tiên của C turkestanicus C baeticus phân bố ở phía đông Địa Trung Hải, Bắc Phi và Tây Ban Nha, trong khi C turkestanicus xuất hiện ở phía tây châu Á, từ Kashmir đến Ethiopia C turkestanicus có 22 cặp nhiễm sắc thể tương đồng với C baeticus và phấn hoa màu trắng, cho thấy sự trao đổi di truyền giữa hai loài này.

Carthamus có 5 loài với 2n = 22, trong đó chỉ có C divaricatus (Beg và Vace) Pamp sở hữu 11 cặp nhiễm sắc thể, được tìm thấy hạn chế ở Libya (Knowles, 1988) Hoa của loài này có màu vàng, tím hoặc trắng, với phấn hoa màu vàng C divaricatus dễ dàng lai với các loài có 10 cặp nhiễm sắc thể, tạo ra con lai hữu dục, nhưng khi lai với C tinctorius, nó tạo ra thế hệ con cháu bất dục.

Có 6 loài Carthamus với bộ nhiễm sắc thể 2n = 24, bao gồm C arborescens và C caeruleus, đều có 12 cặp nhiễm sắc thể và hình thái khác biệt, cho phép chúng lai với bất kỳ loài nào trong chi Carthamus (Ashri và Knowles, 1960) C arborescens phân bố ở miền nam Tây Ban Nha và Bắc Phi, trong khi C caeruleus cũng xuất hiện tại bán đảo Iberia và Bắc Phi Dù cùng tồn tại quanh biển Địa Trung Hải, C arborescens có hình thái khác biệt so với C rhiphaeus Font Quer, một loài cũng có 12 cặp nhiễm sắc thể và được tìm thấy ở miền bắc Morocco (Ashri và Knowles, 1960) C nitidus Boiss, trước đây được phân loại với 10 cặp nhiễm sắc thể, đã được phân loại lại.

NGUỒN GỐC, PHÂN BỐ TRÊN THẾ GIỚI VÀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT HỒNG HOA

Hồng Hoa đã được trồng cách đây nhiều thế kỷ từ Trung Quốc đến khu vực Địa Trung Hải và dọc theo thung lũng sông Nile đến Ethiopia (Weiss,

Hồng hoa hiện nay được trồng thương mại ở nhiều quốc gia như Ấn Độ, Mỹ, Mexico, và Trung Quốc, với tổng số khoảng 53 nước tham gia sản xuất Ấn Độ dẫn đầu về diện tích trồng hồng hoa với 60 triệu ha/năm, chủ yếu phục vụ cho ngành sản xuất dầu ăn Trung Quốc cũng đóng góp đáng kể với 25 tỉnh sản xuất hồng hoa, bao gồm cả Tân Cương Các quốc gia khác như Pakistan, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ và Canada cũng có diện tích trồng hồng hoa lớn.

Hà Nam, Tứ Xuyên và Chiết Giang là những khu vực có diện tích sản xuất hoa từ 35.000 đến 40.000 ha mỗi năm, chủ yếu để làm thuốc chữa bệnh Đặc biệt, khu tự trị Tân Cương đóng góp 2/3 sản lượng hoa toàn quốc (Li et al., 1996).

Hồng hoa từng được trồng rộng rãi trên toàn cầu với diện tích và sản lượng lớn Sản lượng hạt hồng hoa toàn thế giới đã tăng lên 487.000 tấn trong năm.

Từ năm 1965 đến 1975, sản lượng hồng hoa tăng lên 1.007.000 tấn, nhưng sau đó giảm xuống còn 921.000 tấn vào năm 1985 Mexico từng là nước sản xuất hồng hoa lớn nhất thế giới cho đến những năm 1980, với diện tích 528.000 ha và sản lượng trên 600.000 tấn hạt trong năm 1979-1980, nhưng sau đó giảm đáng kể chỉ còn 10% so với thời kỳ đỉnh cao Sản xuất hồng hoa thương mại ở Mỹ bắt đầu vào những năm 1950, nhanh chóng mở rộng đến 175.000 ha chủ yếu ở California, Nebraska, Arizona và Montana Trung Quốc hiện đang trồng hồng hoa trên diện tích từ 35.000 đến 55.000 ha, với Tân Cương là vùng sản xuất chính, chiếm 80% tổng sản lượng Hiện tại, Ấn Độ là nước sản xuất hồng hoa lớn nhất, với diện tích 387.000 ha và sản lượng 154.000 tấn trong năm 2004-2005, chủ yếu tập trung ở Maharashtra và Karnataka Sản xuất hồng hoa tại Ấn Độ diễn ra chủ yếu vào mùa mưa vụ đông, với năng suất đạt từ 90 – 130 kg/ha cho dược liệu hoa và 1350 – 1940 kg cho hạt giống.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ CÔNG DỤNG

Hoa hồng hoa NARI-6 và NARI-NH-1 tại Ấn Độ chứa thành phần hóa học phong phú, với hàm lượng protein lần lượt là 10,4% và 12,86%, cùng với đường tổng số đạt 7,36% và 11,81% Ngoài ra, hoa còn cung cấp canxi (558 và 708 mg/100 g), sắt (55,1 và 42,5 mg/100 g), magiê (207 và 142 mg/100 g) và kali (3992 và 3264 mg/100 g) Tất cả các axit amin thiết yếu, ngoại trừ tryptophan, đều có mặt trong hoa Lá hồng hoa cũng rất giàu protein, carotene, riboflavin và vitamin C, thường được sử dụng làm nguyên liệu cho bánh quy và rau xanh Gần đây, hồng hoa biến đổi gen đã được phát triển nhằm sản xuất protein có giá trị cao cho dược phẩm và enzyme công nghiệp.

Cánh hoa hồng hoa, khi chuyển từ vàng sang đỏ, được thu hoạch làm thuốc trong y học cổ truyền, với tác dụng nổi bật như hoạt huyết, thông mạch, chống viêm, và điều trị các vấn đề như mất kinh hay viêm tử cung Chất chính trong hồng hoa là carthamin, và y học hiện đại đã xác nhận hồng hoa có hiệu quả trong điều trị tim mạch cho bệnh nhân cao tuổi, giúp giảm cholesterol máu và hỗ trợ hệ miễn dịch Ngoài công dụng y học, hồng hoa còn được sử dụng làm phẩm màu thực phẩm trong bánh, mayonnaise và làm phẩm nhuộm trong ngành dệt may.

Hồng hoa, một loại cây đã được trồng từ thời cổ đại, nổi bật với màu sắc rực rỡ và được sử dụng để chiết xuất thuốc nhuộm màu vàng và cam cho thực phẩm và vải Tuy nhiên, vào thế kỷ 20, nhu cầu sử dụng hồng hoa giảm do sự xuất hiện của thuốc nhuộm tổng hợp rẻ hơn như anilin Gần đây, hồng hoa lại thu hút sự chú ý trong ngành thực phẩm nhờ các quy định cấm sử dụng màu tổng hợp tại châu Âu và một số quốc gia khác Ngoài ra, hồng hoa còn được ghi nhận có tính chất dược lý, hỗ trợ điều trị một số bệnh mãn tính như tăng huyết áp, bệnh tim mạch, viêm khớp, thoái hóa đốt sống và vô sinh ở cả nam và nữ Thông tin chi tiết về ứng dụng lâm sàng của hồng hoa đã được đề cập trong các chuyên khảo liên quan.

Trung Quốc sản xuất từ 1.800-2.600 tấn hồng hoa mỗi năm để chiết xuất thuốc nhuộm và làm dược liệu (Li và Mundel, 1996; Zhaomu và Lijie, 2001) Hồng hoa không chỉ được dùng để pha trà tại Trung Quốc và Ấn Độ (Li & Yuanzhou, 1993; Singh, 2005a) mà còn có giá trị dinh dưỡng cao Tại Ấn Độ, hồng hoa được trồng từ lâu để lấy hoa làm thuốc nhuộm và hạt được dùng để sản xuất dầu ăn, với dầu hồng hoa giàu axit béo không bão hòa giúp giảm cholesterol trong máu Dầu hồng hoa tương tự như dầu ô liu, chứa nhiều axit linoleic và oleic, có tác dụng giảm cholesterol xấu mà không ảnh hưởng đến cholesterol tốt (Smith, 1996) Với tính ổn định cao ở nhiệt độ thấp, dầu hồng hoa phù hợp cho đông lạnh thực phẩm (Weiss, 1971) và được ưa chuộng trong sản xuất bơ thực vật hơn so với dầu đậu nành hoặc dầu cải (Kleingarten, 1993) Ngoài ra, dầu hồng hoa còn được sử dụng trong mỹ phẩm, đặc biệt trong sản phẩm dầu tóc 'Macassar' và Bombay.

Dầu hồng hoa, được biết đến như 'Sweet Oil', là lựa chọn phổ biến cho sơn công nghiệp nhờ vào các đặc tính vượt trội như không chứa axit linolenic, hàm lượng axit linoleic cao, giá trị màu thấp, và mức độ axit béo tự do cùng saponin thấp Những yếu tố này, cộng với việc không có sáp, giúp nâng cao chất lượng cho các loại sơn, nhựa alkyd và lớp phủ ngoài.

Hồng hoa, một loại dược liệu nổi tiếng tại Việt Nam, chủ yếu được biết đến với công dụng làm thuốc Thành phần hóa học chính trong hồng hoa bao gồm các chất màu như sắc tố hồng Carthami và sắc tố vàng Hydroxysafflor yellow A (HSFA) cùng Hydroxysafflor yellow B Ngoài ra, hồng hoa còn chứa các thành phần khác như flavonoid (Kaempferol), Serotobenin, Luteonin và các dẫn xuất của chúng, cũng như polysaccharid HSFA, một hợp chất có hoạt tính sinh học cao, đã được chứng minh có nhiều tác dụng dược lý, bao gồm chống viêm, chống dị ứng, chống ung thư và bảo vệ tim mạch.

(nguồn: http://www.chemicalbook.com)

SÂU BỆNH HẠI VÀ CÔNG TÁC CHỌN GIỐNG CHỐNG CHỊU SÂU BỆNH

Hồng hoa thường bị tấn công bởi nhiều tác nhân gây bệnh như nấm, vi khuẩn, virus và rối loạn sinh lý do stress phi sinh học Theo Patil và cộng sự (1993), có 57 tác nhân gây bệnh ảnh hưởng đến hồng hoa, trong đó nấm Alternaria carthami và Fusarium oxysporum là những tác nhân gây hại nghiêm trọng, có thể làm giảm năng suất từ 13-49% Việc trồng giống kháng bệnh là phương pháp hiệu quả nhất để kiểm soát bệnh hồng hoa Mundel và Huang (2003) đã mô tả các biện pháp canh tác và chọn giống để kiểm soát bệnh Khả năng kháng bệnh héo rũ do Fusarium oxysporum được quy định bởi gen trội duy nhất, và nghiên cứu cho thấy việc lai tạo giống kháng bệnh có thể tăng năng suất hạt giống lên đến 31% so với giống chuẩn quốc gia A-1 (Singh et al., 2003b) Giống VFR-1, phát triển từ Nebraska 4051, có khả năng kháng nhiều bệnh hại Giống hồng hoa Úc Sironaria cũng có khả năng kháng bệnh bạc lá Alternaria và thối rễ Phytophthora Các giống kháng bạc lá như Sidwill, Hartman và Oker đã được phát triển thành công tại Mỹ Gen kháng thối rễ do Phytophthora drechsleri đã được đưa vào giống Dart (Abel và Lorance, 1975), và Mundel cùng cộng sự (1985) đã báo cáo việc hợp nhất kháng bệnh Sclerotinia vào giống hồng hoa Canada Saffie.

Rệp là dịch hại phổ biến nhất của hồng hoa, có thể gây thiệt hại đến 50% năng suất Nguồn gen có khả năng chống chịu ổn định với rệp đã được xác định ở hồng hoa, với hai loài hoang dã C avescens và C lanatus được ghi nhận mang gen kháng chống ruồi (Kumar, 1993).

CÁC PHƯƠNG PHÁP CHỌN TẠO GIỐNG HỒNG HOA

Nghiên cứu về giống hồng hoa có năng suất cao và ổn định đã được thực hiện tại Ấn Độ và nhiều quốc gia khác Hầu hết các nghiên cứu tập trung vào việc nâng cao năng suất hạt giống hồng hoa Mặc dù hồng hoa là loại cây thụ phấn chéo, nhưng các phương pháp tự thụ phấn cũng được áp dụng trong quá trình chọn giống Bài viết này sẽ trình bày các phương pháp cải tiến cây trồng phổ biến nhằm nâng cao năng suất và tính ổn định của giống hồng hoa.

2.6.1 Nhập nội và chọn lọc dòng thuần

Nhập nội là phương pháp cải tiến cây trồng đơn giản và đã được áp dụng rộng rãi từ xa xưa trên toàn cầu Cây hồng hoa, được trồng tại Mỹ, Canada và Argentina, là một ví dụ điển hình cho sự thành công của việc nhập nội từ Ấn Độ, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ.

Từ đầu thế kỷ 19, việc nhập nội giống cây trồng vào khu vực chỉ diễn ra thỉnh thoảng cho sản xuất thương mại Quá trình này yêu cầu nhiều chu kỳ để cây trồng thích nghi, tiếp theo là lựa chọn và đánh giá trước khi chính thức đưa vào sản xuất Do đó, việc đánh giá khả năng thích nghi với khí hậu của các giống cây trồng nhập nội là cần thiết để xác định cây ưu tú và tiến hành các giai đoạn phát triển giống tiếp theo.

Phương pháp chọn lọc là kỹ thuật cải tiến giống hồng hoa phổ biến tại Ấn Độ, đã tạo ra 17 trong số 25 giống hồng hoa được sử dụng cho canh tác thương mại trong nước Thông qua việc chọn lọc phục tráng từ các giống địa phương, các giống hồng hoa như N-630, Nagpur-7, N-62-8, A-300, Manjira, S-144, JSF-1, K-1, CO-1, Type-65, APRR-3, Bhima, HUS-305, Sharda, JSI-7, A-2, PBNS-12 đã được phát triển Ngoài ra, một số giống cũng được phát triển tại Mỹ như Nebraska-5, Nebraska-10 (N-10) và Canada với giống Saffire (Hegde et al., 2002).

Việc chọn lọc dòng thuần từ các giống hồng hoa địa phương đã tạo ra nhiều dòng hồng hoa với những tính trạng mong muốn Hồng hoa không chỉ đa dạng về đặc điểm mà còn có tầm quan trọng kinh tế lớn Sự khác biệt rõ rệt về đặc điểm thực vật là lý do chính khiến nhiều giống hồng hoa ở Ấn Độ được phát triển thông qua phương pháp chọn dòng thuần, được xem là phương pháp hiệu quả nhất cho sự phát triển giống hồng hoa cho đến nay.

Lai tạo giống chủ yếu nhằm tạo ra các thế hệ mới với đặc điểm mong muốn từ hai hoặc nhiều giống khác nhau Quá trình này dẫn đến sự thay đổi các thuộc tính ở thế hệ F2, từ đó giúp tiếp tục chọn lọc dựa trên đặc điểm di truyền của các tính trạng khác nhau.

Việc lựa chọn cha mẹ để lai là yếu tố quyết định thành công của chương trình cải tiến cây trồng Joshi (1979) nhấn mạnh rằng việc chọn cha mẹ cần dựa trên năng suất hạt và các tính trạng mong muốn, đồng thời xem xét mức độ biểu hiện và sự đa dạng di truyền của chúng Đánh giá thế hệ con cái cùng cha mẹ là cần thiết để so sánh hiệu suất giống lai với bố mẹ Các cá thể F1 được chọn sẽ tiếp tục phát triển thành thế hệ F2, trong đó các cá thể F2 chọn lọc sẽ được trồng ở quy mô lớn để đại diện cho tổ hợp gen trong quần thể Việc trồng cây F1 và cây kiểm tra chuẩn cùng F2 giúp thu thập thông tin về tự giao phối, với tỷ lệ tự thụ thấp ở F2 Các cây F2 có đặc điểm kinh tế quan trọng sẽ được thu hoạch và hạt được lưu giữ để đánh giá thế hệ con cháu tiếp theo, trong khi thông tin về năng suất và chất lượng sẽ hỗ trợ cho các chương trình cải tiến cây trồng.

Nghiên cứu chỉ ra rằng năng suất hoa phụ thuộc vào nhiều yếu tố cấu thành, bao gồm số nhánh chính trên cây, đường kính cụm bông, số cụm bông trên cây, số hoa trên bông, chiều dài và kích thước cánh hoa, cũng như năng suất hạt giống trên cây Do đó, việc lựa chọn các đặc điểm có lợi cho những yếu tố này sẽ góp phần cải thiện năng suất hoa (Singh, 2004).

Chọn tạo giống ở hồng hoa theo tính trạng mong muốn được thực hiện bằng các phương pháp được mô tả dưới đây:

Phương pháp phả hệ Pedigree:

Phương pháp phả hệ tiêu chuẩn là kỹ thuật phổ biến nhất nhằm nâng cao năng suất hạt, hàm lượng dầu và các đặc điểm mong muốn khác ở hồng hoa Phương pháp này thường áp dụng cho các loài cây trồng có khả năng tự thụ phấn như hồng hoa.

Phương pháp chọn lọc cây trồng bắt đầu từ quần thể F2, trong đó khoảng 5-10% cây được chọn để thu hoạch và lấy hạt giống cho thế hệ F3 Thế hệ F3 sẽ được đánh giá cùng với cây đối chứng để lựa chọn những cây tiềm năng về năng suất hạt giống và các đặc điểm mong muốn Quá trình chọn lọc tiếp tục cho các thế hệ F4, F5, F6, với mỗi thế hệ phải chịu áp lực chọn lọc để cải thiện tính trạng Các loài thực vật cần tự thụ phấn để tạo ra các cá thể đồng hợp tử, và những cá thể này sẽ được trồng khảo nghiệm để đánh giá năng suất Các dòng thuần sẽ được thử nghiệm ở nhiều vùng sinh thái để xác định dòng/giống tốt nhất, đảm bảo khả năng thích ứng với điều kiện khí hậu khác nhau Các giống hồng hoa đã được phát triển qua các phương pháp phả hệ tại Ấn Độ và các quốc gia khác, với nhiều giống được công nhận cho sản xuất thương mại.

The article highlights various agricultural varieties developed over the years, including JSI-73 in 1990, NARI-6 in 2001, and Phule Kusuma in 2003, among others It also mentions significant contributions from the United States, such as Leed (1968) and Sidwill (1977), along with Mexican varieties like Sahuaripa 88 (1989) and San Jose 89 (1990) Additionally, Canadian advancements include AC Stirling (1991) and AC Sunset (1995), as referenced by Hegde et al (2002) The focus is on the large population method in agricultural development.

Phương pháp số lượng lớn trong chọn giống F2 và các thế hệ sau cho phép thu hoạch số lượng lớn để phát triển thế hệ tiếp theo, tạo ra áp lực chọn lọc mạnh mẽ nhằm nâng cao năng suất Kết quả là, các dòng có năng suất thấp bị loại bỏ qua sáu đến bảy thế hệ, dẫn đến quần thể gần như đồng hợp tử Việc chọn cây mang tính trạng mong muốn được thực hiện từ thế hệ F7 hoặc F8, với hạt được tách riêng để đánh giá trong khảo nghiệm nhân rộng Ưu điểm của phương pháp này là khả năng xử lý nhiều quần thể, mặc dù tỷ lệ thụ phấn chéo cao có thể làm giảm hiệu quả do sự hiện diện của cây dị hợp tử trong thế hệ F7.

Phương pháp hạt giống gốc duy nhất

Phương pháp phát triển giống hồng hoa đã được Fernandez-Martinez và Dominguez-Gimenez (1986) áp dụng tại Tây Ban Nha, dẫn đến sự ra đời của 5 giống hồng: Tomejil, Rancho, Merced, Alameda, và Rinconda Từ thế hệ F2 trở đi, hạt giống duy nhất được chọn ngẫu nhiên từ mỗi cây để tiếp tục phát triển cho đến F5 và F6 Đến thế hệ F7, một số lượng lớn cá thể được sử dụng để nhân rộng, và các con cháu có ưu điểm trội sẽ được khảo nghiệm nhằm đánh giá năng suất cũng như các tính trạng mong muốn khác.

Phương pháp hồi giao (back cross)

Phương pháp này đã được sử dụng thành công ở Mỹ để tạo ra giống hồng hoa US-10 (1959), , UC-1 (1966) (Knowles, 1968) và Oleic Leed (1976) (Urie et al.,

Vào năm 1979, nghiên cứu đã chuyển tính trạng quy định hàm lượng axit oleic cao vào giống cây có khả năng chống thối rễ do nấm Phytophthora drechsleri, nhằm tạo ra con cháu vừa có tính trạng chống thối rễ vừa chứa hàm lượng axit oleic cao Phương pháp này thường áp dụng cho các tính trạng được kiểm soát bởi các gen chất lượng, kết hợp từ một cá thể vào giống có khả năng thích ứng rộng rãi Quá trình thực hiện bao gồm nhiều phép lai hồi giao (backcrosses) giữa các con lai và bố mẹ, trong đó con cháu sẽ có các tính trạng mong muốn Sau sáu đến bảy thế hệ lai backcrosses, có thể tạo ra kiểu gen đồng hợp tử cho tất cả các gen kiểm soát tính trạng khác nhau Cuối cùng, hạt giống tự thụ từ các cá thể được chọn lọc từ các thế hệ hồi giao sẽ mang những đặc điểm cần thiết để tạo ra con cháu đồng hợp tử giống như cha mẹ ban đầu.

Hồng hoa có bản chất thụ phấn chéo thường xuyên, mang lại ưu thế lai cao cho hạt giống và năng suất hoa Với nhiều tính trạng thương mại quan trọng, hệ thống bất dục đực di truyền (GMS) và bất dục đực tế bào chất (CMS) giúp khai thác ưu thế lai hiệu quả Từ những năm 1970, sự tồn tại của ưu thế lai cao trong hồng hoa đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu tìm kiếm phương pháp sản xuất hạt giống lai thương mại dễ dàng Việc phát hiện tính bất dục đực và phát triển các dòng bất dục đực di truyền ở Ấn Độ đã dẫn đến sự ra đời của các giống hồng hoa lai như DSH-129 và MKH-11 vào năm 1997, cũng như các giống không có gai NARI-NH-1 năm 2001 và giống có gai NARI-H-15 năm 2005 Các giống hồng hoa lai này thường tăng 20-25% về năng suất hạt giống và sản lượng dầu so với giống đối chứng A-1, với Ấn Độ là quốc gia duy nhất phát triển giống hồng hoa lai Hệ thống GMS được sử dụng chủ yếu cho phát triển giống lai ở Ấn Độ, bao gồm các gen đơn gen lặn và gen trội.

CÔNG TÁC BẢO TỒN, KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN HỒNG HOA TẠI VIỆT NAM

Cây hồng hoa được nhập khẩu vào Việt Nam từ các nước Đông Âu và Liên Xô cũ vào cuối những năm 1970, với sự phát triển mạnh mẽ nhất tại Hà Giang Ngoài ra, cây cũng đã được thử nghiệm và trồng ở nhiều vùng khác nhau trong cả nước, từ các vùng núi cao như Sa Pa và Tam Đảo đến đồng bằng như Hà Nội và Hưng Yên Cây hồng hoa có khả năng sinh trưởng tốt, cho năng suất hoa và hạt cao Tuy nhiên, sau một thời gian dài không được chăm sóc, giống cây này đã bị thoái hóa và có nguy cơ mất giống.

Dược liệu hồng hoa hiện nay chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc và Ấn Độ cho y học cổ truyền tại Việt Nam Sự không ổn định về chất lượng và giá cả nguồn cung ảnh hưởng lớn đến nhu cầu sử dụng, đặc biệt trong sản xuất thuốc Hàng năm, Việt Nam cần khoảng 20 tấn hồng hoa để phục vụ cho các bệnh viện y học cổ truyền và cơ sở khám chữa bệnh Đông y Cụ thể, Bệnh viện Y học cổ truyền TP.HCM tiêu thụ 800 kg hồng hoa Vân Nam và 30 kg hồng hoa Tây Tạng, trong khi Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương sử dụng 500 kg (Cao Hữu Linh, 2012).

Hồng hoa được nhân giống từ hạt, chọn quả chín già từ cây khỏe để thu hoạch Hạt sau khi tách cần phơi khô và bảo quản đến tháng 12 để gieo trong vườn ươm Đất vườn ươm phải được làm nhỏ, lên luống cao 15-20 cm và rộng 70-90 cm Hạt cần ngâm trong nước nóng (1 sôi, 2 lạnh) trong 3-4 giờ, sau đó gieo theo rạch và phủ rơm rạ, tưới nước hàng ngày Sau 3-5 ngày, hạt sẽ nảy mầm Khi cây có 4-5 lá thật, nên trồng vào ngày râm mát hoặc có mưa nhỏ Hồng hoa thích hợp với đất cát pha, màu mỡ, cao ráo và thoát nước tốt Đất cần được cày bừa kỹ, lên luống cao 20-25 cm, mặt luống rộng 70-100 cm, và bón lót 15-20 tấn phân chuồng mỗi hecta, có thể rải đều hoặc bón theo hốc.

Cây con được trồng khoảng cách 30 x 40 cm trồng lệch nanh sấu 2 hàng/luống

Trồng cây với khoảng cách 70 cm và 3 hàng/luống 100 cm Sau khi trồng, cần tưới ngay trong vòng 5-7 ngày Trong thời gian từ trồng đến thu hoạch, thực hiện làm cỏ và xới đất 3-4 lần, kết hợp bón thúc đạm và vun gốc Mỗi lần bón, sử dụng 50 kg ure cho 1 ha (Đỗ Huy Bích và cs., 2003).

Sau 6-7 tháng trồng, hồng hoa bắt đầu ra hoa và cho thu hoạch, với hoa được hái khi có màu đỏ sẫm Việc thu hoạch diễn ra mỗi 2-3 ngày vào lúc trời nắng ráo, sau đó hoa được phơi trong râm mát hoặc nắng nhẹ cho đến khi khô Hồng hoa trồng tại Trạm nghiên cứu cây thuốc Sa Pa và Trung tâm nghiên cứu cây thuốc Văn Điển Hà Nội đều cho chất lượng tốt, với cây sinh trưởng và phát triển mạnh, chiều cao gần 2 m và ra nhiều hoa quả (Đỗ Huy Bích và cs., 2003).

Các nhà khoa học đã nghiên cứu và phát hiện rằng cây hồng hoa có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt tại các vùng như Hà Giang và Hà Nội, cho năng suất cao Tuy nhiên, do bị sâu bệnh tấn công, cây hồng hoa đã dần mai một, với hơn 50 loại sâu bệnh được phát hiện gây hại Kỹ thuật bảo vệ thực vật trước đây còn hạn chế, dẫn đến việc không xác định được tác nhân gây bệnh, làm giảm năng suất và khiến hồng hoa mất dần khỏi cơ cấu trồng cây dược liệu Hiện nay, nhu cầu sử dụng dược liệu hồng hoa trong nước đang tăng cao, nhưng sản xuất loại dược liệu này vẫn gặp nhiều khó khăn.

VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

VẬT LIỆU VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu sử dụng hạt giống của ba mẫu giống hồng hoa nhập nội, được ký hiệu là HH1, HH2 và HH3, với nguồn gốc và đặc điểm giống không rõ ràng.

- Mẫu bệnh (lá, thân, rễ) lấy từ cây hồng hoa

- Mẫu dược liệu hoa thu từ cây trồng trong ruộng thí nghiệm

Trong nghiên cứu này, các vật liệu quan trọng bao gồm dụng cụ thí nghiệm như thước đo và cân điện tử, cùng với nguyên liệu làm mẫu sâu hại như các dung dịch ngâm mẫu côn trùng Đối với nghiên cứu bệnh cây, cần có môi trường phân lập, làm thuần và nuôi cấy nấm Ngoài ra, các hóa chất và nguyên liệu phục vụ cho việc đánh giá chất lượng dược liệu bao gồm dung môi, hóa chất và chất chuẩn, trong đó có Hydroxysafflor yellow A và Kaempferol từ hãng TAUTO – Trung Quốc, với độ tinh khiết 97,0%.

3.1.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu

Các thí nghiệm được thực hiện tại Trung tâm Nghiên cứu Trồng và Chế biến Cây thuốc Hà Nội thuộc Viện Dược liệu, Thanh Trì – Hà Nội, cũng như tại Khoa Phân tích Tiêu chuẩn của Viện Dược liệu.

Thời gian nghiên cứu được tiến hành trong 3 vụ từ năm 2014 đến năm 2016.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Nội dung 1: Đánh giá khả năng thích nghi của các mẫu giống hồng hoa tại Thanh Trì - Hà Nội

- Đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của các giống hồng hoa trồng tại Thanh Trì – Hà Nội

- Đánh giá khả năng ra hoa, đậu quả và năng suất của các giống hồng hoa trồng tại Thanh Trì – Hà Nội

- Đánh giá tình hình sâu bệnh hại trên các giống hồng hoa trồng tại ThanhTrì

- Đánh giá chất lượng dược liệu của các giống hồng hoa trồng tại Thanh Trì – Hà Nội

Nghiên cứu chọn lọc giống hồng hoa nhằm nâng cao năng suất và chất lượng, đáp ứng tiêu chuẩn Dược điển, đồng thời phù hợp với điều kiện sinh thái miền Bắc.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.3.1 Đánh giá khả năng thích nghi của các mẫu giống hồng hoa trồng tại Hà Nội

Đánh giá tỷ lệ nảy mầm trong phòng được thực hiện bằng cách đặt mẫu hạt giống trong đĩa petri lót giấy thấm, với mỗi mẫu thử nghiệm có 5 lần nhắc lại, mỗi lần gồm 50 hạt Đĩa petri được giữ trong tủ vi khí hậu với nhiệt độ ổn định ở 25°C và độ ẩm duy trì ở mức 70% Quá trình này giúp theo dõi sự nảy mầm của hạt và tính toán tỷ lệ nảy mầm (%).

Đánh giá tỷ lệ nảy mầm của hạt giống được thực hiện trên đồng ruộng bằng cách gieo hạt trong vườn ươm dưới điều kiện mùa vụ thích hợp Mỗi mẫu hạt được gieo với 5 lần nhắc lại để đảm bảo độ chính xác trong kết quả.

100 hạt Theo dõi số hạt này mầm và tính tỷ lệ mộc mầm (%)

Thí nghiệm ngoài đồng ruộng được thực hiện với 3 mẫu giống hồng hoa, mỗi mẫu là một công thức riêng, với 5 lần nhắc lại cho mỗi mẫu Diện tích mỗi ô thí nghiệm là 20 m² Hiện tại, không có giống hồng hoa nào được sản xuất tại Việt Nam, do đó thí nghiệm không có đối chứng.

Kỹ thuật trồng, chăm sóc, thu hái dược liệu:

+ Thời vụ gieo hạt: 15/10 đến 30/10

Hạt giống sạch, không lẫn tạp được gieo trong vườn ươm trước khi trồng trên ruộng thí nghiệm Sau khi gieo, cần tưới nước thường xuyên để đảm bảo độ ẩm cho cây Cây con dễ bị sâu bệnh, vì vậy cần chú ý phòng trừ kịp thời Đất cần được cày xới, làm nhỏ và lên luống cao từ 30-35 cm, rộng 70 cm, đồng thời bón lót 15 tấn phân chuồng/ha Khoảng cách trồng nên là 30 x 40 cm.

Để đảm bảo cây sinh trưởng và phát triển tốt, cần tưới nước đầy đủ để duy trì độ ẩm Bón thúc cho cây nên được thực hiện 3 đợt: lần đầu sau 1,5 tháng trồng, lần thứ hai sau 3 tháng trồng và lần cuối khi cây bắt đầu ra hoa.

+ Xới xáo và vun gốc khi cây cao 30-35 cm Làm giàn chống đổ cho cây khi cây cao 40 – 50 cm, giàn làm theo kiểu giàn hình chữ A

Khi cánh hoa chuyển từ màu vàng sang màu đỏ, thu hoạch quả và tách phần hạt khỏi cánh hoa Dược liệu cánh hoa được phơi khô dưới nắng tự nhiên hoặc sấy ở nhiệt độ 50°C Sau đó, cánh hoa khô được bảo quản trong tủ lạnh ở 4°C cho đến khi tiến hành phân tích chất lượng Các chỉ tiêu cần theo dõi trong quá trình này rất quan trọng.

Tiến hành theo dõi định kì 15 ngày/lần, mỗi lần nhắc lại đo đếm trên 10 cây.

+ Tỷ lệ nảy mầm (%): Được tính theo công thức

+ Thời gian mọc mầm (ngày): tính từ lúc gieo đến khi có 50% hạt mọc mầm.

+ Thời gian từ gieo đến khi ra lá thật (ngày): tính từ lúc gieo đến khi có 50% cây con có 2 lá thật

+ Thời gian từ trồng đến ra hoa đầu (ngày): Tính từ lúc trồng đến khi có 50% cây ra hoa đầu tiên

+ Thời gian từ trồng đến khi bắt đầu thu hoạch (ngày): Tính từ lúc trồng đến khi thu hoạch dược liệu

+ Chiều cao cây (cm): Đo từ vị trí sát mặt đất đến đỉnh vuốt lá cao nhất

+ Số lá trung bình trên cây: lá/cây

+ Số hoa/cây (bông): Đếm tổng số hoa trên cây

+ Số quả/cây (quả): Đếm tổng số quả trên cây

+ Số hạt chắc/quả (hạt): Đếm tổng số hạt chắc trên quả chín + Khối lượng 1000 hạt (g): Đếm 1000 hạt rồi cân khối lượng

+ Năng suất cá thể (g): Được tính là khối lượng dược liệu khô thu được trên mỗi cá thể

+ Năng suất thực thu (kg/ha): thu toàn bộ hoa trên toàn bộ diện tích mỗi lần nhắc lại sau đó phơi khô và cân khối lượng thu được

Trong đó: NSCT: Năng suất cá thể (g)

M: Mật độ cây/ha Đánh giá tình hình sâu bệnh hại trên các giống hồng hoa nhập nội trồng tại Thanh Trì – Hà Nội Điều tra sâu hại: Theo phương pháp điều tra tự do, thu thập tất cả những loài sâu hại (Viện bảo vệ thực vật, 1997) Xác định các loài sâu hại và mức độ bắt gặp của chúng theo công thức: Độ bắt gặp (%) = (số điểm điều tra bắt gặp loài sâu hại: tổng số điểm điều tra) x 100% Mức độ hiện diện của sâu hại được xếp ở các mức sau:

(-): Rất ít gặp hay hiếm gặp, độ bắt gặp 50 % cây hoặc lá bị bệnh).

Phương pháp giám định sâu và động vật hại bao gồm việc xử lý mẫu ướt và mẫu khô để phân loại, đồng thời nuôi tiếp một phần mẫu để xác định loài Các mẫu trưởng thành của bộ cánh vảy và cánh cứng được bảo quản bằng cách căng và sấy trong tử sấy ở nhiệt độ thích hợp.

Sau khi xử lý ở nhiệt độ 60 độ C trong 3-4 ngày, mẫu vật được đưa vào hộp gỗ để phân loại Các loài trưởng thành thuộc bộ cánh thẳng, cánh nửa, cùng với sâu non và nhộng thuộc bộ cánh vảy, cùng các loài thiên địch ký sinh, sẽ được sơ chế và bảo quản trong dung dịch chuyên dụng cho côn trùng (Viện Bảo vệ thực vật, 1997).

Phân lập và giám định nấm gây bệnh bắt đầu bằng việc thu thập mẫu bệnh điển hình, loại bỏ phần lá và rửa sạch dưới vòi nước Cắt bộ phận bị bệnh thành miếng nhỏ ở ranh giới giữa mô bệnh và mô khỏe, sau đó khử trùng bằng ethanol 70 độ trong 5 giây và rửa sạch bằng nước cất vô trùng Miếng cắt được thấm khô và cấy lên môi trường PDA Khi nấm phát triển đạt kích thước đường kính 1-2cm, chuyển sang môi trường WA Để làm thuần nấm, cấy đỉnh sinh trưởng của sợi nấm từ môi trường WA sang môi trường PDA và CLA Mẫu nấm được nuôi ở điều kiện 25 độ C trong 7 ngày và được giám định qua hình thái dưới kính hiển vi.

Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hồng hoa theo Dược điển bao gồm định tính dược liệu, độ ẩm, tro toàn phần, và định lượng hoạt chất chính là Hydroxysafflor yellow A và Kaempferol Dược liệu được thu hái khi cánh hoa chuyển từ màu vàng sang màu đỏ, theo mô tả trong Dược điển Việt Nam IV (2009) và Dược điển Trung Quốc (2010) Phân tích định tính là bước quan trọng trong quá trình đánh giá chất lượng dược liệu.

Phân tích định tính dược liệu được thực hiện bằng phương pháp sắc ký lớp mỏng (TLC) theo Dược điển Việt Nam IV (2009)

Mẫu thử được so sánh với dung dịch hồng hoa từ Viện Dược liệu và các chất đối chiếu Hydroxysafflor yellow A cùng Kaempferol Sắc ký lớp mỏng được thực hiện theo các điều kiện nhất định.

- Dung môi triển khai: ethyl acetat: acid fomic: nước: methanol

Sau khi thực hiện sắc ký, cần lấy bản mỏng ra và để khô tự nhiên trong không khí Tiếp theo, phun thuốc thử boric oxalic và quan sát sắc ký đồ dưới ánh sáng UV 366 nm, cả trước và sau khi phun thuốc thử.

Phân tích độ ẩm: Độ ẩm của dược liệu được xác định theo phương pháp được mô tả tại phụ lục 12.13 của Dược điển Việt Nam IV (2009)

Phân tích hàm lượng tro toàn phần của dược liệu được thực hiện theo phương pháp trong phụ lục 9.8 của Dược điển Việt Nam IV (2009) Đồng thời, cần định lượng hydroxysafflor yellow A và kaempferol có trong dược liệu hồng hoa.

PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU

Kết quả thí nghiệm được tập hợp và xử lý theo chương trình Microsoft Excel và Irristat 5.0.

Ngày đăng: 15/07/2021, 07:10

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Tiến Bân (2005). Danh lục các loài thực vật Việt Nam. Tập II: 63. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội Khác
3. Dược Điển Việt Nam IV (2009). Chuyên luận Hồng hoa. NXB Y học, tr.788 – 789 Khác
5. Vũ Đình Hòa, Vũ Văn Liết, Nguyễn Văn Hoan (2005). Giáo trình chọn giống cây trồng. NXB Nông nghiệp Khác
6. Phạm Hoàng Hộ (2000). Cây cỏ Việt Nam. Quyển 3: 375. Nhà xuất bản trẻ, TP HCM Khác
7. Đỗ Tất Lợi (1991). Cây thuốc và vị thuốc Việt nam. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Tr. 932 Khác
8. Nguyễn Nghĩa Thìn (2007). Các phương pháp nghiên cứu thực vật. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 171 Khác
9. Trường đaị học dược Hà Nội - Bộ môn dược liệu (2004). Bài giảng dược liệu. tập 1, tr. 153, 155 Khác
10. Viện Dược liệu (1993). Tài nguyên cây thuốc Việt Nam. NXB.Khoa học và kỹ thuật Khác
11. Viện Dược liệu (2001). Công trình nghiên cứu khoa học (1987 - 2000)Tiếng Anh Khác
12. Abel G.H and Lorance DG (1975). Registration of ‘Dart’ safflower. Crop Sci. 15: 100 Khác
13. Anjani K (2000). Components of seed yield in safflower (Carthamus tinctorius). Indian J. Agric. Sci.70: 873–875 Khác
14. Anonymous (2002). Safflower Research in India. Directorate of Oilseeds Research. Hyderabad, pp. 96 Khác
15. Bergman JW and Riverland NR (1983). Registration of ‘Sidwill’ safflower. Crop Sci. 23: 1012-1013 Khác
16. Cervantes-Martinez JE, Rey-Ponce M, and Velazquez-Cagal M Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w