1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến sản xuất nông nghiệp, đời sống và việc làm hộ nông dân tại huyện đan phượng thành phố hà nội giai đoạn 2010 2015

119 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Quá Trình Đô Thị Hóa Đến Sản Xuất Nông Nghiệp, Đời Sống Và Việc Làm Hộ Nông Dân Tại Huyện Đan Phượng Thành Phố Hà Nội Giai Đoạn 2010 - 2015
Tác giả Nguyễn Viết Phan
Người hướng dẫn TS. Trần Trọng Phương
Trường học Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Chuyên ngành Quản lý đất đai
Thể loại luận văn
Năm xuất bản 2016
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 119
Dung lượng 5,3 MB

Cấu trúc

  • Phần 1. Mở đầu (14)
    • 1.1. Tính cấp thiết của đề tài (14)
    • 1.2. Mục đích nghiên cứu (15)
    • 1.3. Phạm vi nghiên cứu (15)
    • 1.4. Những đóng góp mới, ý nghĩa khoa học và thực tiễn (15)
      • 1.4.1. Những đóng góp mới (15)
      • 1.4.2. Ý nghĩa khoa học (16)
      • 1.4.3. Ý nghĩa thực tiễn (16)
  • Phần 2. Tổng quan nghiên cứu đề tài (17)
    • 2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về đô thị, công nghiệp (17)
      • 2.1.1. Khái niệm, phânB loại và chức năng của đô thị (0)
      • 2.1.2. Khái niệm và vai trò khu công nghiệp (25)
    • 2.2. Cơ sở lý luận về đô thị hoá, công nghiệp hóa (29)
      • 2.2.1. Đô thị hóa (29)
      • 2.2.2. Công nghiệp hóa (34)
    • 2.3. Mối quan hệ giữa quá trình đô thị hoá và quá trình công nghiệp hoá (35)
    • 2.4 Hộ nông dân và đời sống hộ nông dân (36)
      • 2.4.1. Hộ nông dân (36)
      • 2.4.2. Đời sống hộ nông dân (37)
    • 2.5. Thực tiễn quá trình đô thị hóa trên thế giới và ở Việt Nam (39)
      • 2.5.1. Tình hình đô thị hoá trên thế giới (39)
      • 2.5.2. Kinh nghiệm đô thị hoá ở một số nước trên thế giới (40)
      • 2.5.3. Tình hình đô thị hóa ở Việt Nam (43)
    • 2.6. Ảnh hưởng của đô thị hóa đến vấn đề sử dụng đất (45)
    • 2.7. Ảnh hưởng của đô thị hóa đến thu nhập của người dân (47)
  • Phần 3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu (50)
    • 3.1. Địa điểm nghiên cứu (50)
    • 3.2. Thời gian nghiên cứu (50)
    • 3.3. Đối tượng nghiên cứu (50)
    • 3.4. Nội dung nghiên cứu (50)
      • 3.4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội (50)
      • 3.4.2. Tình hình quản lý và sử dụng đất huyện Đan Phượng (50)
      • 3.4.3. Tình hình đô thị hóa và phát triển công nghiệp trên địa bàn huyện Đan Phượng 37 3.4.4. Tác động của đô thị hóa đến đến sản xuất nông nghiệp, đời sống và việc làm của hộ nông dân trên địa bàn huyện Đan Phượng 37 3.4.5. Đề xuất các giải pháp trong sử dụng đất và nâng cao đời sống hộ nông dân (50)
    • 3.5. Phương pháp nghiên cứu (51)
      • 3.5.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu (51)
      • 3.5.2. Phương pháp thu thập số liệu (51)
      • 3.5.3. Phương pháp điều tra cơ bản (52)
      • 3.5.4. Phương pháp xử lý số liệu (52)
      • 3.5.5. Phương pháp phân tích mức độ tác động (52)
  • Phần 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận (55)
    • 4.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Đan Phượng có ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa 41 .1. Điều kiện tự nhiên (55)
      • 4.1.2. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế (62)
      • 4.1.3. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội huyện Đan Phượng 53 4.2. Tình hình quản lý và sử dụng đất của huyện Đan Phượng (68)
      • 4.2.1. Hiện trạng sử dụng đất (69)
      • 4.2.2. Biến động đất đai giai đoạn 2010 – 2015 (72)
    • 4.3 Tình hình đô thị hoá trên địa bàn huyện Đan Phượng (75)
      • 4.3.1. Sự phát triển đô thị và công nghiệp trên địa bàn huyện (75)
      • 4.3.2. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế (75)
      • 4.3.3. Tình hình biến động dân cư (76)
    • 4.4. Tác động của đô thị hóa đến sản xuất nông nghiệp, đời sống và việc làm của hộ nông dân huyện đan phượng 61 1. Tác động của đô thị hóa đến sản xuất nông nghiệp (77)
      • 4.4.2. Tác động của đô thị hóa đến đời sống của hộ nông dân (81)
      • 4.4.3. Tác động của đô thị hóa đến việc làm của hộ nông dân (87)
      • 4.4.4. Tác động của đô thị hóa đến môi trường ............................................................... 74 4.4.5. Ý kiến của nông hộ về chuyển dịch đất nông nghiệp sang đất công (93)
    • 4.5. Đề xuất các giải pháp trong sử dụng đất và nâng cao đời sống hộ nông dân (100)
      • 4.5.1. Giải pháp về chính sách đất đai (100)
      • 4.5.2. Giải pháp về đào tạo nghề, tạo việc làm (101)
      • 4.5.3. Giải pháp về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (101)
      • 4.5.4. Giải pháp môi trường (102)
  • Phần 5. Kết luận và kiến nghị (103)
    • 5.1. Kết luận (103)
    • 5.2. Kiến nghị (104)
  • Tài liệu tham khảo (105)
  • Phụ lục (107)

Nội dung

Tổng quan nghiên cứu đề tài

Cơ sở lý luận và thực tiễn về đô thị, công nghiệp

2.1.1 Khái niệm, phân loại và chức năng của đô thị

2.1.1.1 Khái niệm về đô thị

Trong tiếng Việt, khái niệm "Đô thị" được thể hiện qua nhiều từ như đô thị, thành phố, thị trấn, và thị xã, với hai thành tố chính: chức năng hành chính (đô, thành, trấn, xã) và hoạt động kinh tế (thị, phố) Hai thành tố này có mối quan hệ chặt chẽ và tương tác trong quá trình phát triển Một đô thị được định hình bởi sự tập trung dân cư phi nông nghiệp và đóng vai trò là trung tâm hành chính, chính trị và kinh tế của khu vực, là những tiêu chí cơ bản để xác định bản chất của đô thị.

Theo Nghị định số 42/2009/NĐ-CP, việc phân loại đô thị dựa trên các tiêu chuẩn cơ bản và được đánh giá dựa trên hiện trạng phát triển đô thị của năm trước hoặc tại thời điểm lập đề án Đô thị được định nghĩa là một điểm dân cư tập trung với các tiêu chí cụ thể.

Chức năng đô thị đóng vai trò quan trọng như một trung tâm tổng hợp hoặc chuyên ngành, có thể ở cấp quốc gia, vùng liên tỉnh, tỉnh, huyện hoặc là trung tâm của một vùng trong tỉnh Nó thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội không chỉ của toàn quốc mà còn của các vùng lãnh thổ cụ thể.

-Quy mô dân số toàn đô thị tối thiểu phải đạt 4000 người trở lên.

Mật độ dân số cần phải phù hợp với quy mô, tính chất và đặc điểm riêng của từng loại đô thị Việc tính toán mật độ này được thực hiện trong phạm vi nội thành, nội thị và các khu phố xây dựng tập trung của thị trấn.

Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong các khu vực nội thành, nội thị và khu vực xây dựng tập trung cần đạt ít nhất 65% so với tổng số lao động.

- Hệ thống công trình hạ tầng đô thị gồm có hệ thống công trình hạ tầng xã hội và hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật:

+ Đối với khu vực nội thành, nội thị phải được đầu tư xây dựng đồng bộ và có mức độ hoàn chỉnh theo từng loại đô thị;

Khu vực ngoại thành và ngoại thị cần được đầu tư xây dựng hạ tầng đồng bộ, đồng thời đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ môi trường và phát triển đô thị bền vững.

Việc phát triển đô thị cần tuân thủ quy chế quản lý kiến trúc đã được phê duyệt, bao gồm việc xây dựng các khu đô thị kiểu mẫu và tuyến phố văn minh Đồng thời, cần tạo ra không gian công cộng phục vụ đời sống tinh thần của cư dân, cũng như xây dựng các công trình kiến trúc tiêu biểu phù hợp với môi trường và cảnh quan thiên nhiên.

Phân loại đô thị là một hoạt động quan trọng của các cơ quan chức năng nhà nước, nhằm nghiên cứu và đánh giá các yếu tố cấu thành đô thị theo tiêu chuẩn nhất định Mục đích của việc này là xếp loại các đô thị trong mạng lưới đô thị quốc gia, từ đó hỗ trợ cho việc quản lý và phát triển đô thị hiệu quả hơn.

Phân loại đô thị được thực hiện dựa trên nhiều tiêu chí quan trọng, bao gồm quy mô dân số, vị trí của đô thị trong hệ thống quốc gia, chức năng hành chính - chính trị, cấp hành chính - chính trị, cũng như tính chất sản xuất, thương mại, du lịch hoặc tính chất tổng hợp.

Đô thị được phân loại theo quy mô dân số thành các nhóm sau: đô thị nhỏ với dân số từ 2.000 đến 4.000 người, đô thị trung bình có từ 20.000 đến 100.000 người, đô thị lớn với dân số từ 100.000 đến 500.000 người, đô thị loại rất lớn với hơn 1 triệu người, và siêu đô thị có dân số trên 10 triệu người.

- Phân loại theo chức năng hành chính - chính trị, gồm có: thủ đô (quốc gia hay bang), thủ phủ bang, tỉnh lỵ, huyện lỵ.

- Phân loại theo cấp hành chính - chính trị, gồm có:

Đô thị loại đặc biệt là những thành phố hoặc thủ đô có sự phát triển nhanh chóng và đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.

Tính chất tập trung hoặc phân chia quyền lực của chính quyền ở các quốc gia khác nhau, cùng với thể chế chính trị - hành chính, dẫn đến việc các đô thị cấp nhỏ hơn có thể thuộc hoặc không thuộc vào cấp hành chính địa phương lớn hơn.

- Phân loại theo tính chất sản xuất, gồm có: đô thị công nghiệp, đô thị thương mại, đô thị tài chính, đô thị văn hóa, đô thị du lịch

- Phân loại theo vị trí vai trò và mức độ ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế - xã hội, gồm có:

Đô thị đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, giáo dục, và du lịch Ngoài ra, đô thị còn là đầu mối giao thông, thúc đẩy giao lưu trong nước và quốc tế.

Đô thị đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội của vùng, đồng thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật Nó cũng là nơi đào tạo, phát triển du lịch và dịch vụ, cũng như là đầu mối giao thông và giao lưu trong và ngoài nước, góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội cả một vùng lãnh thổ, liên tỉnh hoặc toàn quốc.

+ Đô thị có vai trò thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của một tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với vùng liên tỉnh.

Đô thị đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của một khu vực, địa phương, cũng như các lĩnh vực liên kết giữa các địa phương khác nhau Nó còn là trung tâm phát triển tổng hợp, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo ra cơ hội phát triển bền vững cho cộng đồng.

Cơ sở lý luận về đô thị hoá, công nghiệp hóa

2.2.1.1 Khái niệm đô thị hoá

Các nhà khoa học đã nghiên cứu quá trình ĐTH, đưa ra nhiều định nghĩa và đánh giá về quy mô, tầm quan trọng cũng như dự báo tương lai của quá trình này.

Đô thị hóa là quá trình phát triển thành phố và tăng cường vai trò của đô thị trong đời sống quốc gia, thể hiện qua số lượng thành phố và dân cư đô thị ngày càng tăng (Bassand và Michel, 2001).

Quá trình đô thị hóa (ĐTH) được hiểu là sự di cư từ nông thôn vào thành phố, dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ dân cư đô thị trong tổng số dân của một quốc gia.

Để hiểu rõ tầm quan trọng và vai trò của đô thị hóa (ĐTH) trong sự phát triển của xã hội hiện đại, cần nhìn nhận ĐTH không chỉ từ góc độ nhân khẩu học mà còn như một phạm trù kinh tế - xã hội ĐTH phản ánh quá trình chuyển hóa và chuyển dịch sang các phương thức sản xuất, tiêu dùng mới, cùng với lối sống và sinh hoạt đô thị Quá trình này diễn ra song song với sự phát triển công nghiệp hóa (CNH) và cách mạng khoa học kỹ thuật.

Đô thị hóa là quá trình chuyển đổi và phân bố lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, điều chỉnh bố trí dân cư và hình thành các hình thức sống đô thị Quá trình này cũng bao gồm việc phát triển đô thị hiện có thông qua hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật và gia tăng quy mô dân số.

* Phân loại quá trình đô thị hóa:

Quá trình ĐTH diễn ra trên thế giới có thể phân chia thành 2 loại (Bassand and Michel, 2001):

Quá trình đô thị hóa ở các nước phát triển được đặc trưng bởi việc khai thác tối đa lợi ích và hạn chế những tác động tiêu cực Sự đô thị hóa diễn ra một cách tự nhiên, đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp.

Quá trình đô thị hóa ở các nước đang phát triển thường không gắn liền với công nghiệp hóa, ngoại trừ một số quốc gia công nghiệp mới Sự gia tăng dân số đô thị không phải là hiện tượng tự nhiên, mà là hệ quả của sự chênh lệch rõ rệt về chất lượng cuộc sống giữa khu vực đô thị và nông thôn.

* Quá trình đô thị hóa diễn ra theo 2 xu hướng:

ĐTH tập trung, hay còn gọi là ĐTH “hướng tâm”, là sự tập trung các nguồn lực tư bản và chất xám vào các trung tâm đô thị công nghiệp cao, như Tokyo và Seoul (Bassand and Michel, 2001) Xu hướng này dẫn đến hiện tượng “CNH co cụm”, trong đó chỉ các khu vực đô thị trung tâm mới thu hút được vốn đầu tư và tập trung hoạt động công nghiệp, trong khi nông thôn và sản xuất nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo Điều này tạo ra sự đối lập giữa đô thị và nông thôn, đồng thời gây ra mất cân bằng sinh thái.

ĐTH phân tán, hay còn gọi là ĐTH “ly tâm”, là xu hướng dịch chuyển đầu tư và sản xuất công nghiệp từ các vùng trung tâm ra ngoại vi, tạo hiệu ứng lan tỏa và hình thành các trung tâm vệ tinh công nghiệp Xu hướng này dẫn đến tiến trình "CNH lan tỏa", khi các hoạt động công nghiệp ở đô thị trung tâm chuyển sang ngoại vi, đồng thời chuyên môn hóa các lĩnh vực kinh doanh, thương mại và dịch vụ Điều này không chỉ đảm bảo cân bằng sinh thái mà còn tạo điều kiện việc làm, sinh hoạt và nghỉ ngơi tốt cho cư dân đô thị và nông thôn.

2.2.1.2 Tính tất yếu của đô thị hoá

Mọi quốc gia, dù phát triển hay đang phát triển, khi chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp thông qua quá trình công nghiệp hóa (CNH) đều phải gắn liền với đô thị hóa (ĐTH).

Trong lịch sử cận đại, ĐTH là hệ quả trực tiếp của công nghiệp hoá và quá trình hiện đại hoá các nền kinh tế, thể hiện qua việc tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu GDP.

Từ góc độ kinh tế, ĐTH (Đô thị hóa) là xu hướng phát triển tất yếu, phản ánh quy luật khách quan và đặc điểm tình hình của mỗi quốc gia Đây là một quá trình lịch sử, toàn cầu và không thể đảo ngược, thể hiện sức mạnh công nghiệp và trở thành mục tiêu của nền văn minh thế giới.

2.2.1.3 Quan điểm của đô thị hoá

Công nghiệp hoá và đô thị hoá (ĐTH) là xu thế chung trong quá trình chuyển đổi từ nền văn minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp Để phát huy tối đa lợi ích của đô thị hoá và hạn chế các tác động tiêu cực, cần gắn kết quá trình này với khái niệm “Phát triển bền vững” ĐTH không chỉ thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn phải bảo vệ môi trường, đảm bảo xã hội công bằng và tiến bộ Mặc dù tăng trưởng kinh tế là yếu tố quan trọng, nhưng mục tiêu cuối cùng của ĐTH là nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của con người, với con người là trung tâm của sự phát triển đô thị.

2.2.1.4 Tác động của đô thị hoá ĐTH là một quá trình đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra một cách phổ biến trên thế giới ĐTH từng bước đưa con người tiếp cận cuộc sống văn minh, đồng thời cũng đặt ra không ít vấn đề tiêu cực, khó khăn - những vấn đề ảnh hưởng xấu đối với quá trình ĐTH một cách bền vững (Lê Du Phong, 2007).

Đô thị hóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc nâng cao hiệu quả sản xuất hàng hóa và dịch vụ tại các thành phố lớn Những đô thị này có mật độ dân số cao và nguồn lao động dồi dào, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ Hệ thống phân phối rộng khắp trong không gian đô thị cũng góp phần vào sự tăng trưởng này Khi kinh tế của các đô thị lớn phát triển, nó sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa tích cực, kích thích tăng trưởng kinh tế toàn quốc.

Thứ hai, ĐTH đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-

Mối quan hệ giữa quá trình đô thị hoá và quá trình công nghiệp hoá

Đô thị hóa (ĐTH) là một quá trình song song với sự phát triển công nghiệp hóa (CNH) và cách mạng khoa học kỹ thuật, phản ánh tiến trình CNH - hiện đại hóa trong nền kinh tế thị trường Một quốc gia thành công trong CNH thường có tỷ lệ cư dân đô thị ngày càng chiếm ưu thế so với cư dân nông thôn, điều này được coi là một chỉ tiêu quan trọng trong kinh tế học phát triển ĐTH không chỉ là hệ quả trực tiếp của CNH mà còn là kết quả của việc cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại hóa, với sự gia tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong tổng GDP.

Trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH), ĐTH đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường Để thực hiện thành công CNH - HĐH, cần chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp kỹ thuật cao và thay đổi cơ cấu lao động, tập trung vào các điểm dân cư và xây dựng đồng bộ các cơ quan, xí nghiệp trung tâm Quá trình này chuẩn bị lực lượng cho CNH - HĐH, với việc tăng cường sử dụng máy móc hiện đại, nâng cao tay nghề công nhân và năng lực quản lý ĐTH sẽ đánh dấu giai đoạn mới trong tiến trình CNH, khi công nghiệp và dịch vụ trở thành lĩnh vực chủ đạo của nền kinh tế, không chỉ về tỷ trọng GDP mà còn về phân bố nguồn lao động xã hội.

Hộ nông dân và đời sống hộ nông dân

Hộ nông dân đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu khoa học nông nghiệp và phát triển nông thôn, vì tất cả các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp tại nông thôn chủ yếu diễn ra thông qua sự tham gia của họ.

Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và các hoạt động phi nông nghiệp tại nông thôn Việc phân biệt giữa các hoạt động phi nông nghiệp có liên quan và không liên quan đến nông nghiệp là một thách thức (Đặng Kim Sơn, 2008) Gần đây, khái niệm “Hộ nông thôn” đã được mở rộng, tuy nhiên, ranh giới giữa nông thôn và thành thị vẫn là một vấn đề gây tranh cãi.

Hộ nông dân được định nghĩa là những nông hộ thu hoạch các phương tiện sống từ ruộng đất, chủ yếu sử dụng lao động gia đình trong sản xuất nông trại, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn Đặc điểm của hộ nông dân bao gồm sự tham gia vào thị trường với trình độ hoàn chỉnh không cao, điều này cho thấy vai trò quan trọng của họ trong nền kinh tế nông nghiệp.

- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở vừa là một đơn vị sản xuất vừa là một đơn vị tiêu dùng.

Quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất được thể hiện qua mức độ phát triển của hộ tự cấp, tự túc, điều này ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa hộ nông dân và thị trường Trình độ tự cấp, tự túc quyết định cách thức mà nông dân tương tác và tham gia vào thị trường.

Các hộ nông dân không chỉ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp mà còn tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp với nhiều mức độ khác nhau Theo lý thuyết doanh nghiệp gia đình nông dân, hộ nông dân được xem như một doanh nghiệp không sử dụng lao động thuê ngoài, mà chỉ dựa vào lao động của gia đình Vì vậy, các khái niệm kinh tế truyền thống như tiền lương, lợi nhuận hay địa tô không áp dụng cho loại hình doanh nghiệp này Hộ nông dân chỉ có thu nhập tổng từ tất cả các hoạt động kinh tế của gia đình, được tính bằng giá trị sản lượng hàng năm trừ đi chi phí Mục tiêu chính của họ là tối đa hóa thu nhập, không phân biệt nguồn gốc từ trồng trọt, chăn nuôi hay các ngành nghề khác, tất cả đều là kết quả từ sự nỗ lực lao động của gia đình.

Khái niệm cơ bản trong phân tích kinh tế gia đình là sự cân bằng giữa lao động và tiêu dùng, nhằm đáp ứng nhu cầu của gia đình mà không làm gia tăng gánh nặng lao động.

Giá trị sản lượng thuần của hộ gia đình được xác định bằng cách trừ chi phí từ giá trị sản lượng chung, và đây là nguồn lực cho tiêu dùng, đầu tư và tích lũy Nông dân không tính tiền công lao động mà chỉ tập trung vào việc tăng thu nhập thuần, do đó họ cần gia tăng thời gian lao động Trình độ tự bóc lột lao động gia đình phản ánh số lượng lao động bỏ ra để đạt được thu nhập đáp ứng nhu cầu thiết yếu Sự cân bằng giữa mức độ thoả mãn nhu cầu và mức độ nặng nhọc của lao động thay đổi theo thời gian, phụ thuộc vào tỷ lệ giữa người tiêu dùng và người lao động Khi một cặp vợ chồng trẻ có con, số lượng người tiêu dùng tăng lên, gây khó khăn cho gia đình, nhưng khi con cái lớn lên, số lao động cũng tăng theo, cải thiện tình hình kinh tế Chu kỳ này lặp lại khi con cái trưởng thành và lập gia đình mới Sự cân bằng này chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã hội, giúp các doanh nghiệp gia đình có sức cạnh tranh hơn so với nông trại tư bản chủ nghĩa, vì họ có thể làm việc nhiều giờ hơn, bán sản phẩm với giá rẻ hơn và hạn chế tiêu dùng để vượt qua khó khăn.

2.4.2 Đời sống hộ nông dân

Nền kinh tế nông dân vẫn tồn tại như một hình thái sản xuất đặc thù nhờ các đặc điểm (Nguyễn Đức Triều và Vũ Tuyên Hoàng, 2005):

Hộ nông dân có khả năng đáp ứng nhu cầu tái sản xuất đơn giản nhờ kiểm soát tư liệu sản xuất, đặc biệt là ruộng đất Giá trị xã hội của nông dân tập trung vào mối quan hệ tương tác, thay vì chỉ tìm kiếm lợi nhuận tối đa.

* Nhờ việc chuyển giao ruộng đất từ thế hệ này sang thế hệ khác, tránh tình trạng tập trung ruộng đất vào tay một số ít nông dân.

Nông dân có thể vượt qua áp lực của thị trường bằng cách nâng cao năng lực lao động trong sản xuất, thể hiện khả năng tự bóc lột sức lao động của họ.

* Đặc trưng của nông nghiệp không thu hút việc đầu tư vốn do có tính rủi ro cao và hiệu quả đầu tư thấp.

* Khả năng của nông dân kết hợp được hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp để sử dụng hết lao động và tăng thu nhập.

Việc huy động thặng dư từ nông nghiệp nhằm phục vụ lợi ích xã hội thông qua địa tô, thuế và sự biến động giá cả là cần thiết Các tiến bộ kỹ thuật đã làm giảm giá trị lao động nông nghiệp bằng cách hạ thấp giá thành và giá cả sản phẩm Do đó, nông dân chỉ có thể thực hiện tái sản xuất đơn giản nếu không nhận được sự hỗ trợ từ bên ngoài.

Mục tiêu sản xuất của hộ gia đình ảnh hưởng đến việc lựa chọn sản phẩm kinh doanh, xác định mức đầu tư cần thiết và phản ứng với biến động giá cả của vật tư, lao động và sản phẩm trên thị trường.

Sản xuất của hộ nông dân đã tiến hóa từ tự cấp sang sản xuất hàng hóa với nhiều mức độ khác nhau Trong quá trình này, họ không chỉ thay đổi mục tiêu kinh doanh mà còn điều chỉnh phương thức hoạt động để thích ứng với thị trường.

Theo lý thuyết của Tchayanov, "hộ nông dân hoàn toàn tự cấp" nhằm tối đa hóa lợi ích, trong đó lợi ích chủ yếu là sản phẩm tiêu dùng cho gia đình Người nông dân cần lao động để sản xuất đủ lượng sản phẩm cho đến khi sức lao động cạn kiệt, vì vậy thời gian nông nhàn cũng được xem là một lợi ích Cấu trúc dân số trong gia đình là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến nhu cầu và khả năng lao động của hộ.

Hộ nông dân tự cấp hoạt động như thế nào còn phụ thuộc vào các điều kiện sau (Đặng Kim Sơn, 2008):

-Có khả năng mở rộng diện tích canh tác (có thể bằng tăng vụ) không?

Thị trường lao động tồn tại, cho phép người nông dân bán sức lao động của mình để gia tăng thu nhập, đặc biệt khi chi phí cơ hội của lao động cao.

- Có thị trường vật tư không? Vì có thể tăng thu nhập bằng cách đầu tư thêm một ít vật tư (nếu có tiền để mua và có lãi).

Thị trường sản phẩm là yếu tố quan trọng, vì nông dân cần bán một phần sản phẩm của mình để có kinh phí mua sắm vật tư cần thiết và các hàng tiêu dùng khác.

Trong các điều kiện này người nông dân có phản ứng một ít với thị trường, nhất là thị trường lao động và thị trường vật tư.

Thực tiễn quá trình đô thị hóa trên thế giới và ở Việt Nam

Tiến trình đô thị hoá gắn liền với sự phát triển của lịch sử nhân loại, là sản phẩm của nền văn minh và động lực cho những bước tiến vượt bậc trong nhiều thiên niên kỷ Đối với Việt Nam, một quốc gia nông nghiệp truyền thống với mức độ đô thị hoá thấp, việc nghiên cứu quá trình đô thị hoá trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay trở nên đặc biệt quan trọng, không chỉ về mặt lý luận mà còn có giá trị thực tiễn cao.

2.5.1 Tình hình đô thị hoá trên thế giới Đô thị hoá là hiện tượng mang tính toàn cầu và diễn ra với tốc độ ngày một tăng, đặc biệt là ở các quốc gia kém phát triển Theo các chuyên gia nghiên cứu về đô thị hoá thì trong tiến trình đô thị hoá nửa sau thế kỷ 20, các quốc gia kém phát triển có chung một đặc điểm là: ở giai đoạn đầu, tỷ trọng dân số đô thị trên tổng dân số thấp và tốc độ phát triển dân số đô thị nhanh, nhanh hơn rất nhiều so với các quốc gia phát triển.

Trong khoảng thời gian 60 năm từ 1950 đến 2010, tỷ lệ dân số đô thị toàn cầu tăng từ 28,83% lên 50,46% Cụ thể, khu vực kém phát triển chứng kiến sự gia tăng từ 17,61% lên 45,08%, trong khi khu vực phát triển tăng từ 52,58% lên 75,16%.

Bảng 2.1 Tỷ lệ dân số đô thị các khu vực trên thế giới theo các năm Đơn vị tính: %

Khu vực kém phát triển

Khu vực kém phát triển nhất

Nguồn: World urbanization prospect, the 2009 Revision, New York (2010)

Vào thập niên 90, tỷ lệ đô thị hóa ở châu Á chỉ đạt 35%, trong khi châu Âu là 75%, châu Phi là 45%, Bắc Mỹ trên 90% và Mỹ La tinh là 80% Theo báo cáo của Liên hợp quốc, trong 25 năm tới, sự gia tăng dân số chủ yếu sẽ diễn ra tại các thành phố, phần lớn nằm ở các nước kém phát triển Dự đoán đến năm 2030, hơn 60% dân số thế giới sẽ sinh sống tại các đô thị (Nguyễn Đình Cự, 1997).

Tiến trình phát triển đô thị đã đóng góp quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa, nhưng sự bùng nổ đô thị quá tải đã gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng cho cuộc sống con người Điều này dẫn đến sự mất cân bằng trong phân bố dân cư và lực lượng lao động theo vùng lãnh thổ, cùng với khả năng cung ứng lương thực và thực phẩm ở vùng ven đô Dự báo, bình quân diện tích đất canh tác trên đầu người sẽ giảm từ 0,27 ha vào năm 1990 xuống còn 0,17 ha trong tương lai.

2025 Chiến lược chung của vấn đề đô thị hiện nay là:

-Hạn chế việc di cư từ nông thôn ra đô thị trong đó yêu cầu nhất thiết phải nâng cao mức sống nông thôn.

Để giải quyết vấn đề tập trung dân số quá tải tại các đô thị lớn, cần thiết phải hạn chế nhập cư vào những khu vực này Đồng thời, việc tạo ra sự cân bằng dân số đô thị là rất quan trọng Điều này bao gồm việc khuyến khích phát triển các đô thị vừa và nhỏ, tăng cường đầu tư vào hệ thống dịch vụ và xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm nâng cao chất lượng sống cho người dân.

2.5.2 Kinh nghiệm đô thị hoá ở một số nước trên thế giới

Trung Quốc, với tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng về đô thị hóa Năm 1949, nước này chỉ có 136 thành phố và 54 triệu dân, chiếm 10,6% dân số Đến năm 2005, dân số đô thị đã tăng lên 800 triệu người, sống tại hơn 700 thành phố, tương đương 37% tổng dân số Dự đoán cho thấy, đến năm 2050, tỷ lệ đô thị hóa có thể đạt tới 75%.

Tính trung bình mỗi năm có 12 triệu người ở nông thôn vào sinh sống ở đô thị (Basand and Michel, 2001).

Sự di chuyển lớn của nhân công từ nông thôn đến thành phố đã mang lại nhiều lợi ích, như cải thiện mức sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời giảm bớt tình trạng đói nghèo ở nông thôn Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa ở Trung Quốc cũng đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng, bao gồm thiếu nhà ở cho người nghèo, phân hóa xã hội gia tăng, tình trạng sinh đẻ không kiểm soát, an ninh trật tự kém, ô nhiễm môi trường và cơ sở hạ tầng thiếu thốn.

Trung Quốc đã từng trải qua giai đoạn công nghiệp hương trấn phân tán, dẫn đến xây dựng các thành phố nhỏ và thị trấn một cách bừa bãi, gây lãng phí nguồn lực nông thôn và ô nhiễm môi trường Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước Trung Quốc đã nhấn mạnh nguyên tắc phát triển hài hòa, tránh mở rộng đô thị lớn một cách ồ ạt và kiểm soát dòng người di cư vào thành phố Chiến lược đô thị hóa hiện nay tập trung vào việc khai thác tiềm năng của các thành phố lớn, mở rộng các thành phố loại vừa và phát triển hợp lý các thành phố nhỏ và thị trấn Trong quá trình đô thị hóa nông thôn, Trung Quốc tiếp tục xây dựng xí nghiệp hương trấn nhằm cải thiện tình trạng phân tán trong phân công lao động giữa công nghiệp và nông nghiệp.

“Ly điền bất ly hương” và “Ly hương bất ly điền” thể hiện sự phân công lao động sâu sắc trong xã hội Nhà nước cần có chính sách giảm thiểu những tác động tiêu cực từ việc phát triển các đô thị nhỏ, bao gồm sự tụt hậu về văn hóa, giáo dục, quản lý, ô nhiễm môi trường và việc lấn chiếm đất canh tác.

Hà Lan là một quốc gia phát triển, và để giảm thiểu tác động tiêu cực của đô thị hóa, vào năm 1994, các nhà hoạch định đã đưa ra "Chính sách hiệp ước", theo đó các khu vực nông thôn được bảo tồn trong khi vẫn phát triển đô thị với các khu dân cư và trung tâm thương mại Chính sách này cũng nêu rõ những nguy cơ từ việc đô thị hóa các khu vườn ven thành phố (Basand và Michel, 2001) Amsterdam, bắt đầu quá trình đô thị hóa sau Thế chiến I, đã nhanh chóng trở thành thành phố quan trọng về kinh tế và chính trị của Hà Lan Mặc dù mật độ dân số ở một số khu vực vượt quá 20.000 người/km², thành phố vẫn duy trì khoảng 600 khu vườn, với tổng diện tích vườn lên tới 300 ha trong tổng số 21.907 ha của Amsterdam.

Nông dân ở Amsterdam đã thành lập các tổ chức như “Hội những người nông dân đô thị” và “Hiệp hội những người làm vườn ở Amsterdam” để đại diện cho quyền lợi của họ trong việc duy trì các khu vườn giữa quá trình đô thị hóa Những hiệp hội này nhấn mạnh vai trò đa chức năng của các khu vườn, không chỉ cung cấp thực phẩm cho thành phố mà còn tạo ra không gian giáo dục cho trẻ em về thiên nhiên, tăng cường đa dạng sinh học và duy trì “không gian xanh”, góp phần làm sạch khí hậu đô thị.

Vào năm 1995, khoảng 170 nông dân đã tổ chức "Diễn đàn đối thoại của nông dân vùng đất xám", nơi họ phân tích triển vọng kinh tế dài hạn của khu vực nếu tiếp tục sản xuất nông nghiệp và thay đổi phương pháp sử dụng đất Họ đã có cuộc đối thoại trực tiếp với chính phủ và các tổ chức môi trường nhằm bảo vệ và phát triển sản xuất nông nghiệp Qua đó, những nông dân này đã trở thành người quản lý, giáo dục và thúc đẩy hoạt động kinh tế tại địa phương.

Nông nghiệp đô thị đóng vai trò quan trọng trong quá trình đô thị hóa, với nhiều nông trang quanh các khu đô thị nhận thức rõ về tính đa chức năng của nó Trong bối cảnh này, sản xuất nông nghiệp không chỉ được duy trì mà còn phát triển hài hòa, góp phần vào sự phát triển bền vững của kinh tế đô thị.

Kinh nghiệm từ nhiều quốc gia cho thấy đô thị hóa (ĐTH) cần mở rộng ra cả khu vực nông thôn, không chỉ giới hạn trong thành phố Việc phát triển mạng lưới đô thị hợp lý và xây dựng các đô thị có quy mô vừa phải, kết nối với các đô thị vệ tinh là rất quan trọng Ngay từ bây giờ, ĐTH cần được liên kết chặt chẽ với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH) đất nước Trong quy hoạch phát triển một thành phố cụ thể, cần có kế hoạch đồng bộ cho nhà ở, hạ tầng, dịch vụ và hệ thống xử lý nước thải.

2.5.3 Tình hình đô thị hóa ở Việt Nam

Ảnh hưởng của đô thị hóa đến vấn đề sử dụng đất

Đô thị hóa tại Việt Nam gắn liền với công nghiệp hóa và hiện đại hóa, đòi hỏi một diện tích đất lớn để xây dựng các khu đô thị, công nghiệp và hạ tầng Điều này dẫn đến việc thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng đất Dự báo của Bộ Xây dựng cho thấy tỷ lệ đô thị hóa năm 2020 sẽ đạt khoảng 40%, với hơn 45 triệu dân cư sống tại đô thị Mục tiêu diện tích bình quân đầu người là 100m2, tương đương với khoảng 450.000 ha đất đô thị, trong khi hiện tại chỉ có 105.000 ha, chỉ đạt 1/4 so với yêu cầu.

Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa tại Việt Nam đang thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa Theo ông Suresh Babu, Giám đốc chương trình IFPRI, diện tích đất trồng lúa đã giảm từ 4,47 triệu ha năm 2000 xuống còn 4,1 triệu ha hiện nay, tương ứng với việc mất trung bình 59.000 ha mỗi năm Mỗi ha đất lúa mất đi có thể ảnh hưởng đến 10-13 lao động, dẫn đến 53% hộ dân bị thiệt hại tài chính và 34% trong số đó đã thấy mức sống giảm sút Do đó, việc bảo vệ và duy trì đất đai cho nhu cầu lương thực trong nước và xuất khẩu là vô cùng cần thiết ngay từ bây giờ.

Tốc độ đô thị hóa nhanh chóng tại Việt Nam đã tạo ra nhu cầu lớn về nhà ở, dẫn đến sự gia tăng giá đất, đặc biệt là sự chênh lệch giữa giá đất nông nghiệp và đất ở Ông Nguyễn Đăng Quý, một đại biểu tại hội thảo An ninh lương thực, cho rằng giá đất đô thị hiện nay cao hơn nhiều so với khu vực và thế giới, thậm chí vượt qua cả những nước có giá bất động sản hàng đầu như Nhật Bản, nguyên nhân chủ yếu là do quá trình đô thị hóa quá nhanh Đô thị hóa cũng thúc đẩy tình trạng chuyển nhượng đất nông nghiệp, với một khảo sát của Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp cho thấy gần 3,8% người được phỏng vấn đã từng bán đất trong giai đoạn 1980 - 1988, và tỷ lệ này đã tăng lên 4,67% từ 1998 - 2003, và hiện nay đạt 6,22% Các khu vực có tỷ lệ chuyển nhượng đất cao nhất là Đông Nam Bộ (hơn 48%), Tây Nguyên (41%), và đồng bằng sông Cửu Long (32%).

Nguyên nhân chính khiến người dân nông thôn chuyển nhượng quyền sử dụng đất là do tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng, dẫn đến việc thu hồi đất và nhu cầu tiền để đầu tư cho sản xuất, trả nợ, xây dựng nhà cửa Sự gia tăng nhu cầu sử dụng đất trong quá trình đô thị hóa cũng làm giá đất tăng cao, gây ra các vụ khiếu kiện, tranh chấp phức tạp liên quan đến bồi thường, hỗ trợ tái định cư và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Đô thị hóa đã làm thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp, buộc người dân phải cải tạo và quản lý đất một cách trách nhiệm hơn Tuy nhiên, do thiếu hiểu biết và tập trung vào lợi ích trước mắt, việc sử dụng đất trở nên không bền vững, dẫn đến ô nhiễm và bạc màu đất do sử dụng hóa chất.

Ảnh hưởng của đô thị hóa đến thu nhập của người dân

Trong quá trình đô thị hóa, sự gia tăng dân số đô thị đi kèm với chuyển đổi cơ cấu kinh tế, từ lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch vụ Những người nông dân trước đây mất đất canh tác, nhưng nhờ vào đền bù từ Nhà nước, họ đã tạo ra nghề mới và xây dựng nơi cư trú mới, dẫn đến thay đổi cuộc sống với nguồn thu nhập mới Mặc dù thu nhập của người dân tăng nhanh khi chuyển sang các ngành nghề công nghiệp và dịch vụ, nhưng tốc độ tăng trưởng lại khác nhau giữa các cá nhân, nhóm xã hội và nghề nghiệp, dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt.

Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tại hội nghị lần thứ 11 của Ban chấp hành Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, khoảng cách thu nhập giữa nhóm có tiền lương cao và mức trung bình ở Hà Nội là 42 lần, với mức lương cao nhất đạt 75,2 triệu đồng/tháng so với 1,8 triệu đồng/tháng Tại Tp.HCM, khoảng cách này lên tới 109 lần, với mức lương cao nhất là 240 triệu đồng/tháng so với 2,2 triệu đồng/tháng.

Ông Hoàng Minh Hào, đại diện Vụ Tiền lương - Tiền công thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, cho rằng sự chênh lệch thu nhập trong bối cảnh Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường là điều không thể tránh khỏi Ba nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng chênh lệch thu nhập giữa các nhóm lao động bao gồm: sự khác biệt trong trình độ chuyên môn, sự phân bổ nguồn lực không đồng đều, và tác động của thị trường lao động.

Việc trả lương hiện nay không còn bị ràng buộc bởi các quy định và định mức như trước, đặc biệt trong khối doanh nghiệp ngoài Nhà nước Các doanh nghiệp đang chi trả cho những người lao động có trình độ cao, các vị trí quản lý chủ chốt, và những người có kinh nghiệm, mối quan hệ rộng rãi dựa trên hiệu quả công việc mà họ mang lại cho doanh nghiệp, thay vì theo hệ thống thang bảng lương truyền thống.

- Thứ hai, thỏa thuận mức lương đã theo quy luật cung cầu về lao động.

Hiện nay, thị trường lao động đang chứng kiến sự gia tăng đáng kể về nguồn cung lao động giản đơn và phổ thông, nhờ vào việc bổ sung hàng năm và sự chuyển dịch của lao động nông nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp Việc tái cơ cấu lao động trong doanh nghiệp cũng đã tạo ra một lượng lớn nhân lực trở lại thị trường, đặc biệt là ở các vị trí lao động giản đơn Tuy nhiên, nguồn cung cho các vị trí điều hành đòi hỏi kinh nghiệm và chuyên môn sâu lại đang ngày càng khan hiếm.

- Thứ ba, mức lương chịu tác động bởi biến động nhân lực của từng ngành.

Trong thời gian qua, ngành ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm phát triển mạnh, dẫn đến nhu cầu lao động tăng cao và cạnh tranh thu hút nhân tài lớn Ngay cả lao động có trình độ hạn chế cũng nhận được mức lương cao, trong khi các vị trí quản lý luôn có mức lương vượt trội so với các ngành khác Để thu hút nhân tài cho các vị trí chủ chốt, nhiều doanh nghiệp đã đẩy mức lương lên cao, thậm chí vượt quá mặt bằng chung và kèm theo nhiều ưu đãi Điều này tạo ra một mặt bằng lương mới trong các ngành thiếu nhân lực trình độ cao Ngược lại, các ngành như dệt may và chế biến thủy sản có nguồn cung lao động lớn nhưng lợi nhuận thấp, dẫn đến mức lương không tăng hoặc tăng không đáng kể.

Quá trình đô thị hóa và chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo cơ chế thị trường đã dẫn đến sự cạnh tranh về lao động, tạo ra hai xu hướng thu nhập Một nhóm người lao động phải chấp nhận mức lương thấp do nhu cầu việc làm cao, trong khi nhóm khác, được doanh nghiệp thu hút, có mức lương tăng nhanh chóng Kết quả là thu nhập của nhóm cao tăng nhanh, trong khi nhóm thu nhập trung bình và thấp chỉ tăng chậm.

Nội dung và phương pháp nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Ngày đăng: 15/07/2021, 07:05

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Đan Phượng (2010). Báo cáo chính trị của ban chấp hành Đảng bộ huyện Đan Phượng nhiệm kỳ 2005 - 2010, trình tại Đại hội Đại biểu Đảng huyện Đan Phượng nhiệm kỳ 2010 - 2015 Khác
2. Bassand, Michel (2001). Đô thị hóa, khủng hoảng sinh thái và phát triển bền vững, người dịch Nguyễn Đăng Sơn. NXB Trẻ, Hà Nội Khác
3. Bộ Xây dựng (1995). Đô thị Việt Nam tập 1. NXB Xây dựng, Hà Nội Khác
4. Chính phủ (2009). Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày 07 tháng 05 năm 2009 về việc phân loại đô thị Khác
5. Đặng Kim Sơn (2008). Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam hôm nay và mai sau. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Khác
6. Lê Du Phong (2007). Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội Khác
7. Lê Như Hoa (2000). Quản lý văn hóa đô thị trong điều kiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Viện Văn hóa. Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội Khác
8. Lưu Bích Hồ (2002). Một số định hướng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn nước ta. Tạp trí cộng sản (12) Khác
9. Lưu Bích Hồ (2011). Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn trong chiến lược và hội nhập quốc tế của Việt Nam - Con đường và Bước đi.Tham luận tại khóa họp thứ 2 diễn đàn Việt - Pháp, Montpellier, tháng 7 năm 2001 Khác
10. Nguyễn Đình Cự (1997). Giáo trình dân số và phát triển. NXB Nông nghiệp, Hà Nội Khác
11. Nguyễn Đức Triều và Vũ Tuyên Hoàng (2005). Nông dân, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. NXB Nông nghiệp, Hà Nội Khác
12. Nguyễn Đức Tuấn (2001). Địa lý kinh tế học. Nhà xuất bản thông kê, Hà Nội Khác
13. Nguyễn Tấn Dũng (2002). Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Báo Nhân dân Số 17043, Thứ 3 ngày 19 tháng 3 năm 2003 Khác
14. Phòng Tài Nguyên Và Môi Trường huyện Đan Phượng. Số liệu thống kê đất đai và các số liệu khác liên quan đến quản lý sử dụng đất đai qua các năm Khác
15. Quốc Hội (2003), Luật đất đai năm 2003. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội Khác
16. Quốc Hội (2013) Luật đất đai năm 2013. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội Khác
17. Quốc Hội (2013). Hiến pháp 2013 Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 Khác
18. Trần Ngọc Hưng (2004). Giải pháp hoàn thiện và phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam - Luận án tiến sỹ Khoa học Khoa Kinh tế Trường Đại học thương mại Hà Nội Khác
19. Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á, Viện KHXH tại Tp Hồ Chí Minh (1997), Môi trường nhân văn và đô thị hoá tại Việt Nam, Đông Nam Á và Nhật Bản.NXB TP Hồ Chí Minh, TPHCM Khác
20. UBND huyện Đan Phượng (2005). Báo cáo Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011-2015) huyện Đan Phượng Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w