Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu
Đánh giá các khoản thu tài chính từ đất đai tại tất cả các xã và thị trấn (18 xã và 01 thị trấn) thuộc huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, là một nhiệm vụ quan trọng nhằm hiểu rõ hơn về nguồn thu ngân sách địa phương và phát triển bền vững khu vực.
Thời gian nghiên cứu
- Thời gian thực hiện đề tài luận văn từ tháng 3 năm 2017 đến tháng 9 năm 2018;
Số liệu thứ cấp về thu nhập tài chính từ đất đai tại huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, đã được thu thập trong giai đoạn 5 năm, từ năm 2013 đến năm 2017.
- Số liệu sơ cấp về các khoản thu tài chính từ đất đai tại huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình được thu thập trong tháng 4 năm 2018.
Đối tượng nghiên cứu
Việc thu các khoản tài chính từ đất đai trong khu vực nghiên cứu bao gồm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất, thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cùng với các phí và lệ phí liên quan đến quản lý và sử dụng đất đai.
-Các hộ gia đình, cá nhân phải thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai;
- Cán bộ, công chức, viên chức liên quan trực tiếp đến việc thực hiện các khoản thu tài chính từ đất đai.
Nội dung nghiên cứu
3.4.1 Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình
- Đặc điểm về điều kiện tự nhiên: Vị trí địa lý, đất đai, khí hậu thời tiết.
- Đặc điểm về kinh tế - xã hội: Thực trạng phát triển các ngành; tình hình dân số, lao động, việc làm; vấn đề an ninh chính trị.
3.4.2 Tình hình quản lý, sử dụng đất đai của huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình
-Tình hình quản lý đất đai;
-Hiện trạng và biến động sử dụng đất.
3.4.3 Thực trạng các khoản thu tài chính từ đất đai tại huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình
3.4.4 Đánh giá việc thực hiện các khoản thu tài chính từ đất đai tại huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình
3.4.5 Giải pháp hoàn thiện việc thực hiệncác khoản thu tài chính từ đất đaitại huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình
3.5.1 Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Trong giai đoạn 2013-2017, số liệu về điều kiện tự nhiên như vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng, thủy văn và tài nguyên thiên nhiên, cùng với các điều kiện kinh tế - xã hội như văn hóa, y tế, giáo dục, thể thao và tỷ trọng các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đã được thu thập tại Văn phòng UBND huyện Yên Khánh.
Tình hình quản lý đất đai tại huyện Yên Khánh đã được khảo sát kỹ lưỡng, với thông tin về hiện trạng sử dụng đất năm 2017 và biến động sử dụng đất giai đoạn 2013-2017 Dữ liệu này được thu thập từ Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Yên Khánh, phản ánh những thay đổi và xu hướng trong quản lý đất đai tại địa phương.
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Yên Khánh cùng với Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Yên Khánh tiến hành thu thập kết quả giao đất, cho thuê đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với các hộ gia đình và cá nhân trên địa bàn huyện.
Kết quả thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất và thuế thu nhập cá nhân từ chuyển quyền sử dụng đất tại huyện Yên Khánh đã được thu thập từ Chi cục thuế huyện Yên Khánh.
3.5.2 Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã thực hiện một cuộc điều tra ngẫu nhiên bằng phiếu phỏng vấn in sẵn với tổng cộng 212 phiếu, nhằm thu thập thông tin về nghĩa vụ tài chính liên quan đến đất đai của các hộ gia đình và cá nhân trong khu vực nghiên cứu Cụ thể, chúng tôi đã ghi nhận số lượng hộ gia đình và cá nhân thực hiện các nghĩa vụ như nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất, thuế thu nhập cá nhân từ chuyển quyền sử dụng đất, cũng như các khoản phí và lệ phí trong quản lý và sử dụng đất Phương pháp điều tra được áp dụng theo công thức 3.1 (n= N/(1+N.)), như đã đề cập bởi Lê Huy Bá và cộng sự vào năm 2006.
Trong bài viết này, chúng ta sẽ xem xét các loại phiếu điều tra liên quan đến việc nộp tiền sử dụng đất, bao gồm số lượng hộ gia đình và cá nhân nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất, thuế thu nhập cá nhân từ chuyển quyền sử dụng đất, cũng như các khoản phí và lệ phí trong quản lý và sử dụng đất.
Trong giai đoạn nghiên cứu, tổng số hộ gia đình và cá nhân tham gia nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất, và thuế thu nhập cá nhân từ chuyển quyền sử dụng đất được ghi nhận Đồng thời, cũng bao gồm tổng số hộ gia đình và cá nhân nộp phí, lệ phí liên quan đến quản lý và sử dụng đất Sai số cho phép trong các số liệu này được xác định trong khoảng 10-15%.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, chúng tôi đã chọn giá trị lớn nhất là 15% để giảm số lượng phiếu điều tra Kết quả được tính toán theo công thức 3.1 và được trình bày trong Bảng 3.1.
Bảng 3.1 Số lượng phiếu điều tra hộ gia đình, cá nhân thực hiện các khoản thu tài chính từ đất đai
1 Nộp tiền sử dụng đất
3 Nộp thuế sử dụng đất PNN
4 Nộp thuế TNCN từ chuyển quyền SDĐ
5 Nộp phí, lệ phí trong quản lý, SDĐ
Tiêu chí điều tra bao gồm thông tin của người trả lời, đánh giá thủ tục hành chính liên quan đến thu tài chính từ đất đai và mức thu, cũng như đánh giá trình độ, chuyên môn và thái độ của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ Bên cạnh đó, các ý kiến và kiến nghị từ hộ gia đình và cá nhân cũng được ghi nhận.
Điều tra trực tiếp bằng phiếu in sẵn sẽ được thực hiện đối với các cán bộ, công chức, viên chức có liên quan đến việc thu tài chính từ đất đai Tiêu chí điều tra bao gồm thông tin về người trả lời phỏng vấn, những thuận lợi và khó khăn trong việc xác định nghĩa vụ tài chính từ đất đai, ý thức chấp hành pháp luật của hộ gia đình và cá nhân trong việc thực hiện nghĩa vụ này, cũng như cơ sở vật chất và nhân lực phục vụ cho việc thu tài chính từ đất đai.
Số phiếu điều tra là 50 phiếu, thể hiện cụ thể ở bảng 3.2.
Bảng 3.2 Số lượng phiếu điều tra cán bộ liên quan đến việc thực hiện các khoản thu tài chính từ đất đai
STT Đơn vị công tác
1 Văn phòng HĐND & UBND huyện
2 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
3.5.3 Phương pháp thống kê, tổng hợp và xử lý số liệu
Dựa trên các số liệu và tài liệu đã thu thập, chúng tôi tiến hành thống kê và tổng hợp thông tin theo các chỉ tiêu nhất định bằng phần mềm Excel, nhằm khái quát kết quả thực hiện các khoản thu tài chính từ đất đai trên địa bàn huyện Yên Khánh.
Thang đo Likert, được phát triển bởi Rensis Likert vào năm 1932, là công cụ đánh giá ý kiến của người dân về nghĩa vụ tài chính liên quan đến đất đai, sử dụng 5 mức độ khác nhau Chỉ số đánh giá chung được tính bằng số bình quân gia quyền dựa trên số lượng người trả lời ở từng mức độ: rất cao (>=4,20), cao (3,40 - 4,19), trung bình (2,60 - 3,39), thấp (1,80 -