Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu
Trạm thú y huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát tỉnh Thanh Hóa; Chi cục thú y tỉnh Thanh Hóa;
Bộ môn Vi sinh vật – Truyền nhiễm, khoa Thú y, Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đàn lợn nuôi mắc bệnh Dịch tả lợn tại các huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát tỉnh Thanh Hóa từ năm 2014 – 2016.
Nội dung nghiên cứu
3.4.1 Điều tra tình hình bệnh dịch tả lợn trên địa bàn 3 huyện miền núi Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát - tỉnh Thanh Hóa
Nghiên cứu về đàn lợn nuôi mắc bệnh tập trung vào các yếu tố quan trọng như tỷ lệ tiêm phòng, tỷ lệ tử vong, tỷ lệ chết và tỷ lệ mắc bệnh theo giống và lứa tuổi Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng xem xét tỷ lệ mắc bệnh dựa trên hình thức chăn nuôi, nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan và sâu sắc về tình trạng sức khỏe của đàn lợn.
- Nghiên cứu xác định hệ số năm dịch, hệ số mùa dich
3.4.2 Điều tra khả năng đáp ứng miễn dịch của đàn lợn bằng phản ứng ELISA
- Điều tra khả năng đáp ứng miễn dịch của lợn sau tiêm phòng vacxin DTL ở thời điểm 21 ngày, 90 ngày và 180 ngày sau tiêm phòng
- Điều tra kháng thể kháng vi rút dịch tả lợn trong huyết thanh của lợn giết mổ ở các điểm giết mổ tại 3 huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Thanh Hóa.
Phương pháp nghiên cứu
3.5.1 Phương pháp thu thập số liệu
- Sử dụng số liệu lưu trữ thứ cấp ở Chi cục thú y Thanh Hóa, trạm thú y huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát từ năm 2014 – 2016
- Phiếu trả lời kết quả chẩn đoán bệnh Dịch tả lợn của Trung tâm chẩn đoán thú y trung ương được lưu trữ tại Chi cục thú y Thanh Hóa
3.5.2 Phương pháp điều tra dịch tễ học
- Dịch tễ học mô tả ;
- Dịch tễ học phân tích
3.5.3 Phương pháp tính toán số liệu
Số mẫu có kháng thể
- Tỷ lệ mẫu có kháng thể (%) = x 100
Số mẫu xét nghiệm (1): Những mẫu huyết thanh pha loãng hơn 1/4 mà cho kết quả dương tính là mẫu bảo hộ
- Tỷ lệ mắc bệnh (TLMB):
Số động vật mắc bệnh trong một thời kỳ
Tổng đàn loài động vật đó trong thời kỳ đó
* Hệ số tháng dịch (HSTD):
Chỉ số chết trung bình ngày/tháng (B)
HSTD Chỉ số chết trung bình ngày/năm (C) Trong đó:
B = Số chết của một tháng
Số ngày của tháng đó (28, 29, 30, 31 ngày)
C = Số chết của một năm (365 ngày)
Tháng nào có HSTD lớn hơn 1 được coi là tháng dịch Nhiều tháng có HSTD > 1 là mùa dịch
* Tỷ lệ mắc bệnh (TLMB)
Số động vật mắc bệnh trong một thời kỳ TLMB = x 100
Tổng đàn loài động vật đó trong thời kỳ đó
Thời kỳ nghiên cứu có thể là 1 tháng, 1 năm hoặc 5 năm, tùy thuộc vào nội dung cụ thể, nhằm xác định tỷ lệ mắc bệnh tổng đàn theo từng khoảng thời gian này.
Tổng đàn là tổng số gia súc trong một xã hoặc huyện tại cùng một thời điểm (TĐX, TĐH) TĐX có thể bao gồm một số động vật từ các xã không bị bệnh.
Số chết do bệnh DTL trong một thời kỳ TLC = x 100
Tổng số đàn động vật trong cùng thời kỳ
Số gia súc chết vì DTL
Tổng số gia súc mắc bệnh
Số mẫu có kháng thể
- Tỷ lệ mẫu có kháng thể (%) = x 100
Số mẫu xét nghiệm (1):Những mẫu huyết thanh pha loóng hơn ẳ mà cho kết quả dương tớnh là mẫu bảo hộ
- Tỷ lệ mắc bệnh (TLMB):
Số động vật mắc bệnh trong một thời kỳ TLMB (%) = x 100 Tổng đàn loại động vật đó trong thời kỳ đó
- Hệ số tháng dịch (HSTD):
Chỉ số trung bình ngày/tháng (A) HSTD Chỉ số chết trung bình ngày/năm (B)
Số chết của một tháng
(A) Số ngày của tháng đó
Số chết của một năm (B) 365 ngày
3.5.4 Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu điều tra, thu thập được xử lý trên phần mềm Microsoft Excel 2010
3.5.5 Phương pháp chẩn đoán bệnh
- Chẩn đoán qua triệu chứng lâm sàng Lợn mắc Dịch tả lợn qua quan sát thường thấy các dấu hiệu như:
+ Mắt viêm đỏ có dử màu xám hay nâu đen
+ Ở chỗ da mỏng như bẹn, bụng có nhiều điểm, nốt xuất huyết nhỏ bằng đầu đinh ghim (như muỗi đốt) màu đỏ sau chuyển sang màu tím
+ Niêm mạc miệng, lợi viêm xuất huyết, có khi có mụn loét nông hay sâu, phủ bựa màu trắng xám hoặc màu vàng nhạt
+ Lúc đầu phân táo sau tiêu chảy nặng có khi ra cả máu tươi, phân lỏng màu vàng xám có mùi tanh khắm đặc trưng
+ Lợn có biểu hiện thần kinh, có những cơn co giật, lợn đi chệnh choạng, đầu vẹo, bại liệt nhất là bại liệt 2 chân sau
Mổ khám thường phát hiện các bệnh tích đặc trưng như viêm niêm mạc dạ dày, đặc biệt ở vùng thân vị và hạ vị với các đám xuất huyết hoặc loét Ngoài ra, còn có xuất huyết và loét niêm mạc ruột, chủ yếu ở các mảng Payer, cùng với các nốt loét hình cúc áo trên niêm mạc van hồi manh tràng, và thỉnh thoảng có nốt loét ở niêm mạc ruột già.
Rìa lách bị nhồi huyết tạo ra các đám tổ chức hoại tử có màu tím đen, thường có hình tam giác với đỉnh hướng vào trong Khi quan sát rìa lách, có thể thấy hình dạng răng cưa lồi lõm không đều.
- Làm phản ứng ELISA xác định kháng thể có trong huyết thanh lợn
- Mẫu xét nghiệm là máu lợn lấy từ lợn nuôi tại các huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát - Thành Phố Thanh Hóa
Để kiểm tra kháng thể kháng virus DTL sau tiêm phòng, chúng tôi đã tổ chức tiêm 40 lợn thịt, 15 lợn nái và 7 lợn đực giống tại mỗi huyện Sau đó, chúng tôi tiến hành lấy máu từ nhóm này để xét nghiệm.
- Lấy máu từ tĩnh mạch tai, vịnh tĩnh mạch cổ lợn
- Lượng máu cần cho mỗi mẫu là 5 ml
Sau khi lấy máu, nghiêng ống nghiệm ở góc 45 độ trong 2 giờ ở nhiệt độ phòng để tách huyết thanh Sau đó, chắt huyết thanh sang ống nghiệm vô trùng khác Nếu không sử dụng ngay, huyết thanh cần được bảo quản ở nhiệt độ 1 - 4 độ C.
3.5.6.3 Dùng phản ứng ELISA để xác định kháng thể có trong huyết thanh lợn
Sử dụng bộ kit ELISA của hãng IDEXX để phát hiện kháng thể dịch tả lợn theo tiêu chuẩn TCVN 5273:2010, được biên soạn bởi Cục thú y và đề xuất bởi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tiêu chuẩn này đã được Tổng cục Đo lường Chất lượng thẩm định và Bộ Khoa học và Công nghệ công bố Bước đầu tiên là chuẩn bị nguyên liệu cần thiết cho quá trình kiểm tra.
Bộ kit bao gồm đĩa gắn kháng nguyên virus dịch tả lợn, các dung dịch pha loãng mẫu huyết thanh, cơ chất, dung dịch dừng phản ứng, Conjugate, cùng với đối chứng huyết thanh dương tính và âm tính đã được pha chế sẵn.
- Dung dịch rửa đặc 10 lần (10x): khi dùng pha loãng 10 lần với nước cất
2 lần và bảo quản ở 4 0 C trong 3 ngày hoặc tủ âm trong vòng 1 năm
- Chuẩn bị mẫu kiểm tra: là huyết thanh hoặc huyết tương
Tất cả các chất tham gia phản ứng phải được để ở nhiệt độ phòng (từ 18 -
25 0 C) trong 1 giờ trước khi làm phản ứng.\ b Tiến hành phản ứng
- Nhỏ 50 l dung dịch pha loãng mẫu vào các lỗ đối chứng và lỗ cho mẫu kiểm tra
- Nhỏ 50 l huyết thanh đối chứng âm tính vào lỗ A1, A2
- Nhỏ 50 l huyết thanh đối chứng dương tính vào lỗ B1, B2
- Nhỏ 50 l huyết thanh kiểm tra vào các lỗ kế tiếp (xem sơ đồ đĩa)
- Lắc nhẹ đĩa phản ứng, đậy nắp đặt vào hộp ẩm ủ ở nhiệt độ phòng, 2 giờ hoặc qua đêm
- Rửa đĩa 3 lần với dung dịch rửa
Nhỏ 100 µl Conjugate (kháng thể kháng virus dịch tả lợn gắn men HRPO) vào các lỗ phản ứng Sau đó, đặt đĩa phản ứng vào hộp ẩm và để ở nhiệt độ phòng trong 30 phút để đạt được kết quả chính xác.
- Rửa đĩa 3 lần với dung dịch rửa
- Nhỏ 100 l cơ chất vào các lỗ phản ứng Để vào hộp tối trong 10 phút ở nhiệt độ phòng
- Nhỏ 100 l dung dịch dừng phản ứng vào các lỗ phản ứng
- Đọc kết quả: Bằng máy đọc ELISA, kính lọc 450 nm c Đánh giá kết quả
- Tính giá trị trung bình OD (2 lỗ một mẫu): của các lỗ đối chứng dương tính, đối chứng âm tính và các mẫu xét nghiệm)
Ví dụ : ODđc dương tính= (ODB1+ ODB2)/2
- Tính toán kết quả : bằng công thức :
- Phản ứng được chấp nhận: khi ODđc âm tính lớn hơn
0,50 và Blocking% của đối chứng dương tính lớn hơn 50%
- Đánh giá mẫu xét nghiệm:
+ Huyết thanh dương tính khi có Blocking% lớn hơn hoặc bằng 40% + Huyết thanh âm tính khi có Blocking% nhỏ hơn hoặc bằng 30%
+ Nghi ngờ khi có Blocking% nằm giữa 30% và 40% Mẫu nghi ngờ lấy máu lần 2 để kiểm tra lại
Blocking% ODđc âm tính - OD mẫu xét nghiệm
Kết quả thảo luận
Tình hình chăn nuôi tại Thanh Hóa
Từ ngày 01 đến 10 tháng 10 năm 2016, lực lượng điều tra cấp huyện, thị xã và thành phố đã tiến hành điều tra 17 doanh nghiệp và hợp tác xã, 653 trang trại, và thực hiện điều tra chọn mẫu 1.294 trong tổng số 3.653 gia trại lợn và gia cầm Họ cũng thu thập thông tin từ 5.891 thôn về chăn nuôi trâu, bò và các loại chăn nuôi khác, đồng thời điều tra chọn mẫu 5.059 hộ chăn nuôi lợn và gia cầm, cùng 4.340 hộ chăn nuôi trâu bò Những dữ liệu này sẽ được sử dụng để tính toán số lượng đàn gia súc, gia cầm tại thời điểm 01/10/2016 và sản phẩm xuất chuồng trong kỳ điều tra cho các hộ nông thôn và thành thị toàn tỉnh.
Bảng 4.1 Số lượng và sản phẩm chăn nuôi thời điểm 01/10/2016
Chỉ tiêu Đơn vị tính
Kỳ 1/10/2015 so với cùng kỳ năm trước
1- Số lượng Đàn Trâu Con 195,583 201,748 103,2 6,165 Đàn Bò “ 224,063 239,026 106,7 14,963 Đàn Lợn “ 883,047 945,034 107,0 61,987 Đàn Gia Cầm Nghìn con 17,806 18,529 104,1 723
2- Sản lượng thịt hơi xuất chuồng
Thịt Trâu hơi xuất chuồng
Thịt Bò hơi xuất chuồng “ 15,297 15,746 102,9 449
Thịt Lợn hơi xuất chuồng “ 135,812 139,594 102,8 3,782
Thịt Gia cầm giết bán “ 33,031 40,028 102,56 997
3- Sản lượng trứng gia cầm
Nghìn quả 121,557 127,864 105,2 6,307 4- Sản lượng sữa tươi Nghìn lít 5,469 9,421 172,3 3,952
Nguồn: Cục Thống kê Thanh Hóa (2016)
Kết quả điều tra, tổng hợp từ các huyện, thị xã, thành phố cho thấy:
Tổng đàn lợn hiện đạt 945,304 con, tăng 7.1% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu nhờ vào sự biến động tích cực của giá thịt lợn hơi, có thời điểm vượt 50 ngàn đồng/kg Sự gia tăng này diễn ra ở cả ba miền, nhưng tập trung chủ yếu ở miền biển, nơi có nhiều gia trại lợn Ngược lại, khu vực miền núi với ít khu công nghiệp và nghề nghiệp không đa dạng, người dân vẫn chủ yếu sống bằng nghề nông, dẫn đến đàn lợn có tính ổn định và phát triển.
Khu vực đồng bằng ghi nhận mức tăng trưởng thấp nhất trong ba miền, chủ yếu do sự phát triển của khu công nghiệp và đa dạng ngành nghề sản xuất, mang lại nhiều lựa chọn cho người dân Trong số 27 huyện, có 15 huyện có đàn lợn tăng so với cùng kỳ, với một số huyện như Nông Cống, Hậu Lộc, Tỉnh Gia, Thạch Thành và Như Thanh tăng đáng kể Tổng đàn lợn phân bổ tương đối đều giữa ba miền: miền núi có 292,999 con (30,9%), đồng bằng 309,405 con (32,7%) và miền biển 342,900 con (36,3%) Chăn nuôi chủ yếu vẫn theo mô hình nông hộ nhỏ lẻ, với 608,080 con lợn (64,3%) ở khu vực nông thôn, trong khi khu vực thành thị chỉ có 15,590 con (1,6%) Các gia trại và trang trại lần lượt có 161,451 con (17%) và 145,577 con (15,4%), trong khi doanh nghiệp và hợp tác xã chỉ chiếm 1,5% tổng đàn lợn toàn tỉnh.
Chăn nuôi theo mô hình hộ nhỏ lẻ đang giảm dần do hiệu quả kém, khó kiểm soát dịch bệnh và đảm bảo vệ sinh môi trường Thay vào đó, xu hướng chuyển sang chăn nuôi tập trung tại gia trại và trang trại mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn Tính đến ngày 01/10/2016, toàn tỉnh có 213,168 hộ chăn nuôi lợn, giảm 3,287 hộ so với năm 2015 Điều này cho thấy số hộ chăn nuôi lợn đang giảm, trong khi số lượng và quy mô gia trại chăn nuôi lợn lại tăng lên, với bình quân mỗi gia trại nuôi 48 con.
44 con/gia trại điều tra 01/10/2015
Kỳ điều tra 01/10/2016, toàn tỉnh có 465 trang trại lợn (có giá trị sản lượng hàng hoá đạt 1 tỷ đồng/năm trở lên) so với kỳ điều tra 01/10/2015 tăng
Tỉnh có tổng cộng 96 trang trại, với một số huyện như Vĩnh Lộc, Nga Sơn, Yên Định, Thọ Xuân và Hậu Lộc dẫn đầu về số lượng Hầu hết các trang trại này có quy mô nuôi từ 650 lợn trở lên, nhiều trang trại còn thực hiện nuôi gia công cho các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh.
Công tác tiêm phòng bệnh dịch tả lợn tại huyện Quan Sơn, Quan Hoa, Mường Lát từ năm 2014 - 2016
Bảng 4.2 Công tác tiêm phòng bệnh dịch tả lợn tại huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát từ năm 2014 – 2016
Số con tiêm Tỷ lệ Tổng đàn
Số con tiêm Tỷ lệ
Chăn nuôi lợn tập trung ngày càng nổi bật với ưu thế vượt trội so với hộ chăn nuôi nhỏ lẻ nhờ vào nguồn thức ăn công nghiệp phong phú, đáp ứng nhu cầu phát triển quy mô lớn Kỹ thuật chăn nuôi ngày càng được cải tiến, cùng với công tác phòng ngừa dịch bệnh hiệu quả Việc cấm sử dụng chất cấm trong chăn nuôi đã tạo tâm lý an tâm cho người tiêu dùng, giúp sản phẩm thịt lợn tiêu thụ tốt Giá cả ổn định cũng đảm bảo lợi nhuận cho người chăn nuôi, bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ từ các địa phương khuyến khích phát triển các trang trại chăn nuôi lợn.
Theo kết quả điều tra, tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 220 nghìn tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ Trong đó, sản lượng thịt hơi lợn đạt 139,5 nghìn tấn, tăng 3,782 tấn so với năm 2015.
Hằng năm, Thanh Hóa tổ chức hai đợt tiêm phòng cho gia súc và gia cầm vào tháng 3-4 và tháng 8-9 Tuy nhiên, tại các huyện miền núi như Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát, dân cư thưa thớt và nhận thức của người dân về tiêm phòng còn hạn chế, gây khó khăn trong công tác phòng chống dịch bệnh Mặc dù vắc xin được cấp phát miễn phí, tỷ lệ tiêm phòng vẫn thấp, dẫn đến nguy cơ bùng phát dịch bệnh khó tránh khỏi.
Tỷ lệ tiêm phòng vắc xin DTL tại các huyện có sự chênh lệch đáng kể, với huyện Mường Lát dẫn đầu đạt 77,1%, tiếp theo là huyện Quan Hóa với 74,7% Trong khi đó, huyện Quan Sơn ghi nhận tỷ lệ tiêm phòng thấp nhất, chỉ đạt 71,7% Kết quả tiêm phòng cụ thể được thể hiện qua hình 4.1.
Quan Sơn Quan Hóa Mường Lát Năm
Hình 4.1 Tỷ lệ tiêm phòng DTL các năm 2014-2016
Nghiên cưu môt sô đăc điêm dich tê bênh dich ta lơn tai huyên
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu tổng đàn lợn và số lợn mắc bệnh tại ba huyện Quan Sơn, Quan Hóa, và Mường Lát thuộc tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 2014 – 2016 Kết quả nghiên cứu được trình bày chi tiết trong bảng 4.3.
Bảng 4.3 Tình hình bệnh DTL ở huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát từ năm 2014 - 2016
Tỷ lệ mắc bệnh DTL tại 3 huyện tỉnh Thanh Hóa từ năm 2014 – 2016 trung bình là 0,83%, cao nhất là năm 2014 với tỷ lệ 1,05%, thấp nhất là năm
Huyện có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất là huyện Quan Hóa 0,69%, thấp nhất là huyện Mường Lát 0,56%
Tỷ lệ mắc DTL tại ba huyện của tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 2014 – 2016 đã giảm so với các năm trước, nhờ vào nhiều yếu tố, trong đó sự củng cố và tăng cường mạng lưới thú y, đặc biệt là thú y cơ sở, đóng vai trò quan trọng.
Công tác kiểm soát giết mổ, công tác tiêm phòng được tập trung hơn từ cấp tỉnh tới cấp huyện, xã
Huyện Mường Lát có tỷ lệ mắc bệnh thấp nhất, chỉ từ 0,28 – 0,86% Để đạt được điều này, huyện đã triển khai nhiều giải pháp và chương trình hành động cụ thể, tập trung đầu tư cho phát triển chăn nuôi, góp phần đưa ngành chăn nuôi trở thành ngành mũi nhọn trong phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại ba huyện thuộc tỉnh Thanh Hóa thấp hơn 27,76% so với nghiên cứu của Trương Quang và Trần Văn Chương (2008) tại Kon Tum.
Hình 4.2 So sánh tỷ lệ nhiễm DTL của lợn tại huyện Quan Sơn, Quan Hóa,
4.3.2 Xác định tỷ lệ chết và tỷ lệ tử vong
Nghiên cứu điều tra tổng số lợn ốm và chết vì bệnh dịch tả lợn từ năm
2014 – 2016 của 3 huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa chúng tôi có kết quả thu được ở bảng 4.4
Bảng 4.4 Xác định tỷ lệ chết và tỷ lệ tử vong do bệnh DTL gây ra ở Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát từ năm 2014 - 2016
Quan Sơn 14,168 124 118 0,83 95,17 15,476 91 83 0,53 91,20 16,614 78 72 0,43 92,30 Quan Hóa 15,037 226 219 1,45 96,90 22,845 15 6 0,02 40 26,848 212 190 0,70 89,63 Mường Lát 21,965 190 185 0,81 97,36 27,002 76 68 0,25 89,47 26,774 165 145 0,54 87,88 Cộng 51,170 540 522 1,02 96,67 65,323 182 157 0,24 86,26 70,236 455 407 0,57 89,45
Tỷ lệ lợn chết vì bệnh DTL tại 3 huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát tỉnh Thanh Hóa từ năm 2014 – 2016 là 0,57% – 1,02% và tỷ lệ tử vong tính được là 89,45% - 96,67%
Từ năm 2014, tỷ lệ chết cao nhất đạt 1,02% và tỷ lệ tử vong cao nhất là 96,67% Ngược lại, năm 2015 ghi nhận tỷ lệ chết thấp nhất với 0,24% và tỷ lệ tử vong là 86,26%.
Tỷ lệ tử vong do nhiễm DTL luôn cao qua các năm điều tra tại cả 3 huyện, cho thấy rằng các ổ dịch có triệu chứng lâm sàng thường do virus có độc lực cao gây ra, với tỷ lệ sống sót dưới 10%.
Quan Sơn QuanHoa Mường Lát
Hình 4.3 So sánh tỷ lệ chết do bệnh DTL tại huyện Quan Sơn, Quan Hóa,
Tỷ lệ tử vong cao cho thấy hầu hết các cá thể nhiễm bệnh có khả năng đáp ứng miễn dịch thấp, dẫn đến sự thiếu hụt trong việc chống đỡ cả về mặt miễn dịch đặc hiệu và không đặc hiệu Ngoài ra, một phần nguyên nhân của tỷ lệ tử vong cao là do người dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc phòng bệnh thông qua vắc xin, dẫn đến sự chủ quan đối với dịch bệnh.
Trong cuộc điều tra tiếp theo, chúng tôi sẽ xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ chết cao ở lợn, đặc biệt là lứa tuổi của chúng Lợn sau cai sữa thường có sức đề kháng yếu, và bệnh tật thường bùng phát vào mùa đông với nhiệt độ thấp và thời tiết hanh khô.
4.3.3 Xác định tỷ lệ mắc DTL so với các bệnh khác ở đàn lợn tại Quan Sơn, Quan Hóa, Mường lát từ năm 2014 – 2016
Bảng 4.5 So sánh tỷ lệ bệnh DTL với các bệnh khác ở đàn lợn trong các năm từ 2014 – 2016
Tỷ lệ so với tổng đàn (%)
Tỷ lệ so với ốm (%)
Tỷ lệ so với ốm (%)
Trong thời gian nghiên cứu, có 1,177 con lợn bị bệnh dịch tả/12,069 con bị bệnh (chiếm 9,75%) theo bảng 4.5
- So với tổng đàn lợn mỗi năm thì tỷ lệ lợn bị bệnh dịch tả trong năm 2014 cao nhất (1,05%), sau đó là 2016 (0,65%) thấp nhất là năm 2015 (0,27%)
- So với tổng số lợn ốm từng năm thì năm 2014 tỷ lệ lợn bị bệnh dịch tả cao nhất (12,94%), tiếp đến là 2016 (11,22%), thấp nhất là năm 2015 (4,71%)
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ mắc bệnh dịch tả lợn tương đối thấp so với các bệnh khác, cụ thể là 24,42%, trong khi tỷ lệ mắc các bệnh khác là 75,58% Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Trương Quang và Trần Văn Chương (2008) tại Kon Tum.
Hình 4.4 So sánh tỷ lệ bệnh DTL với các bệnh khác xảy ra ở đàn lợn năm 2014 tại 3 huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát
4.3.4 Tình hình bệnh DTL ở lợn các lứa tuổi tại huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát từ năm 2014 – 2016
Bệnh dịch tả lợn xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng lợn ở lứa tuổi khác nhau thì tỷ lệ bị bệnh khác nhau (bảng 4.6 và hình 4.5)
Lợn từ 2 đến 4 tháng tuổi có tỷ lệ mắc bệnh DTL trung bình là 59,39%, với tỷ lệ cao nhất ghi nhận vào năm 2014 (60,56%) và thấp nhất vào năm 2015 (57,70%) Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Bùi Quang Anh (2001) tại vùng Bắc Trung Bộ (65,42%) Nguyên nhân khiến lứa tuổi này có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất có thể được giải thích bởi một số yếu tố.
Thứ nhất là tỷ lệ tiêm phòng vắc xin DTL cho đàn lợn tại 2 năm tương đối thấp
Thứ hai là lợn mới cai sữa, thay đổi môi trường sống lợn dễ bị stress làm ảnh hưởng đến sức đề kháng của con vật
Lợn từ 2-4 tháng tuổi thường có hàm lượng kháng thể thủ động gần như không còn và cần được tiêm phòng, nhưng tại 3 huyện, lợn ở độ tuổi này thường không được tiêm Thú y chỉ tổ chức tiêm phòng 2 đợt trong năm, vào tháng 3-4 và tháng 8-9, mà không có tiêm bổ sung Điều này dẫn đến tình trạng lợn từ 2-4 tháng tuổi dễ mắc bệnh hơn.
Lợn con theo mẹ dưới 2 tháng tuổi có tỷ lệ mắc bệnh cao, với mức trung bình 3 năm là 22,10% Tỷ lệ mắc bệnh thấp nhất ghi nhận được vào năm 2014 là 19,45%, sau đó tăng lên 23,62% vào năm 2015 và 24,62% vào năm 2016 Kết quả khảo sát tại 3 huyện của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của Trương Quang và Trần Văn Chương (2008) tại Kon Tum, ghi nhận là 23% Nguyên nhân của tình trạng này cần được xem xét kỹ lưỡng.
Thứ nhất có thể do lợn nái nhiễm bệnh ở thể mãn tính, nhiều lợn nái mang trùng nên lợn con sinh ra có dung nạp miễn dịch
Lượng kháng thể thụ động ở lợn con giảm dần, và nếu không được tiêm phòng tạo miễn dịch chủ động kịp thời, chúng sẽ dễ bị nhiễm bệnh Tỷ lệ tiêm phòng thấp cũng là một vấn đề, vì nhiều lợn con sinh ra không được tiêm phòng bổ sung hoặc có nguồn gốc từ lợn mẹ không được tiêm phòng, dẫn đến việc lợn con không nhận được kháng thể từ mẹ.
- Lứa tuổi mắc bệnh nhiều thứ ba là lợn trên 4 tháng tuổi; cao nhất là năm
2014 (14,63%) và thấp nhất là năm 2015 (12,30%); bình quân ba năm (từ 2014 -
Một số lợn đã được tiêm phòng định kỳ, giúp giảm thiểu bệnh tật Ở độ tuổi này, lợn ít bị ảnh hưởng bởi môi trường sống, do đó tỷ lệ mắc bệnh thấp hơn so với các lứa tuổi trước.
Bảng 4.6 Tình hình bệnh dịch tả lợn ở lợn các lứa tuổi tại huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát từ năm 2014 - 2016
Tổng số lợn bị bệnh (con)
Lứa tuổi Lợn con theo mẹ
(< 2 tháng tuổi) 2 - 4 tháng > 4 tháng Lợn nái Đực giống
Tỷ lệ lợn đực giống ốm và chết do dịch tả chỉ chiếm 1,10%, chủ yếu xảy ra ở các vùng đồng bào dân tộc ít người Trong khi đó, tại các trang trại chăn nuôi ở vùng đồng bào người Kinh, không có trường hợp nào bị bệnh trong thời gian điều tra.
huyện Quan Sơn, Quang Hóa, Mường Lát bằng phản hứng ELISA
Kết quả khảo sát kháng thể kháng virus DTL trong huyết thanh lợn giết mổ tại 3 huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát tỉnh Thanh Hóa
Hằng năm, Chi cục Thú y Thanh Hóa tổ chức tiêm phòng bệnh DTL cho đàn lợn trong tỉnh, nhưng dịch vẫn xảy ra rải rác, kể cả ở những con đã được tiêm Để đánh giá khả năng đáp ứng miễn dịch và độ dài miễn dịch của vắc xin, chúng tôi đã tiến hành lấy máu của lợn tại các cơ sở giết mổ ở ba huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát để kiểm tra hiệu giá kháng thể trong huyết thanh bằng phương pháp ELISA.
Bảng 4.10 Kết quả kiểm tra kháng thể kháng virut DTL trong huyết thanh của lợn lấy tại các điểm giết mổ lợn tại 3 huyện Quan Sơn, Quan Hóa,
Tại ba huyện Quan Sơn, Quan Hóa và Mường Lát, 40 mẫu huyết thanh của lợn ở tuổi giết thịt đã được lấy ngẫu nhiên từ cơ sở giết mổ để kiểm tra hiệu giá kháng thể DTL bằng phản ứng ELISA Mặc dù lợn giết thịt đến từ những địa phương đã triển khai tiêm phòng vắc xin DTL định kỳ hai lần mỗi năm vào tháng 3, 4 và tháng 9, 10, nhưng tỷ lệ bảo hộ đàn lợn vẫn rất thấp.
Ba huyện có tỷ lệ bảo hộ thấp từ 15 – 25% có khả năng chống lại virus DTL cường độc Những huyện này nằm ở vùng sâu, vùng xa của tỉnh, nơi có tỷ lệ dân số là đồng bào dân tộc cao Điều kiện kinh tế và trình độ dân trí ở đây còn thấp, dẫn đến nhận thức về công tác phòng chống dịch bệnh cũng chưa cao.
Quan Sơn Quan Hóa Mường Lát
Hình 4.8 cho thấy sự so sánh giữa tỷ lệ mẫu huyết thanh có kháng thể DTL và tỷ lệ mẫu lợn được bảo hộ chống lại virut DTL cường độc ở độ tuổi giết thịt Kết quả này giúp đánh giá hiệu quả miễn dịch của đàn lợn trong việc phòng ngừa bệnh do virut DTL gây ra.
Kết quả khảo sát kháng thể kháng virus DTL trong huyết thanh lợn xét
Sau khi khảo sát kháng thể kháng virus DTL trong huyết thanh của lợn ở tuổi giết thịt, chúng tôi tiến hành đánh giá hiệu quả tiêm phòng hằng năm tại ba huyện thông qua việc khảo sát kháng thể trong huyết thanh lợn theo cơ cấu đàn, bao gồm lợn đực giống, lợn nái và lợn thịt.
Trong một nghiên cứu tại tỉnh, 62 mẫu huyết thanh từ lợn đực giống, lợn nái và lợn thịt đã được lấy ngẫu nhiên, trong đó có 35 mẫu dương tính với tỷ lệ 56,4% Tuy nhiên, chỉ có 20 mẫu (32,2%) cho thấy lượng kháng thể đủ để chống lại virus DTL cường độc.
Bảng 4.11 Kết quả khảo sát kháng thể kháng virus DTL trong huyết thanh của lợn xét theo cơ cấu đàn tại 3 huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát
Xét theo từng đối tượng:
Trong nghiên cứu về 7 mẫu huyết thanh lợn đực giống, có 6 mẫu dương tính (85,7%), trong đó 4 mẫu được bảo hộ, đạt tỷ lệ 57,1% Kết quả này cho thấy các hộ gia đình và gia trại đã thực hiện tiêm phòng dịch một cách nghiêm ngặt cho lợn đực giống, điều này khẳng định giá trị kinh tế cao và tầm quan trọng của việc chăm sóc, bảo vệ chúng như một tài sản quý.
Kết quả kiểm tra 15 mẫu huyết thanh của lợn nái cho thấy 10 mẫu dương tính, chiếm 66,6%, trong đó chỉ có 7 mẫu đạt tiêu chuẩn bảo hộ, tương đương 46,6% Điều này chỉ ra rằng tỷ lệ bảo hộ của đàn lợn nái trong tỉnh là thấp, dẫn đến tỷ lệ bệnh tật và chết cao ở lợn con theo mẹ.
Trong một nghiên cứu về đàn lợn thịt, 40 mẫu huyết thanh đã được kiểm tra và có 19 mẫu dương tính, chiếm 47,5% Tuy nhiên, chỉ có 9 mẫu được bảo hộ, đạt tỷ lệ 22,5% Kết quả này cho thấy việc tiêm phòng vacxin DTL cho đàn lợn thịt chưa được chú trọng, cho thấy còn nhiều vấn đề cần được quan tâm.
Tỷ lệ bảo hộ trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với kết quả của Mai Thế Phong (2003) tại Quảng Trị, với tỷ lệ bảo hộ cho lợn đực giống là 85,71%, nái giống 57,36% và lợn thịt 28,97% Sự chênh lệch này phản ánh kết quả tiêm phòng vacxin DTL tại ba huyện trong những năm qua.
Lợn thịt Lợn nái Đực giống Chung
Tỷ lệ dương tính Tỷ lệ bảo hộ
Hình 4.9 So sánh tỷ lệ mẫu huyết thanh có kháng thể và tỷ lệ mẫu được bảo hộ xét theo cơ cấu đàn lợn
Khảo sát khả năng đáp ứng miễn dịch kháng virus DTL sau tiêm phòng vắc xin ở các thời điểm 21, 90 và 180 ngày
Theo báo cáo từ các trạm thú y, bệnh DTL xuất hiện không chỉ ở những đàn lợn chưa được tiêm phòng mà còn ở cả những đàn đã được tiêm Dù một số huyện có tỷ lệ tiêm phòng cao, bệnh vẫn xảy ra một cách lẻ tẻ.
Theo lý thuyết, kháng thể trong cơ thể lợn chỉ bắt đầu xuất hiện sau 24 giờ từ khi tiêm vắc xin mũi đầu tiên, với mức trung bình từ ngày thứ 6 đến ngày thứ 15 Lượng kháng thể sẽ tăng dần và đạt đỉnh sau 2-3 tuần, sau đó giảm nhanh chóng rồi chậm lại, với tốc độ giảm khác nhau Kháng thể có thể mất đi sau vài tuần, vài tháng hoặc vài năm Tuy nhiên, nếu tiêm kháng nguyên nhắc lại sau khi kháng thể mất, cơ thể sẽ sản sinh ra kháng thể mới nhanh hơn và nhiều hơn so với lần tiêm đầu tiên.
Chúng tôi đã thu thập mẫu máu từ đàn lợn nuôi tại huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát, sau khi tiêm phòng vắc xin DTL vào các thời điểm 21 ngày, 90 ngày và 180 ngày tuổi Mục tiêu là kiểm tra hiệu giá kháng thể nhằm đánh giá khả năng và độ dài miễn dịch.
Bảng 4.12 Kết quả kiểm tra khả năng đáp ứng miễn dịch của lợn ở các thời điểm khác nhau sau khi tiêm phòng vacxin
- Ở thời điểm 21 ngày sau tiêm phòng: số mẫu có kháng thể rất cao Trong
Trong tổng số 120 mẫu xét nghiệm, có 102 mẫu dương tính, chiếm tỷ lệ 85%, với tỷ lệ bảo hộ đạt 72,5% Tuy nhiên, tỷ lệ mẫu dương tính và tỷ lệ bảo hộ khác nhau giữa các huyện, dao động từ 70% đến 75% Huyện Quan Hóa, với khí hậu khắc nghiệt và kết quả tiêm phòng kém, có tỷ lệ bảo hộ thấp nhất là 70% Huyện Quan Sơn ghi nhận tỷ lệ bảo hộ 72,5%, trong khi huyện Mường Lát có tỷ lệ bảo hộ cao nhất đạt 75%.
Tại thời điểm 90 ngày sau tiêm, tỷ lệ mẫu dương tính và tỷ lệ mẫu bảo hộ đã giảm so với 21 ngày sau tiêm Trong 111 mẫu huyết thanh được kiểm tra, chỉ có 84 mẫu dương tính, đạt 76,57%, trong đó 76 mẫu được bảo hộ, tương ứng với 68,4% Tương tự như ở thời điểm 21 ngày sau tiêm, tỷ lệ mẫu huyết thanh dương tính và tỷ lệ bảo hộ ở lợn nuôi tại các huyện khác nhau cũng có sự khác biệt, đặc biệt là tại huyện Quan Sơn.
Thời gian sau tiêm phòng
Tỷ lệ dương tính thấp nhất được ghi nhận là 72,23% tại huyện Quan Hóa, tiếp theo là huyện Quan Sơn với 75,68% Huyện Mường Lát có tỷ lệ dương tính cao nhất đạt 78,95% Về tỷ lệ mẫu được bảo hộ, huyện Quan Hóa cũng có mức thấp nhất với 66,6%, sau đó là huyện Quan Sơn với 67,56% và huyện Mường Lát đạt 71,05%.
Sau 180 ngày tiêm vắc xin, tỷ lệ mẫu dương tính giảm xuống còn 42,8% và tỷ lệ bảo hộ chỉ đạt 33,76% Những kết quả này chỉ ra rằng việc tiêm phòng vắc xin dịch tả cho lợn còn nhiều vấn đề cần quan tâm, bao gồm sự liên quan giữa miễn dịch thụ động và thời điểm tiêm mũi vắc xin đầu tiên, liều lượng vắc xin, kỹ thuật tiêm, thời điểm tiêm nhắc lại, và đặc biệt là tỷ lệ tiêm phòng cho toàn đàn lợn trong khu vực.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ dương tính và tỷ lệ bảo hộ lợn ở các lứa tuổi thấp hơn so với nghiên cứu của Trương Quang và Trần Văn Chương (2008) Nguyên nhân có thể do điều kiện tự nhiên, khí hậu, kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng, quy trình tiêm chủng và chất lượng vắc xin.
PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nghiên cứu về dịch tễ học bệnh Dịch tả lợn tại tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn 2014 – 2016 đã cho thấy một số đặc điểm quan trọng, từ đó chúng tôi rút ra các kết luận đáng chú ý về tình hình và sự phát triển của bệnh này trong khu vực.
5.1.1 Về dịch tể học bệnh Dịch tả lợn tại tỉnh Thanh Hóa năm 2014 – 2016
- Tỷ lệ lợn mắc bệnh DTL trung bình là 0,83% Tỷ lệ chết trung bình là 0,61% và tỷ lệ tử vong là 90,80% trong tổng số lợn mắc bệnh DTL
Trong tổng số lợn mắc bệnh dịch tả, lợn từ 2 đến 4 tháng tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất với 59,39% Lợn con theo mẹ đứng thứ hai với 22,10%, trong khi lợn trên 4 tháng tuổi chiếm 13,6% Tỷ lệ lợn nái là 3,82% và thấp nhất là lợn đực giống với chỉ 1,10%.
- Bệnh DTL xảy ra tập trung vào mùa hanh khô, nhiệt độ thấp Mùa dịch bắt đầu từ tháng 11 năm trước kéo dài đến hết tháng 3 năm sau
- Bệnh DTL xảy ra chủ yếu ở hình thức chăn nuôi nông hộ Tỷ lệ lợn bị bệnh trung bình là: Nông hộ: 0,84%; Gia trại: 0,01%
- Các giống lợn đều có khả năng bị bệnh dịch tả Lợn bản địa và lợn rừng có sức đề kháng tốt hơn so với lợn lai
5.1.2 Về khả năng đáp ứng miễn dịch của đàn lợn với vắc xin DTL
- Tỷ lệ mẫu huyết thanh dương tính là: 30,08%, tỷ lệ mẫu bảo hộ là: 19,1%
- Tỷ lệ mẫu dương tính và tỷ lệ đạt mức bảo hộ ở lợn đực giống khá cao: 85,7% và 57,1%; ở lợn nái là: 66,6% và 46,6%; ở lợn trên 2 tháng tuổi rất thấp: 47,5% và 22,5%
Sau 21 ngày tiêm vắc xin, tỷ lệ lợn có kháng thể đạt 85%, với mức bảo hộ là 72,5% Sau 90 ngày, tỷ lệ này giảm xuống còn 78,95% và mức bảo hộ là 71,05% Đến 180 ngày, tỷ lệ lợn có kháng thể chỉ còn 42,8%, trong khi mức bảo hộ giảm xuống còn 36,76%.
Chúng tôi khuyến nghị Chi cục thú y tỉnh Thanh Hóa nên áp dụng những kết quả nghiên cứu vào thực tiễn công tác phòng chống bệnh DTL tại địa phương.
1 Bùi Quang Anh (2001) Nghiên cứu dịch tễ học bệnh Dịch tả lợn cổ điển và các biện pháp phòng chống ở một số tỉnh vùng Bắc Trung bộ Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp Viện Thú y Quốc gia tr 4 – 19
2 Bùi Quang Anh - Nguyễn Xuân Thủy (1999) Kết quả khảo sát bệnh DTL những năm gần đây tại một số tỉnh Bắc Trung Bộ Tạp chí Khoa học và kỹ thuật Thú y 6 (2) tr 72.
3 Bùi Trần Anh Đào và Nguyễn Hữu Nam (2009) Một số đặc điểm bệnh lý ở lợn mắc bệnh dịch tả Tạp chí khoa học và phát triển 7 (2) tr 166-171
4 Đào Trọng Đạt và Nguyễn Tiến Dũng (1984) Về tình hình dịch tễ của bệnh dịch tả lợn ở Việt Nam và vấn đề phòng chống Kết quả nghiên cứu Khoa học và kỹ thuật Thú y 1979-1984 tr 5- 10
5 Đào Trọng Đạt, Nguyễn Tiến Dũng, Đặng Việt Tiến và Phạm Ngọc Tê (1988)