Cở sở khoa học và tổng quan tài liệu
Vai trò của cây ngô trong nền kinh tế
Ngô là một trong những cây lương thực thiết yếu trong kinh tế toàn cầu, nổi bật với sự đa dạng di truyền và khả năng thích ứng với nhiều điều kiện sinh thái khác nhau Hiện nay, ngô được trồng rộng rãi trên hầu hết các châu lục, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho nhân loại.
Ngô là nguồn lương thực thiết yếu cho gần 1/3 dân số thế giới, với việc các quốc gia trồng ngô sử dụng nó ở mức độ khác nhau Từ năm 2000 đến 2007, khoảng 15% sản lượng ngô toàn cầu được dùng làm thực phẩm cho con người, đặc biệt tại Trung Mỹ, Tây Phi và Nam Á, nơi ngô được coi là thực phẩm chính Châu Phi ghi nhận tỷ lệ sử dụng ngô làm lương thực cao, với 77,8% sản lượng ngô được tiêu thụ cho nhu cầu ăn uống; Đông Phi đạt 92%, Tây Phi 60%, Nam Á 42,6%, Đông Nam Á 34,8%, và Trung Mỹ 66,3% Các quốc gia Đông Nam Á như Indonesia và Malaysia cũng sử dụng ngô đáng kể, trong khi Việt Nam trung bình tiêu thụ 21% sản lượng ngô hàng năm cho lương thực.
Ngô là thành phần quan trọng trong thức ăn chăn nuôi, chiếm khoảng 70% chất tinh trong các sản phẩm chế biến Trên toàn cầu, 71% sản lượng ngô được sử dụng làm thức ăn cho gia súc Ở các quốc gia phát triển, tỷ lệ này còn cao hơn, với Mỹ sử dụng 76%, Bồ Đào Nha 91%, Italia 93%, Croatia 95%, Trung Quốc 76% và Thái Lan 96% cho chăn nuôi.
Ngô là nguyên liệu quan trọng trong ngành chế biến thực phẩm, được sử dụng để sản xuất cồn xăng sinh học, rượu, bia, tinh bột và bánh kẹo Sản phẩm từ ngô rất phong phú, với khoảng 760 mặt hàng được chế biến từ các ngành công nghiệp thực phẩm, dược phẩm, lương thực và công nghiệp nhẹ (Ngô Hữu Tình, 1997).
Ngô được xem là một cây thực phẩm có giá trị cao, với bắp ngô non chứa nhiều chất dinh dưỡng và vitamin, thường được sử dụng như rau sạch cao cấp Ngô rau, một loại thực phẩm sạch giàu dinh dưỡng, đang phát triển mạnh mẽ tại Thái Lan và Đài Loan Ngoài ra, các loại ngô đường và ngô nếp cũng được tiêu thụ tươi qua các hình thức như luộc, nướng hoặc đóng hộp, góp phần cung cấp thực phẩm có giá trị cho thị trường nội địa và xuất khẩu.
Cây ngô đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả sử dụng đất và chuyển đổi cơ cấu cây trồng tại Việt Nam Được khuyến cáo thay thế cho diện tích trồng lúa kém hiệu quả, cây ngô giúp nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho nông dân, đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền núi phía Bắc Tăng năng suất và sản lượng ngô trong nước không chỉ giảm lượng ngô nhập khẩu mà còn tiết kiệm ngoại tệ cho ngân sách nhà nước, góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
Cây ngô đóng vai trò quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo và tăng thu nhập cho nông dân Với giá trị kinh tế cao và tiềm năng năng suất lớn, cây ngô không chỉ nâng cao sản lượng lương thực mà còn góp phần vào mục tiêu xã hội hóa, từ đó cải thiện đời sống người nông dân.
Tình hình sản xuất ngô trên thế giới và Việt Nam
2.2.1 Tình hình sản xuất và sử dụng giống ngô lai trên thế giới
Cây ngô đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, dẫn đến việc ngày càng được chú trọng và phát triển Ngành sản xuất ngô toàn cầu đã liên tục tăng trưởng từ đầu thế kỷ.
20 Những năm gần đây diện tích trồng ngô trên toàn thế giới không tăng mạnh do diện tích canh tác có giới hạn, tuy nhiên sản lượng ngô vẫn có xu hướng tăng là do năng suất ngô ngày càng được cải thiện nhờ áp dụng các giống ngô lai vào sản xuất Năm 2009, diện tích trồng ngô thế giới đạt khoảng 158,74 triệu ha, năng suất bình quân 51,7 tạ/ha, sản lượng 820,2 triệu tấn và năm 2014 diện tích trồng ngô là 183,32 triệu ha, năng suất đạt 56,6 tạ/ha, sản lượng 1.038,28 triệu tấn Qua bảng 1.1 cho thấy, so với năm 2005 thì năm 2014 năng suất ngô đã tăng lên khoảng 17,43% , trong khi diện tích tăng 23,53% và sản lượng là 43,47% (FAOSTAT, 2016).
Mỹ là quốc gia dẫn đầu thế giới về sản xuất ngô, mặc dù chỉ đứng thứ hai về diện tích trồng Năm 2014, diện tích trồng ngô tại Mỹ đạt 33,64 triệu ha với năng suất 10,73 tấn/ha, trong khi Trung Quốc có diện tích 35,98 triệu ha và Brazil cũng tham gia vào sản xuất ngô.
Năng suất ngô toàn cầu đạt 15,43 triệu ha, với sự chênh lệch rõ rệt giữa các quốc gia Israel dẫn đầu với 25,56 tấn/ha, theo sau là Kuwait với 21,11 tấn/ha và Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất với 20,00 tấn/ha Ngược lại, Botswana và Cape Verde có năng suất thấp nhất, chỉ đạt 0,13 tấn/ha và 0,19 tấn/ha (FAOSTAT, 2016) Những thành tựu này có sự đóng góp quan trọng từ các nhà khoa học nông nghiệp toàn cầu, nhờ vào việc nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển giống mới và áp dụng cơ giới hóa, đã nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là trong ngành sản xuất ngô.
Bảng 2.1 Diện tích, năng suất, sản lượng ngô thế giới 2005-2014
Hình 2.1 Biểu đồ diện tích, năng suất, sản lượng ngô thế giới giai đoạn 2005 - 2014
2.2.2 Tình hình sản xuất và sử dụng giống ngô lai ở Việt Nam
Việt Nam sở hữu điều kiện tự nhiên lý tưởng cho sự sinh trưởng và phát triển của cây ngô Trên toàn quốc, có 8 vùng trồng ngô chủ yếu, mỗi vùng đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu cây trồng nông nghiệp.
Nghiên cứu chọn tạo giống ngô ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 60 và đã đạt được thành công trong cải tạo giống địa phương và phát triển giống thụ phấn tự do Từ đầu những năm 1990, nhờ chính sách khuyến khích của nhà nước và tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là việc áp dụng giống ngô lai và kỹ thuật canh tác tiên tiến, diện tích, năng suất và tổng sản lượng ngô đã tăng trưởng đáng kể, với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm về diện tích đạt 7,5%, năng suất 6,7% và sản lượng 24,5% Các nhà chọn tạo giống ngô Việt Nam đã tập trung vào việc tạo dòng thuần và phát triển giống ngô lai, cho ra nhiều giống ngô lai năng suất cao như LVN4, LVN10, LVN25, phục vụ cho các vùng sinh thái và thời vụ khác nhau Chương trình phát triển cây ngô của Việt Nam được FAO và CIMMYT đánh giá là một trong ba chương trình ngô lai mạnh nhất ở Châu Á, với tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới.
Từ năm 1991, diện tích trồng giống ngô lai tại Việt Nam chỉ chiếm dưới 1% trong tổng số 447 nghìn hecta, với năng suất đạt 15,0 tạ/ha và sản lượng 672 nghìn tấn Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sản xuất ngô đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, với diện tích tăng 5,4%/năm, năng suất 4,8%/năm và sản lượng 12,9%/năm trong giai đoạn 2000-2010 Từ năm 2006, Việt Nam đã trở thành một trong 20 quốc gia có sản lượng ngô hạt cao nhất thế giới Đến năm 2015, diện tích trồng ngô đạt 1.179 nghìn ha, trong đó 95% là giống ngô lai, góp phần nâng năng suất trung bình toàn quốc lên 4,48 tấn/ha và tổng sản lượng đạt 5.281 nghìn tấn.
Bảng 2.2 Diện tích, năng suất, sản lượng ngô ở Việt Nam từ 1961-2017
1961 1970 1980 1990 1995 2000 2014 2015 2016(ước tính) 2017(dự báo) Nguồn: Bộ NN và PTNT (2016); Niên giám thống kê (2015)
Hình 2.2 Biểu đồ diện tích, năng suất, sản lượng ngô Việt Nam giai đoạn 1961 - 2017
Cây ngô đã có những bước tiến quan trọng trong những năm gần đây nhờ vào các thành tựu giống và kỹ thuật canh tác Trong hệ thống cơ cấu cây trồng, ngô giữ vai trò then chốt, xuất hiện trên nhiều loại đất như đất bỏ hóa, đất lúa và đất bãi ven sông Cây ngô cũng góp phần vào các phương pháp xen canh và gối vụ, giúp giảm thiểu chế độ canh tác đơn điệu của cây lúa và cải thiện hệ sinh thái nông nghiệp Việc hình thành vụ ngô Đông trên đất hai vụ lúa ở miền Bắc đã chứng minh vị trí quan trọng của cây ngô trong nông nghiệp Việt Nam.
Năng suất ngô trung bình của Việt Nam năm 2014 đạt 4,41 tấn/ha, vẫn thấp hơn mức trung bình toàn cầu là 5,66 tấn/ha Nguyên nhân chính dẫn đến năng suất thấp này bao gồm hơn 80% diện tích trồng ngô phụ thuộc vào nước mưa, trong đó 60% được trồng trên đất dốc Ngoài ra, ngô được canh tác trên nhiều loại đất khác nhau, bao gồm cả đất kém chất lượng và nghèo dinh dưỡng Thời tiết nhiệt đới cũng gây ra nhiều biến động về nhiệt độ, lượng mưa, gió bão và giờ nắng Hơn nữa, trình độ canh tác và khả năng đầu tư thâm canh của nông dân ở các vùng miền còn chênh lệch lớn và chưa đạt yêu cầu cao.
Diện tích trồng ngô năm 2016 ước đạt 1,3 triệu ha, cao hơn so với năm
Năm 2015, chính sách chuyển đổi sang trồng ngô tại những vùng trồng lúa kém hiệu quả đã mang lại kết quả tích cực, với năng suất ngô trung bình ước đạt khoảng 4,6 tấn/ha vào năm 2016 Thành công này có được nhờ sự nhận thức đúng đắn của Đảng, Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về vai trò quan trọng của cây ngô trong nền kinh tế Họ đã kịp thời đưa ra các chính sách, chương trình và biện pháp khuyến khích nghiên cứu khoa học kỹ thuật cũng như mở rộng sản xuất Các nhà khoa học đã nhanh chóng áp dụng những tiến bộ kỹ thuật và giống mới vào sản xuất, góp phần nâng cao năng suất cây ngô.
Tháng 3 năm 2015, Cục trồng trọt, Bộ NN & PTNT đã cho phép sản xuất thương mại ba giống ngô biến đổi gen Đây là bước cuối cùng trong quá trình phê duyệt quyết định thương mại hóa ngô sử dụng công nghệ sinh học của Việt Nam Cũng trong tháng 4 năm 2015, việc chấp thuận giống ngô biến đổi gen đã giúp Việt Nam trở thành quốc gia thứ 29 trên thế giới thương mại hóa cây trồng sử dụng công nghệ sinh học.
Ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh đến sinh trưởng phát triển cây ngô 9 1 Vùng sinh thái thích nghi
2.3.1 Vùng sinh thái thích nghi
Ngô, có nguồn gốc từ Trung Mỹ, đã thích nghi nhanh chóng với nhiều điều kiện sinh thái khác nhau, từ Bắc bán cầu đến Nam bán cầu Cây trồng này có khả năng sinh trưởng ở độ cao từ 0 đến 3.900m so với mực nước biển, cho thấy tính linh hoạt của nó Theo các nhà khoa học tại CIMMYT, cây ngô được phân chia thành 4 vùng sinh thái khác nhau trên toàn cầu.
- Nhiệt đới cao (độ cao trên 2000m so với mặt nước biển)
Việt Nam thuộc vùng sinh thái nhiệt đới thấp, nơi các bộ giống từ khu vực này thể hiện sự thích ứng vượt trội Chúng có khả năng chống chịu tốt và đạt năng suất cao, ngay cả trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt của vùng cao nguyên phía Bắc hoặc vụ Đông ở Đồng bằng Bắc Bộ.
Dựa vào điều kiện đất đai, khí hậu, Việt Nam được chia thánh
8 vùng trồng ngô chính như sau (Ngô Hữu Tình, 2003).
1 Vùng Đông Bắc: ở độ cao 300-900 m so với mặt nước biển
Vụ chính là vụ Xuân, gieo vào tháng 2, tháng 3.
2 Vùng Tây Bắc: ở độ cao từ 600-1000 m Vụ chính Hè Thu gieo trong tháng 4, đầu tháng 5.
3 Vùng Đồng bằng sông Hồng: độ cao 0-200 m Các vụ chính là Vụ Xuân gieo trong tháng 2 Vụ Thu gieo trong tháng 8 và vụ Đông gieo cuối tháng 9, đầu tháng 10.
4 Vùng Bắc Trung Bộ: độ cao 0-200 m Vụ chính là vụ Xuân gieo tháng 1, tháng 2; vụ Đông gieo tháng 10.
5 Vùng Tây Nguyên: độ cao 400-900 m Vụ chính Hè Thu gieo vào tháng 4, đầu tháng 5.
6 Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ: độ cao 0-400 m Vụ chính Hè Thu gieo vào tháng 4; vụ Đông Xuân gieo trong tháng 11, tháng 12.
7 Vùng Đông Nam Bộ: độ cao 0-400 m Vụ chính Hè Thu gieo vào cuối tháng 4; vụ Đông Xuân gieo trong tháng 11; đầu tháng 12.
8 Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long Độ cao 0-10 m Vụ chính là ngô Đông Xuân gieo vào tháng 11, tháng 12.
2.3.2 Ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh đến sự sinh trưởng phát triển cây ngô a Nhu cầu nhiệt độ
Ngô là loại cây ưa nhiệt độ cao, với nhu cầu nhiệt độ tổng cộng từ 1.700 đến 3.700 độ C để hoàn thành chu kỳ sống từ gieo trồng đến thu hoạch So với nhiều loại cây trồng khác, ngô cần nhiều nhiệt hơn để phát triển và chín.
Trọng Nguyên đã nghiên cứu các giống ngô của Trung Quốc và rút ra kết luận rằng giống ngô chín sớm cần tổng tích nhiệt từ 2000-2200 °C, giống chín trung bình từ 2300-2600 °C, và giống chín muộn từ 2500-2800 °C Các nhà khoa học CIMMYT cũng cho rằng ngô phát triển tối ưu trong khoảng nhiệt độ từ 24 °C.
Nhiệt độ cao trên 38°C có tác động tiêu cực đến sự sinh trưởng và phát triển của cây ngô, trong khi nhiệt độ lên tới 45°C có thể gây chết hạt phấn và râu ngô Ngược lại, nhiệt độ quá thấp dưới 12°C cũng ảnh hưởng xấu đến sự sống của cây, đặc biệt trong giai đoạn nảy mầm và ra hoa Tại Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu như Luyện Hữu Chỉ, Trần Hồng Uy, và các tác giả khác đã thống nhất quan điểm rằng các giống ngô khác nhau có nhu cầu tổng tích nhiệt khác nhau để hoàn thành chu kỳ sống của chúng (Ngô Hữu Tình, 2003).
Nước là yếu tố môi trường thiết yếu cho sự sống của cây ngô, với nhu cầu nước lớn, khoảng 349 kg nước cần thiết để sản xuất 1 kg chất khô Ở những vùng nóng, nhu cầu nước càng tăng do bốc hơi cao Mặc dù ngô là cây trồng cạn không yêu cầu nhiều nước, mỗi cây vẫn cần khoảng 200-220 lít nước trong suốt chu kỳ sống Trong giai đoạn đầu, cây phát triển chậm và không cần nhiều nước, nhưng khi đạt 7-13 lá, nhu cầu tăng lên 28-35 m³ nước/ha/ngày, và trong giai đoạn trỗ cờ, cây cần tới 65-70 m³ nước/ha/ngày Cây ngô rất nhạy cảm với độ ẩm, đặc biệt khi còn nhỏ, chỉ cần ngập nước 1-2 ngày cũng có thể dẫn đến chết cây Độ ẩm không khí từ 71-85% và độ ẩm đất từ 61-85% là điều kiện thuận lợi cho cây ngô trong giai đoạn hình thành năng suất Ánh sáng cũng là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến sự phát triển và tích lũy dinh dưỡng của cây.
Chu trình quang hợp C4, như ở cây ngô, có cường độ quang hợp cao gấp ba lần so với chu trình C3, cho phép cây phát triển mạnh mẽ và đạt năng suất cao ngay cả trong điều kiện CO2 thấp Việc khám phá chu trình này đã mở ra tiềm năng năng suất cho các vùng nông nghiệp nhiệt đới chưa được khai thác Ở Việt Nam, điều kiện khí hậu với nhiều nắng hỗ trợ sự sinh trưởng của cây ngô, nhưng tổng tích ôn và số giờ chiếu sáng trong ngày lại thấp, khiến năng suất ngô thường không đạt yêu cầu so với các vùng ôn đới Cụ thể, vụ ngô Đông tại miền Bắc Việt Nam chỉ nhận được 3,9 tỉ kcal/ha, thấp hơn nhiều so với 6,8 tỉ kcal/ha của miền Trung nước Nga Do đó, việc lựa chọn thời vụ gieo trồng hợp lý là rất cần thiết để cây ngô có thể nhận được lượng ánh sáng tối ưu.
2.4 DÒNG THUẦN, VẬT LIỆU TẠO DÒNG THUẦN, CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ DÒNG THUẦN
2.4.1 Dòng thuần, ứng dụng trong chọn tạo giống
Dòng thuần là khái niệm chỉ các dòng tự phối đạt độ đồng hợp tử và ổn định ở nhiều tính trạng Đối với ngô, sau 6-8 đời tự phối, các dòng này thường đạt độ đồng đều cao về chiều cao cây, chiều cao đóng bắp, năng suất, màu sắc và dạng hạt, và được gọi là “dòng thuần”.
Trong quá trình tạo giống ngô lai, dòng thuần đóng vai trò thiết yếu Để phát triển giống ngô lai chất lượng, cần phải có các dòng bố mẹ có năng suất cao, khả năng chống chịu tốt và khả năng kết hợp ổn định qua nhiều vụ và vùng sinh thái khác nhau (Duvick D N, 2001).
Chọn tạo dòng thuần có tiềm năng làm bố mẹ cho giống ngô lai năng suất cao là một công việc quan trọng Đây là mục tiêu chính của chương trình tạo giống ngô nhằm phát triển các giống ổn định và thích nghi với nhiều vùng sinh thái khác nhau.
2.4.2 Vật liệu tạo dòng thuần
Sự phát triển của các giống ngô lai đã dẫn đến sự thay đổi căn bản trong vật liệu chọn tạo dòng Trước những năm 1960, vật liệu chủ yếu là các giống thụ phấn tự do địa phương, nhưng từ giai đoạn 1960 trở đi, đã có nhiều cải tiến đáng kể trong việc lựa chọn và phát triển giống ngô.
Vào những năm 1980, vật liệu tạo dòng chủ yếu bao gồm các quần thể thụ phấn tự do cải tiến và một số giống tổng hợp Trong thập niên 80 và những năm đầu thập niên 90, vật liệu tạo dòng tiếp tục phát triển với sự kết hợp của quần thể giống thụ phấn tự do cải tiến, giống tổng hợp và các tổ hợp lai kép.
Từ cuối thập niên 90 đến nay, vật liệu chính được sử dụng trong việc tạo dòng bao gồm các quần thể giống tổng hợp ưu tú, cùng với các tổ hợp lai đơn và lai kép (Duwick, 2001).
Hiệu quả tạo dòng từ nguồn nguyên liệu khác nhau phụ thuộc vào tiềm năng và phương pháp của nhà tạo giống Việc tạo dòng thuần từ giống thụ phấn tự do thường cho kết quả thấp, với nhiều dòng có sức sống và năng suất giảm Hiện nay, xu hướng là sử dụng nguồn nguyên liệu đã được cải tạo chọn lọc, đặc biệt là các giống ngô lai thương mại, để nâng cao khả năng tạo dòng thuần tốt hơn.
Theo Vasal (1999), nguồn nguyên liệu chọn tạo dòng cần có những đặc tính quan trọng như khả năng kết hợp với các nguồn khác, chịu được áp lực tự phối, ưu thế lai cao, khả năng tạo ra nhiều dòng tốt và sở hữu nhiều đặc tính nông sinh học mong muốn.
Vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu
Bảng 3.1 Danh sách 15 dòng thuần và 2 cây thử tham gia thí nghiệm
Nghiên cứu này sử dụng 15 dòng thuần từ 6 giống ngô lai thương mại của 3 công ty đa quốc gia Trong số đó, có 10 dòng được tạo ra bằng phương pháp tự phối và 5 dòng bằng phương pháp kích tạo đơn bội Ngoài ra, nghiên cứu còn bao gồm 2 dòng đối chứng: D3105M, dòng mẹ của giống ngô lai đơn LVN66, và TRD 9491, dòng mẹ của giống lai LVN102 (PSC102) từ Viện Nghiên cứu Ngô.
Đánh giá tổ hợp lai từ 15 dòng ngô thuần được thực hiện bằng phương pháp lai đỉnh, trong đó 15 dòng thuần mã từ D1 đến D15 được lai với hai cây thử D3105M và TRD9491 Kết quả cho thấy các giống lai đơn LVN66 và LVN102 (PSC102) có khả năng kết hợp chung cao.
Bảng 3.2 Danh sách các dòng tham gia sơ đồ lai đỉnh
Địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm nhằm đánh giá đặc điểm nông sinh học của các dòng ngô và khảo sát các tổ hợp lai đã được thực hiện tại khu ruộng thí nghiệm của Viện Nghiên cứu Ngô, tọa lạc ở thị trấn Phùng, huyện Đan Phượng, Hà Nội.
- Tổ hợp lai triển vọng được khảo nghiệm tác giả tại khu thí nghiệm Ba Vì
– Hà Nội của Công ty CP giống cây trồng Trung ương.
Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá các đặc điểm nông sinh học chính (đặc điểm hình thái, thời gian sinh trưởng, năng suất, khả năng chống chịu ) của
15 dòng thuần tham gia thí nghiệm.
Khảo sát 30 tổ hợp lai được tạo ra từ 15 dòng nghiên cứu cho thấy năng suất hạt của các con lai có thể đánh giá được khả năng di truyền của các dòng bố mẹ.
Phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Phương pháp bố trí thí nghiệm trên đồng ruộng
Thí nghiệm được thiết kế theo phương pháp khối ngẫu nhiên hoàn thiện (RCBD) với 3 lần nhắc lại Mỗi dòng thử nghiệm bao gồm 4 hàng, mỗi hàng dài 5m, và khoảng cách gieo là 60cm x 25cm với 1 cây/hốc.
Thí nghiệm khảo sát THL được thực hiện theo phương pháp khối ngẫu nhiên hoàn thiện với 3 lần nhắc lại Mỗi công thức gieo được bố trí 4 hàng, mỗi hàng dài 5m, với khoảng cách gieo là 70cm x 25cm, tương ứng 1 cây/hốc.
- Các tổ hợp lai đỉnh được tạo ra bằng cách lấy phấn của cây thử lai với các dòng cần thử.
- Thí nghiệm khảo nghiệm tác giả (so sánh giống triển vọng) được bố trí theo khối ngẫu nhiên hoàn thiện 03 lần nhắc lại mỗi công thức gieo
4 hàng, mỗi hàng dài 5m khoảng cách gieo 70cm x 25cm x 1 cây/hốc. 3.4.2 Chăm sóc thí nghiệm
- Phân bón cho 1ha: 2.500kg phân vi sinh + 140kg N + 80 kg P 2 O 5 + 60 kg K 2 O
+ Bón lót: Toàn bộ phân vi sinh + phân lân
+ Bón thúc: Chia làm 3 lần
Lần1: Khi ngô được 3 - 5 lá, bón 1/3 lượng phân đạm + 1/2 lượng phân kali, kết hợp xới phá váng, xới cỏ, tỉa định cây trước khi bón.
Lần 2: Khi ngô 7 - 9 lá, bón 1/3 lượng phân đạm + 1/2 lượng phân kali kết hợp xới cỏ, vun cao.
Lần 3: trước trỗ 10-15 ngày, bón 1/3 lượng phân đạm còn lại
- Tưới và tiêu nước chủ động, đảm bảo độ ẩm đất từ 70 – 80
- Phát hiện và có biện pháp phòng trừ sâu, bệnh hại kịp thời. 3.4.3 Các chỉ tiêu đánh giá, theo dõi
Theo hướng dẫn khảo sát, so sánh, khảo nghiệm các giống ngô lai và Quy chuẩn khảo kiểm nghiệm giống ngô QCVN 01-56:2011/BNNPTNT Thời gian sinh trưởng
- Ngày tung phấn: Theo dõi khi có trên 50% số cây/ô tung phấn.
- Ngày phun râu: Theo dõi khi có trên 50% số cây/ô phun râu.
- Ngày chín sinh lý: Theo dõi khi có trên 50% số bắp/ô có xuất hiện điểm đen ở chân hạt.
Chỉ tiêu hình thái cây
- Chiều cao cây cuối cùng (cm): Tính từ gốc sát mặt đất đến điểm bắt đầu phân nhánh bông cờ Chọn 10 cây/ô đo liên tục trừ cây đầu hàng.
- Chiều cao đóng bắp (cm): Tính từ sát mặt đất đến đốt mang bắp hữu hiệu trên cùng.
- Số lá: Đếm tất cả các lá thật và lá dưới bông cờ, để đếm chính xác, các lá thứ 5 và thứ 10 được đánh dấu.
- Chiều dài cờ: (chiều dài trục chính) (cm): Đo từ đốt có nhánh cờ đầu tiên đến mút bông cờ.
- Số nhánh cờ (số nhánh cấp I): Tính số nhánh từ trục chính.
- Màu cờ: Xác định màu sắc mày hoa lúc đang tung phấn
- Màu râu: Xác định màu sắc của râu lúc râu dài 3 – 4cm
Khả năng chống chịu sâu bệnh
Sâu đục thân được đánh giá theo thang điểm từ 1 đến 5, với điểm 1 dành cho trường hợp dưới 5% số cây bị sâu, điểm 2 cho 5-15% số cây bị sâu, điểm 3 cho 15-25%, điểm 4 cho 25-35%, và điểm 5 cho những trường hợp trên 35% số cây bị sâu.
Bệnh đốm lá và bệnh khô vằn được chấm điểm từ 0 đến 5 dựa trên tỷ lệ cây bị bệnh Cụ thể, điểm 0 được ghi nhận khi không có cây nào bị bệnh, điểm 1 cho 1-10% cây bị bệnh, điểm 2 cho 11-25%, điểm 3 cho 26-50%, điểm 4 cho 51-75%, và điểm 5 khi hơn 75% số cây bị bệnh.
- Đỗ rễ: Đếm những cây bị nghiêng > so với chiều thẳng đứng của cây, tỷ lệ % cây bị đổ rễ/ô trước khi thu hoạch.
Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất
- Chiều dài bắp hữu hiệu (cm): Được đo từ phần có hàng hạt trung bình
- Đường kính bắp (cm): Đo giữa bắp
- Số hàng hạt/bắp: Đếm số hàng hạt trên bắp
- Số hạt/bắp: Đếm theo hàng hạt có chiều dài trung bình trên bắp -Tỷ lệ hạt/bắp
+ Năng suất thực thu(NSTT) (tạ/ha): Được tính theo công thức sau:
Trong bài viết này, FW đại diện cho trọng lượng ô (kg), MC là độ ẩm của hạt khi thu hoạch, và RC là độ ẩm tiêu chuẩn ở mức 14% Ngoài ra, S biểu thị điện tích ô thí nghiệm, P1 là khối lượng mẫu (g), còn P2 là khối lượng lõi.
- Đánh giá ƯTL: Omarov 1975 (dẫn theo Trần Duy Quý, 1994) đã đưa ra các công thức tính ƯTL như sau:
+ Ưu thế lai thực H BP (%): Là giá trị một tính trạng nào đó của con lai F1 so với giá trị của bố (mẹ) tốt nhất (BP)
Ưu thế lai chuẩn (Standard heterosis – Hs) là giá trị của một tính trạng cụ thể ở con lai (F1) so với giá trị của giống thương mại đại trà, thường được sử dụng làm giống đối chứng Điều này cho thấy sự cải thiện về tính trạng ở con lai so với giống gốc, giúp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
S Trong đó: + Hs là ưu thế lai chuẩn;
+ F 1 là giá trị con lại F 1 ;
+ S là giá trị giống đối chứng.
+ Ưu thế lai trung bình: Giá trị một tính trạng nào đó của con lai (F1) so với giá trị trung bình của bố mẹ (MP).
Khả năng kết hợp năng suất của dòng được xác định thông qua phương pháp lai đỉnh Dữ liệu được thu thập từ tài liệu "Các phương pháp lai thử và phân tích KNKH trong các thí nghiệm về ưu thế lai" của Ngô Hữu Tình và Nguyễn Đình Hiền (1996).
3.4.4 Phương pháp xử lý số liệu
- Các tham số thống kê cơ bản như : Mean, SD, CV%, LSD được tính toán trên phần mềm Excel 2010 và IRRISTAT 5.0.
Bài viết này tập trung vào việc xác định khả năng kết hợp chung và phương sai khả năng kết hợp riêng của 15 dòng cây trồng dựa trên chỉ tiêu năng suất Phân tích được thực hiện bằng chương trình phân tích phương sai Topcross (Ver 2.0) do Nguyễn Đình Hiền phát triển vào năm 1995 Kết quả sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về tiềm năng di truyền và khả năng cải thiện năng suất của các dòng cây trồng này.
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Kết quả đánh giá đặc điểm nông sinh học của 15 dòng ngô
Trong quá trình chọn tạo giống ngô lai, việc đánh giá dòng là một bước quan trọng không thể thiếu, được các nhà chọn tạo giống đặc biệt chú trọng Qua việc đánh giá này, các nhà nghiên cứu có thể loại bỏ những dòng kém chất lượng và lựa chọn những dòng ưu tú có đặc tính nông sinh học quý giá, phù hợp với định hướng nghiên cứu cụ thể Một số tính trạng quan trọng được quan tâm bao gồm năng suất, thời gian sinh trưởng, đặc điểm hình thái và khả năng chống chịu.
4.1.1 Thời gian sinh trưởng và đặc điểm hình thái của 15 dòng ngô
Thời gian sinh trưởng của 15 dòng ngô được nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển giống ngô lai ngắn ngày, giúp chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng vụ và ứng phó với điều kiện bất lợi Việc đánh giá này cho phép phân loại các dòng ngô thành nhóm chín sớm, trung bình và chín muộn, từ đó thiết lập sơ đồ lai hợp lý nhằm đảm bảo sự trùng khớp giữa thời điểm tung phấn và phun râu.
Trong sản xuất hạt giống ngô lai F1, thời gian sinh trưởng của dòng ngô bố mẹ là yếu tố quan trọng quyết định thời điểm trồng phù hợp, nhằm đảm bảo sự trùng khớp giữa việc tung phấn của ngô bố và phun râu của ngô mẹ Điều này giúp tăng tỷ lệ kết hạt và nâng cao năng suất hạt lai F1 Kết quả theo dõi được trình bày trong bảng 4.1.
Thời gian từ gieo đến tung phấn của các dòng trong thí nghiệm dao động từ 61 đến 68 ngày trong vụ Xuân Dòng D5 có thời gian ngắn nhất là 61 ngày, sớm hơn dòng đ/c1 và đ/c2 lần lượt 6 và 5 ngày Ngược lại, dòng D6 có thời gian từ gieo đến tung phấn dài nhất, đạt 68 ngày, tương đương với dòng đối chứng D3105M và dài hơn dòng đối chứng TRD9491 hai ngày.
Bảng 4.1 Thời gian sinh trưởng của các dòng ngô thí nghiệm vụ Xuân 2015 tại Viện Nghiên cứu Ngô
Thời gian từ gieo đến phun râu của các dòng nghiên cứu dao động từ 61 đến 69 ngày Trong đó, dòng D5 có thời gian ngắn nhất, chỉ 61 ngày, sớm hơn dòng đ/c 1 là 9 ngày và đ/c 2 là 8 ngày.
D15 có thời gian từ gieo đến phun râu muộn nhất đạt 69 ngày.
Chênh lệch thời gian tung phấn phun râu giữa các dòng thí nghiệm và hai dòng đối chứng dao động từ -3 đến 3 ngày Dòng D4 và D5 cho thấy sự trùng khớp về thời gian tung phấn, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thụ phấn, thụ tinh và kết hạt Ngược lại, dòng D1 và TRD9491 có chênh lệch thời gian lớn nhất, lần lượt là 3 và -3 ngày Vì vậy, trong quá trình lai tạo, cần ưu tiên thụ phấn cho những dòng có chênh lệch lớn trước nhằm tránh tình trạng râu khô, đảm bảo đủ phấn và nâng cao độ kết hạt của bắp.
Thời gian từ gieo đến chín sinh lý của các dòng nghiên cứu dao động từ 114 đến 121 ngày Trong 15 dòng nghiên cứu, có 4 dòng có thời gian sinh trưởng ngắn hơn 2 dòng đối chứng Đặc biệt, dòng D5 có thời gian sinh trưởng ngắn nhất là 114 ngày, sớm hơn dòng đối chứng 1 là 6 ngày.
2 ngày Dòng D15 có thời gian sinh trưởng dài nhất đạt 121 ngày muộn hơn hai dòng đối chứng D3105M và TRD9491 lần lượt ở mức 1 và 5 ngày.
- Đặc điểm bông cờ của 15 dòng ngô nghiên cứu:
Chiều dài bông cờ của các dòng tham gia thí nghiệm dao động từ 18,4 đến 29,7 cm, với dòng D9 có chiều dài bông cờ lớn nhất (29,7 cm) và dòng D14 có chiều dài thấp nhất (18,4 cm) Chiều dài bông cờ lớn hơn không chỉ cho thấy khả năng cho phấn nhiều hơn mà còn là tiêu chí quan trọng trong việc lựa chọn dòng bố cho việc chọn tạo giống và sản xuất hạt giống F1.
Số nhánh cờ và chiều dài bông cờ là những chỉ tiêu quan trọng trong việc lựa chọn dòng bố cho thí nghiệm lai và sản xuất hạt F1 Tuy nhiên, số lượng nhánh cờ và chiều dài bông cờ không hoàn toàn quyết định khả năng cho phấn của mỗi dòng Trong thí nghiệm, số nhánh cờ của các dòng dao động từ 5,2 đến 10,5 nhánh, với dòng D5 có số nhánh cờ cao nhất là 10,5 và dòng D10 có số nhánh cờ thấp nhất là 5,2.
Màu râu của dòng là một đặc điểm quan trọng để nhận diện và đánh giá các dòng trong nghiên cứu Trong thí nghiệm, 15 dòng tham gia cho thấy sự đa dạng về màu sắc của râu, bao gồm 3 dòng có râu màu đỏ, 1 dòng có râu màu hồng, và 11 dòng có râu màu trắng.
Tương tự như màu râu, màu cờ cũng là đặc điểm quan trọng để nhận diện các dòng trong nghiên cứu Trong thí nghiệm, màu cờ của các dòng chủ yếu tập trung ở hai màu trắng và tím.
Bảng 4.2 Đặc điểm hình thái bông cờ của 15 dòng ngô thí nghiệm vụ Xuân 2015 tại Viện Nghiên cứu Ngô
Các dòng được tạo ra bằng phương pháp kích tạo đơn bội không có sự khác biệt lớn về các tính trạng màu râu và màu cờ so với dòng tự phối kết hợp với fullsib Tuy nhiên, theo dõi 10 cây/dòng cho thấy các dòng kích tạo đơn bội có thời gian tung phấn, phun râu và chín sinh lý tập trung, đồng đều hơn so với dòng truyền thống.
Đánh giá đặc điểm hình thái của 15 dòng ngô nghiên cứu là rất quan trọng để hiểu rõ tình hình sinh trưởng và phát triển của từng dòng Việc này giúp xác định dòng ngô nào có khả năng phát triển tốt hay xấu, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất cuối cùng.
Kết quả đánh giá đặc điểm hình thái của các dòng ngô thể hiện qua bảng 4.3.
Bảng 4 3 Đặc điểm hình thái của 15 dòng ngô thí nghiệm vụ Xuân
2015 tại Viện Nghiên cứu Ngô
Chiều cao cây của các dòng dao động từ 121,8 cm đến 175,0 cm Dòng
Dòng D11 có chiều cao cây thấp nhất với 121,8 cm, trong khi dòng D7 có chiều cao cao nhất đạt 175,0 cm Chiều cao của dòng bố mẹ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất hạt lai F1 Tại những vùng sản xuất hạt F1 quy mô lớn, khi không thể thụ phấn bằng tay, dòng bố cần có chiều cao vượt trội hơn dòng mẹ để tối ưu hóa hiệu quả phát tán phấn nhờ gió.
Chiều cao đóng bắp là yếu tố quan trọng trong việc chọn giống ngô chống đổ, vì các giống ngô lai có chiều cao đóng bắp lớn thường dễ bị nghiêng và đổ gẫy khi gặp thời tiết xấu Ngược lại, chiều cao đóng bắp quá thấp có thể làm tăng nguy cơ nhiễm bệnh nấm từ đất Trong quá trình thụ phấn, giống ngô có chiều cao đóng bắp cao sẽ thuận lợi hơn so với giống thấp Kết quả thử nghiệm cho thấy chiều cao đóng bắp của các dòng ngô biến động từ 35,6 cm đến 68,2 cm, trong đó dòng D7 có chiều cao đóng bắp cao nhất, vượt trội hơn 2 dòng đối chứng, trong khi dòng D11 có chiều cao thấp nhất là 35,6 cm.
Kết quả khảo sát đánh giá các tổ hợp lai đỉnh trong vụ thu 2015
4.2.1 Thời gian sinh trưởng của các tổ hợp lai đỉnh trong vụ Thu 2015
Thời gian từ gieo đến tung phấn của 30 THL được tạo ra từ 15 dòng thí nghiệm dao động từ 54 đến 59 ngày, trong khi thời gian từ gieo đến phun râu là từ 54 đến 60 ngày Các THL tham gia thí nghiệm chỉ có sự chênh lệch nhỏ về thời gian tung phấn và phun râu, dao động từ -2 đến 2 ngày Đặc biệt, có 5/30 THL có thời gian tung phấn là 54 ngày, ngắn hơn 1 ngày so với giống đối chứng LVN61 và ngắn hơn 3 ngày so với giống NK67 Ngoài ra, 12/30 THL có thời gian tung phấn tương đương giống đối chứng LVN61 và cũng ngắn hơn giống NK67.
Bảng 4.6 Thời gian sinh trưởng của các tổ hợp lai đỉnh vụ Thu 2015 tại Viện Nghiên cứu Ngô TT
Tổ hợp lai D8 x TRD9491 có thời gian phun râu sớm nhất, chỉ trong 54 ngày, nhanh hơn giống đối chứng LVN61 hai ngày và NK4300 bốn ngày Ngược lại, hai tổ hợp lai D4 x TRD9491 và D14 x D3105M lại có thời gian phun râu muộn nhất.
Thời gian sinh trưởng của các tổ hợp lai được đánh giá trong bảng 4.6 cho thấy rằng thời gian này dao động từ 60 ngày, muộn hơn so với giống đối chứng LVN61 bốn ngày và NK67 hai ngày.
Trong khoảng thời gian từ 110 đến 118 ngày, tổ hợp lai giữa hai dòng (D5 x D3105M) có thời gian sinh trưởng ngắn nhất là 110 ngày, ngắn hơn hai giống đối chứng NK67 và LVN61 lần lượt 8 ngày và 4 ngày Tổ hợp lai (D15 x D3105M) dài hơn giống LVN61 4 ngày và tương đương với giống NK67 Qua theo dõi, các tổ hợp lai có sự tham gia của dòng đơn bội kép được tạo ra bằng phương pháp sử dụng cây kích tạo đơn bội (D3, D6, D9, D11, D13) cho thấy số cá thể tung phấn, phun râu và chín sinh lý tập trung hơn so với các tổ hợp lai từ dòng tự phối kết hợp với 02 cây thử, trong khi chỉ tiêu chênh lệch giữa tung phấn và phun râu của hai nhóm dòng không có sự khác biệt.
4.2.2 Đặc điểm hình thái của các tổ hợp lai đỉnh
Theo bảng số liệu 4.7, chiều cao cây của các tổ hợp lai dao động từ 172,3 cm đến 215,3 cm Trong đó, tổ hợp lai D11 x TRD9491 có chiều cao thấp nhất với 172,3 cm, trong khi tổ hợp lai D4 x TRD9491 đạt chiều cao cao nhất là 215,3 cm, vượt trội hơn cả hai giống đối chứng.
Chiều cao đóng bắp của các tổ hợp lai biến động từ 76,5 cm đến 118,3 cm Trong số đó, tổ hợp lai D2 x TRD9491 có chiều cao thấp nhất là 76,5 cm, thấp hơn cả hai giống đối chứng Ngược lại, tổ hợp lai D7 x TRD9491 đạt chiều cao cao nhất là 118,3 cm, vượt trội hơn cả hai giống đối chứng.
Bảng 4.7 Đặc điểm hình thái các tổ hợp lai đỉnh vụ Thu 2015 tại Viện Nghiên cứu Ngô
+ Chiều dài bông cờ và số nhánh cờ:
Chiều dài bông cờ và số nhánh cờ của các tổ hợp lai dao động từ 33,3 đến 42,6 cm và 12,5 đến 14,5 nhánh Hầu hết các tổ hợp lai trong thí nghiệm đều đạt kích thước bông cờ khá lớn, có khả năng cho phấn nhiều và thời gian cho phấn kéo dài.
+ Số lá của các tổ hợp lai:
Theo quan sát các tổ hợp lai, số lượng lá dao động từ 17,1 đến 19,6 lá Các tổ hợp lai này có bộ lá xanh tươi cho đến khi thu hoạch, với hình dáng cây gọn gàng và bộ lá thoáng.
Các tổ hợp lai trong thí nghiệm cho thấy độ đồng đều cao về các chỉ tiêu hình thái Đặc biệt, hai tổ hợp lai từ dòng đơn bội kép và cây thử D3105M cùng TRD9491 có độ đồng đều vượt trội so với hai giống đối chứng và các tổ hợp lai khác Cụ thể, các tổ hợp lai D9 x D3105M và D9 x TRD9491 thể hiện chỉ số CV% thấp hơn, cho thấy sự ổn định về hình thái tốt hơn.
4.2.3 Ưu thế lai về thời gian sinh trưởng, chiều cao cây giữa dòng bố mẹ và tổ hợp lai
Thời gian sinh trưởng của giống ngô là yếu tố quan trọng mà các nhà chọn tạo giống chú trọng trong các chương trình phát triển giống ngô lai ngắn ngày Điều này giúp tối ưu hóa việc luân canh và tăng vụ, đồng thời thích ứng với những điều kiện bất thuận như hạn hán.
Qua đánh giá ƯTL trung bình H MP và ƯTL chuẩn về thời gian sinh trưởng của 30 tổ hợp lai đỉnh, cho thấy hầu hết các tổ hợp lai có thời gian sinh trưởng ngắn hơn so với bố mẹ Điều này được thể hiện qua giá trị ƯTL trung bình H MP âm, dao động từ -5,98 đến -0,43, tương đương với thời gian giảm từ 1 đến 8 ngày.
So với giống NK67, hầu hết các tổ hợp lai có thời gian sinh trưởng ngắn hơn từ 1 đến 8 ngày Đặc biệt, tổ hợp lai D5 x D3105M có thời gian sinh trưởng ngắn hơn 8 ngày so với giống NK67.
Tất cả các tổ hợp lai tạo từ lai đỉnh đều có chiều cao cây cao hơn so với bố mẹ, được thể hiện qua giá trị H BP Tuy nhiên, hầu hết các tổ hợp lai lại có chiều cao cây trung bình thấp hơn giống NK67.
Bảng 4.8 Ưu thế lai về thời gian sinh trưởng và chiều cao cây của dòng bố mẹ và con lai vụ Thu 2015 tại Viện nghiên cứu Ngô
4.2.4 Một số đặc điểm chống chịu của các tổ hợp lai đỉnh
Kết quả đánh giá các đặc điểm chống chịu của các tổ hợp lai cho thấy, hầu hết các tổ hợp lai và giống đối chứng LVN61 đều có khả năng chống chịu tốt.
Trong nghiên cứu về bệnh đốm lá, có 23/30 tổ hợp lai bị nhiễm bệnh ở mức nhẹ, tương đương với hai giống đối chứng LVN61 và NK67, trong khi 7/30 tổ hợp lai bị nhiễm ở mức nặng hơn Đối với bệnh khô vằn, 10/30 tổ hợp lai không bị nhiễm, 15/30 tổ hợp lai bị nhiễm ở mức nhẹ tương đương với LVN61 và NK67, và 5/30 tổ hợp lai bị nhiễm ở mức nặng hơn so với hai giống đối chứng này.
Kết quả khảo nghiệm tác giả
Tổ hợp lai VN558 (D8 x D3105M) và VN577 (D9 x TRD949) đã được khảo nghiệm bởi tác giả cùng Công ty CP Giống cây trồng Trung Ương tại khu đất thí nghiệm ở Ba Vì, Hà Nội Kết quả khảo nghiệm được trình bày chi tiết trong các bảng 4.16, 4.17, 4.18, 4.19 và 4.20.
Kết quả từ bảng 4.16 cho thấy hai tổ hợp lai VN577 và VN558 có thời gian tung phấn phun râu tương đương giống đối chứng NK6654 và ngắn hơn 2 ngày so với giống DK9901 Tổ hợp lai VN577 có thời gian tung phấn ngắn hơn 1 ngày so với 3 giống còn lại Tuy nhiên, VN577 và VN558 lại có thời gian sinh trưởng ngắn hơn hai giống đối chứng, với mức chênh lệch lần lượt là 8 và 9 ngày.
Bảng 4.16 Thời gian sinh trưởng của các tổ hợp lai vụ Xuân 2016 tại Ba Vì –Hà Nội
3 4 Bảng 4.17 Đặc điểm hình thái của các tổ hợp lai vụ Xuân 2016 tại Ba Vì – Hà Nội
Ghi chú: Trạng thái cây, bắp: 1- tốt 5 – rất kém; Độ kín lá bi: 1 – rất kín 5 – rất hở
Tổ hợp lai VN577 và VN558 có chiều cao cây và chiều cao đóng bắp vượt trội hơn giống đối chứng NK6654 Đặc biệt, tổ hợp lai VN577 đạt chiều cao cây và chiều cao đóng bắp tương đương với giống DK9901.
Tổ hợp lai VN577 có trạng thái cây kém hơn so với giống đối chứng, trong khi đó, tổ hợp lai VN558 thể hiện trạng thái cây tương đương với hai giống đối chứng.
Trạng thái bắp của tổ hợp lai VN577 và VN558 được đánh giá cao hơn giống DK9901 và tương đương với NK6654 Tất cả bốn giống trong thí nghiệm đều có độ hở lá bi đạt mức điểm 2.
Số lá của tổ hợp lai VN577 thấp nhất ở mức 19,6 lá/cây, giống DK9901 có số lá trên cây nhiều nhất (21,7 lá/cây).
Bảng 4.18 Các yếu tố cấu thành năng suất của các tổ hợp lai vụ Xuân 2016 tại Ba Vì – Hà Nội
Tổ hợp lai VN558 nổi bật với chiều dài bắp cao nhất, vượt trội so với giống đối chứng DK9901 và NK6654 Trong khi đó, tổ hợp VN577 có chiều dài bắp tương đương với NK6654 và dài hơn DK9901 Về đường kính bắp, số hàng hạt/bắp và số hạt/hàng, tổ hợp VN558 cũng đạt kết quả cao nhất, vượt qua hai giống đối chứng Tuy nhiên, tỷ lệ hạt/bắp của tổ hợp VN558 lại thấp hơn so với DK9901 và NK6654.
Tổ hợp lai VN558 có trọng lượng trung bình bắp cao nhất so với hai giống đối chứng, nhưng chỉ số P1000 của nó lại thấp hơn Trong khi đó, giống VN577 nổi bật với dạng hạt bán đá màu cam đẹp và có chỉ số P1000 lớn nhất đạt 309,6 g, vượt trội hơn hai giống đối chứng.
Qua kết quả bảng 4.19 cho thấy hai tổ hợp lai tham gia khảo nghiệm có
Bảng 4.19 Các yếu tố cấu thành năng suất của các tổ hợp lai vụ Xuân 2016 tại Ba Vì – Hà Nội
Theo số liệu từ bảng 4.20, các giống khảo nghiệm đều bị nhiễm nhẹ bởi sâu đục thân, sâu đục bắp và bệnh khô vằn Tuy nhiên, các giống này không bị ảnh hưởng bởi rệp cờ và bệnh đốm lá.
Bảng 4.20 Mức độ nhiễm sâu bệnh hai chính của các tổ hợp lai vụ Xuân 2016 tại Ba Vì – Hà Nội
Ghi chú: Mức độ sâu bệnh hại: 0 – Không nhiễm; 1 – nhiễm rất nhẹ; 5 – nhiễm rất nặng
Kết quả khảo nghiệm tại Ba Vì – Hà Nội cho thấy hai tổ hợp lai triển vọng có năng suất vượt trội so với hai giống đối chứng, đạt mức tin cậy cao Cả hai tổ hợp này không chỉ có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt mà còn sở hữu màu sắc và hình thái bắp đẹp, mang lại tiềm năng thương mại cao.