Cơ sở lý luận và thực tiễn hệ thống chỉ tiêu phân tích về quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế
Cơ sở lý luận về hệ thống chỉ tiêu phân tích quản lý nợ thuế và cưỡng chế thuế
NỢ THUẾ VÀ CƯỠNG CHẾ THUẾ
2.1.1 Tổng quan về nợ thuế
Giáo trình Quản lý Tài chính công của Học viện Tài chính định nghĩa thuế là hình thức bắt buộc do nhà nước quy định, thuộc lĩnh vực phân phối Mục đích của thuế là tập trung một phần thu nhập từ cá nhân và tổ chức vào ngân sách nhà nước, nhằm phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước và lợi ích công cộng.
Thuế có tính pháp lý cao và là khoản thu bắt buộc do nhà nước cung cấp hàng hóa công cộng cho xã hội Hàng hóa công cộng thường khó có thể loại trừ và ít người tự nguyện chi trả cho các dịch vụ như quốc phòng, môi trường, và vệ sinh Để đảm bảo chi tiêu công cộng, nhà nước sử dụng quyền lực của mình yêu cầu công dân nộp thuế, thể hiện nghĩa vụ đóng góp cho lợi ích chung Thuế không hoàn trả trực tiếp và không gắn liền với lợi ích cụ thể mà người nộp thuế nhận được Cá nhân và tổ chức nộp thuế không có quyền yêu cầu nhà nước cung cấp dịch vụ cụ thể, và khoản thuế được xác định dựa trên thu nhập của người nộp Tuy nhiên, trong thực tiễn, nhiều người không nộp thuế đúng hạn, dẫn đến khoản nợ thuế phát sinh.
Nợ thuế là các khoản tiền thuế, phí, lệ phí, và phạt chậm nộp mà người nộp thuế phải trả theo quy định pháp luật Những khoản này đã được kê khai và tính toán bởi cơ quan thuế, nhưng người nộp thuế chưa thực hiện nghĩa vụ nộp vào ngân sách nhà nước trong thời hạn quy định.
Tiền thuế nợ là các khoản thuế, phí, và phạt chậm nộp chưa được thanh toán vào ngân sách nhà nước (NSNN) sau khi hết thời hạn quy định Những khoản này bao gồm tiền thuế đã được người nộp thuế kê khai, thông báo từ cơ quan thuế, hoặc do cơ quan chức năng phát hiện và thông báo Cơ quan thuế có trách nhiệm xác định nghĩa vụ của người nộp thuế và thông báo cho họ về số tiền thuế nợ.
Tiền thuế đã nộp ngân sách nhà nước đang chờ điều chỉnh bao gồm các khoản thuế, phí, lệ phí, tiền chậm nộp và các khoản phải nộp khác mà người nộp thuế đã thực hiện Tuy nhiên, do một số sai sót trong chứng từ nộp tiền hoặc do chứng từ chậm luân chuyển hoặc thất lạc, các khoản này đang chờ ghi thu ghi chi Cơ quan thuế hiện đang tiến hành điều chỉnh theo đúng quy định.
Người nợ thuế là cá nhân hoặc tổ chức có nghĩa vụ nộp thuế nhưng hiện đang có khoản nợ thuế theo quy định của pháp luật Khoản nợ thuế này được xác định dựa trên số tiền thuế chưa thanh toán tại từng thời điểm phát sinh.
Tiền chậm nộp là khoản tiền phạt tính dựa trên số tiền thuế nợ và số ngày chậm nộp Số ngày nợ thuế được xác định từ thời điểm bắt đầu tính nợ cho đến khi số tiền nợ được nộp vào ngân sách nhà nước.
Số ngày nợ thuế được tính từ thời điểm bắt đầu phát sinh nợ cho đến khi khoản thuế đó được nộp vào ngân sách nhà nước, bao gồm cả các ngày nghỉ và ngày lễ theo quy định của Bộ Luật Lao động.
Thời điểm bắt đầu tính nợ đối với một khoản thuê nợ là ngày tiếp theo ngày hết hạn nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
Thời điểm kết thúc tính nợ thuế là khi khoản nợ được nộp vào ngân sách nhà nước, hoặc khi văn bản xóa nợ, miễn nộp hoặc xử lý bằng hình thức khác có hiệu lực thi hành.
Khóa sổ thuế là thời gian ngừng nhập các chứng từ kế toán liên quan đến nghĩa vụ thuế, bao gồm tờ khai thuế, chứng từ nộp thuế và các quyết định, thông báo Sau khi thực hiện khóa sổ thuế, mọi số liệu trên Sổ theo dõi thu nộp thuế của các tháng trước sẽ không được điều chỉnh hay bổ sung ngay, mà chỉ có thể điều chỉnh sau ngày khóa sổ và được hạch toán vào thời điểm phát hiện.
2.1.1.2 Đặc điểm của nợ thuế
* Nợ thuế là một hành vi tâm lý phổ biến
Hệ thống thuế gồm nhiều loại thuế trực tiếp và gián tiếp, đánh vào thu nhập của cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế Thuế là hình thức phân phối thu nhập bắt buộc mà mọi người phải nộp cho nhà nước, ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của người nộp thuế Ở Việt Nam và nhiều nước khác, tình trạng trốn thuế rất phổ biến, đặc biệt trong các nước đang phát triển với nhận thức xã hội về thuế còn thấp Nhiều người chưa hiểu rõ lợi ích của việc nộp thuế và chưa mạnh mẽ lên án hành vi gian lận thuế, dẫn đến thất thu ngân sách nhà nước và không đảm bảo công bằng xã hội Người nộp thuế thường tìm cách tối thiểu hóa số thuế phải nộp, trong đó có việc nợ thuế.
* Nợ thuế là hành vi vi phạm pháp luật về thuế
Quy phạm pháp luật thuế là những quy tắc bắt buộc do nhà nước thiết lập nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến nghĩa vụ nộp thuế vào ngân sách nhà nước Những quy định này được đảm bảo thực hiện để duy trì trật tự và công bằng trong việc thu thuế.
Các quy định pháp luật về thuế xác định rõ các phạm vi điều chỉnh, bao gồm mức nộp thuế, đối tượng nộp thuế và thời gian nộp thuế.
Hành vi nợ thuế được định nghĩa là vi phạm luật thuế của người nộp thuế, thể hiện qua việc chậm nộp hoặc không nộp số tiền thuế theo quy định của pháp luật, dẫn đến việc không thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách nhà nước.
* Nợ thuế chưa hẳn là hành vi trốn thuế
Trốn thuế là hành vi vi phạm pháp luật của người nộp thuế nhằm giảm số thuế phải nộp vào ngân sách nhà nước bằng nhiều thủ đoạn khác nhau Trong khi đó, nợ thuế chỉ đơn thuần là việc chậm nộp thuế sau thời hạn quy định Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nợ thuế có thể liên quan đến hành vi trốn thuế, chẳng hạn như khi doanh nghiệp cố tình nợ thuế lớn rồi bỏ trốn khỏi nghĩa vụ nộp thuế.
* Nợ thuế khác với hành vi tránh thuế
Cơ sở thực tiễn về hệ thống chỉ têu phân tích về quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế
LÝ NỢ VÀ CƯỠNG CHẾ NỢ THUẾ
2.2.1 Kinh nghiệm hệ thống chỉ tiêu phân tích quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế
Cơ quan thuế Malaysia không có phòng quản lý nợ và cưỡng chế thuế riêng, mà mỗi ban đều thành lập bộ phận thu nợ với từ ba đến năm thành viên do một cán bộ lãnh đạo phụ trách Bộ phận này chủ yếu thực hiện lập kế hoạch thu nợ, chuẩn bị các chương trình quản lý nợ, và tổ chức họp định kỳ để theo dõi tình hình thu nợ thuế Họ cũng trực tiếp liên hệ với người nộp thuế, thỏa thuận phương án thanh toán và thực hiện các biện pháp nâng cao nhận thức về trách nhiệm nộp thuế.
Các chỉ tiêu phân tích về cưỡng chế thuế áp dụng:
- Đóng cửa các cơ sở kinh doanh còn nợ tiền thuế;
Ngân hàng được chỉ định sẽ thực hiện việc nộp thay tiền thuế hoặc tiến hành phong tỏa tài khoản ngân hàng nếu không có khoản tín dụng nào khác để thanh toán số tiền thuế nợ.
- Không cho NNT còn đang trong tình trạng nợ đọng thuế được xuất cảnh;
- Đình chỉ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của NNT còn nợ đọng tiền thuế;
Tài sản của người nộp thuế và gia đình sẽ bị tịch thu nếu còn nợ tiền thuế, miễn là tất cả các tài sản đó do người nộp thuế tài trợ.
Các chỉ tiêu phân tích cưỡng chế có thể được áp dụng linh hoạt cho từng đối tượng cụ thể, không cần thực hiện theo thứ tự, nhằm tối ưu hóa số thuế thu được với chi phí thấp nhất.
Thành lập bộ phận điều tra thuế và thông tin tình báo nhằm tăng cường hiệu quả trong việc phát hiện và xử lý tội phạm trốn thuế Kết luận điều tra thuế sẽ là cơ sở quan trọng để khởi tố vụ án và làm căn cứ xét xử tại Toà án.
2.2.1.2 Kinh nghiệm của Nhật Bản Ở Nhật Bản, để thực hiện công tác thu nợ thuế, bộ phận quản lý nợ được thành lập tại các cấp Phòng thu nợ trực thuộc Ban quản lý và thu Ngân sách đã được thành lập tại Tổng cục thuế, Cục thuế vùng cũng có các phòng thu nợ trong khi Chi cục thuế có các nhóm thu nợ (Tạp chí Thuế, 2015).
Về biện pháp thu nợ: Thực hiện các biện pháp qua các chỉ tiêu phân tích về quản lý thu nợ sau:
- Chỉ tiêu thông báo cho NNT ngay trước khi đến hạn kê khai thuế hoặc nộp thuế tiêu dùng.
- Chỉ tiêu số lượt CQT hướng dẫn để NNT nộp thuế đúng hạn.
- Chỉ tiêu yêu cầu sự phối hợp của các tổ chức tư nhân có liên quan để dự phòng các quĩ phục vụ cho việc nộp thuế.
Đề nghị các cơ quan chính phủ và tổ chức tự trị địa phương yêu cầu chứng nhận nộp thuế tiêu dùng khi đánh giá tiêu chuẩn dự thầu.
Nhật Bản đã thiết lập trung tâm điện thoại để xử lý các khoản nợ thuế nhỏ, nhằm tập trung vào những trường hợp nợ khó xử lý và nợ chây ỳ Trung tâm này có nhiệm vụ yêu cầu người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, thay vì chỉ thông báo qua thư tín hoặc gọi điện thoại như trước đây, nhờ vào hệ thống tập trung và công nghệ máy tính tiên tiến.
2.2.2 Các văn bản, chính sách liên quan đến hệ thống chỉ tiêu phân tích quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế tại Việt Nam Để quản lý nợ thuế, Nhà nước Việt Nam ban hành các Luật, nghị định, thông tư và các chính sách liên quan đến quản lý nợ thuế tại Việt Nam như sau:
2.2.2.1 Quốc hội ban hành các văn bản pháp lý
- Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006.
- Luật số 21/2012/QH12 ngày 20/11/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế.
- Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/4/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế.
- Luật Ngân sách nhà nước số 83/2015/QHH13 ngày 25/6/2015.
2.2.2.2 Chính phủ ban hành nghị định
- Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế.
Nghị định số 83/2013/NĐ-CP, ban hành ngày 22/7/2013, của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế, nhằm đảm bảo việc thực hiện các quy định về quản lý thuế được hiệu quả và minh bạch.
Nghị định số 100/2016/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016, quy định chi tiết việc thi hành các điều sửa đổi, bổ sung của Luật Thuế Giá trị gia tăng (GTGT), Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế Nghị định này nhằm đảm bảo việc thực hiện các quy định thuế một cách đồng bộ và hiệu quả, góp phần vào việc quản lý thuế và phát triển kinh tế.
- Nghị định số 118/2008/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính;
Nghị định số 83/2013/NĐ-CP, ban hành ngày 22 tháng 7 năm 2013, quy định chi tiết về việc thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và các điều sửa đổi, bổ sung liên quan đến Luật này Nghị định này nhằm đảm bảo việc quản lý thuế được thực hiện một cách hiệu quả và minh bạch, góp phần vào sự phát triển kinh tế bền vững.
Nghị định số 129/2013/NĐ-CP, ban hành ngày 16 tháng 10 năm 2013, quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế và các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính liên quan đến thuế Nghị định này nhằm tăng cường quản lý thuế, đảm bảo công bằng và minh bạch trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của cá nhân và tổ chức.
- Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
2.2.2.3 Các bộ, ngành ban hành Quyết định, Thông tư, văn bản
- Thông tư số 215/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn về cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
- Quyết định số 1401/QĐ-BTC ngày 28/7/2015 của Tổng Cục Thuế về việc ban hành Quy trình quản lý nợ thuế.
- Quyết định số 751/QĐ-TCT ngày 20/4/2015 của Tổng Cục Thuế về việc ban hành Quy trình cưỡng chế nợ thuế.
2.2.3 Kinh nghiệm hệ thống chỉ tiêu phân tích về quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế tại Việt Nam
2.2.3.1 Cục Thuế tỉnh Nghệ An Đến hết tháng 5/2017, tổng nợ thuế ở Cục Thuế Nghệ An còn 961 tỷ đồng. Trong đó, nợ có khả năng thu là 624 tỷ đồng, nợ khó thu là 337 tỷ đồng. Để có được kết quả đó, trong năm 2016 và 5 tháng đầu năm 2017, toàn ngành thuế Nghệ An đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp quản lý nợ thông qua các chỉ tiêu phân tích cụ thể như chỉ tiêu thu nợ cho từng phòng, từng chi cục; chỉ tiêu về số lượng cưỡng chế nợ thuế như ban hàng Thông báo nợ và tiền chậm nộp, ban hành các Quyết định cưỡng chế nợ thuế đối với các trường hợp phải cưỡng chế nợ thuế; chỉ tiêu tham gia đấu thầu đối với các doanh ngiệp nợ thuế trên 1 tỷ đồng do UBND tỉnh ra quyết định; chỉ tiêu phối hợp với sở Tài nguyên và Môi trường để thu hồi nợ thuế các doanh nghiệp khai thác khoáng sản; nhắn tin đôn đốc nộp nợ thuế đến giám đốc các doanh nghiệp; chỉ tiêu số lượt công bố thông tin NNT chây ỳ nợ thuế lên báo, trang Web Cục Thuế, loa phát thanh phường, xã, chỉ tiêu sơ lần và số tiền thu được thông qua phối hợp với Kho bạc Nhà nước, các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng trong cưỡng chế nợ thuế; phối hợp với các sở, ngành để thu hồi nợ thuế (Báo Nghệ An, 2017).
2.2.3.2 Cục Thuế tỉnh Đắk Lắk
Trong 6 tháng đầu năm 2017, tổng thu nội địa đạt 2.326,5 tỷ đồng, tương đương 58,2% so với dự toán và tăng 26,3% so với cùng kỳ năm 2016 Để đạt được kết quả này, Cục Thuế đã thực hiện các biện pháp quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế một cách đồng bộ, bao gồm việc công khai số lượng doanh nghiệp nợ thuế Mỗi lãnh đạo phòng, lãnh đạo các Chi cục, đội thuế và công chức đều có trách nhiệm thực hiện thu nợ, báo cáo kết quả hàng ngày, hàng tuần, và đánh giá định kỳ về hiệu quả thu nợ.