1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Sự tham gia của phụ nữ trong các dự án cấp nước cho các đô thị nhỏ nghiên cứu chương trình cấp thoát nước phần lan tại hải phòng và bắc cạn

88 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Sự Tham Gia Của Phụ Nữ Trong Các Dự Án Cấp Nước Cho Các Đô Thị Nhỏ (Nghiên Cứu Chương Trình Cấp Nước Phần Lan Tại Hải Phòng Và Bắc Cạn)
Tác giả Nguyễn Thị Khánh Hòa
Người hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Quý Thanh
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Xã hội học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2009
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 88
Dung lượng 1,26 MB

Cấu trúc

  • 1. Đặt vấn đề (6)
  • 2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài (7)
    • 2.1. Ý nghĩa khoa học (7)
    • 2.2. Ý nghĩa thực tiễn (7)
  • 3. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu (8)
    • 3.1. Mục đích nghiên cứu (8)
    • 3.2. Mục tiêu nghiên cứu (8)
  • 4. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu (8)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (9)
    • 5.1. Phương pháp chọn mẫu (9)
    • 5.2. Phương pháp thu thập thông tin (9)
      • 5.2.1. Các phương pháp thu thập thông tin được sử dụng trong khuôn khổ dự án (9)
        • 5.2.1.1 Thảo luận nhóm (9)
        • 5.2.1.2. Phỏng vấn cấu trúc (0)
        • 5.2.1.3. Phỏng vấn bán cấu trúc (10)
      • 5.2.2. Các phương pháp thu thập thông tin được chính tác giả sử dụng (10)
        • 5.2.2.1. Phương pháp quan sát (10)
        • 5.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc (10)
        • 5.2.2.3. Nghiên cứu tài liệu (0)
    • 5.3. Phương pháp xử lý thông tin (11)
  • 6. Câu hỏi nghiên cứu (11)
  • 7. Giả thuyết nghiên cứu (12)
  • 8. Khung lý thuyết (12)
  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 10 1.1. Lý thuyết tiếp cận (13)
    • 1.2. Tổng quan nghiên cứu (15)
    • 1.3. Các khái niệm công cụ (20)
    • 1.4. Các chính sách và bối cảnh xã hội của các chính sách về sự tham gia (22)
      • 1.4.1. Các chính sách của Việt Nam (22)
      • 1.4.2. Các chính sách về sự tham gia và các chính sách về giới của các nhà tài trợ (24)
        • 1.4.2.1 Các chính sách về sự tham gia (25)
        • 1.4.2.2. Các chính sách về giới (25)
    • 1.5. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu và dự án cấp nước cho các thị trấn nhỏ Việt Nam (26)
  • CHƯƠNG 2: NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 28 2.1. Các biểu hiện sự tham gia của phụ nữ vào dự án (31)
    • 2.1.1. Phụ nữ tham gia dưới hình thức “Nghe và biết thông tin về dự án” (31)
    • 2.1.2. Phụ nữ tham gia bằng hình thức “đóng góp tiền bạc và lao động cho dự án” (37)
    • 2.1.3. Phụ nữ tham gia dự án bằng hình thức “tuyên truyền cho người khác” (39)
    • 2.1.4. Phụ nữ tham gia dự án qua hình thức “tham dự các buổi họp” (42)
    • 2.1.5. Phụ nữ tham gia dự án bằng các hình thức giám sát thực hiện (44)
    • 2.2. Các yếu tố thúc đẩy và rào cản đối với sự tham gia của phụ nữ vào dự án (47)
      • 2.2.1. Các yếu tố cá nhân (47)
        • 2.2.1.1. Yếu tố năng lực (47)
        • 2.2.1.2. Yếu tố địa vị xã hội (48)
        • 2.2.1.3. Yếu tố tâm lý (49)
      • 2.2.2. Yếu tố gia đình (52)
        • 2.2.2.1 Yếu tố tài chính (52)
        • 2.2.2.2. Yếu tố người chồng (54)
      • 2.2.3. Yếu tố xã hội (58)
        • 2.2.3.1. Yếu tố chính sách (58)
        • 2.2.3.2. Yếu tố văn hóa xã hội (63)
      • 2.2.4. Yếu tố khác (66)
    • 2.3. Thảo luận (67)
      • 2.3.1. Phụ nữ trong dự án “cấp nước cho các thị trấn nhỏ Việt Nam” tham gia (67)
      • 2.3.2. Những yếu tố rào cản và thúc đẩy phụ nữ tham gia vào dự án cấp nước (69)
    • 2. Những ngụ ý về mặt chính sách (73)
  • Tài liệu tham khảo (74)
  • Phụ lục (79)

Nội dung

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Ý nghĩa khoa học

Nghiên cứu này tiếp cận từ lý thuyết “sự tham gia” để phân tích vai trò của phụ nữ trong các dự án phát triển tại Việt Nam Tác giả mong muốn làm rõ mối quan hệ giữa các yếu tố rào cản và yếu tố thúc đẩy ảnh hưởng đến quá trình tham gia của phụ nữ trong các dự án này.

Ý nghĩa thực tiễn

Nghiên cứu này nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách và lập dự án phát triển tại Việt Nam, với mục tiêu xây dựng các chính sách cụ thể để tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia nhiều hơn vào các dự án phát triển, đồng thời đảm bảo tính bền vững cho những dự án này.

Mục đích và mục tiêu nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu này tập trung vào việc xây dựng lý thuyết về sự tham gia của phụ nữ trong các dự án phát triển, nhấn mạnh các yếu tố thúc đẩy và rào cản ảnh hưởng đến sự tham gia của họ Việc hiểu rõ những yếu tố này là cần thiết để nâng cao sự tham gia của phụ nữ trong các hoạt động phát triển, từ đó góp phần vào sự tiến bộ xã hội và kinh tế.

Mục tiêu nghiên cứu

+ Tìm hiểu cách thức tham gia của phụ nữ trong các chu trình của dự án cấp nước

+ Những biểu hiện của sự tham gia và các bước tham gia của phụ nữ trong các giai đoạn của dự án cấp nước

+ Yếu tố rào cản và thúc đẩy quá trình tham gia của phụ nữ vào dự án cấp nước

Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp chọn mẫu

- Mẫu khảo sát định lượng:

Trong cuộc khảo sát Kinh tế - Xã hội, có 200 hộ gia đình ở Nà Phặc và 300 hộ gia đình ở Tiên Lãng Phương pháp chọn mẫu được áp dụng là ngẫu nhiên với tỷ lệ 10% tổng số hộ của hai thị trấn này.

Khảo sát toàn bộ 100% hộ gia đình trong khu vực dự án cho thấy có 651 hộ tại Nà Phặc và 3.033 hộ tại Tiên Lãng tham gia cam kết đấu nối.

- Mẫu nghiên cứu định tính: Phỏng vấn bán cấu trúc 30 trường hợp: 15 ở Nà Phặc và

Nghiên cứu được thực hiện tại 15 thị trấn ở Tiên Lãng, trong đó mỗi thị trấn phỏng vấn 5 nam giới và 10 phụ nữ Phương pháp chọn mẫu dựa trên chiến lược nghiên cứu định tính với lý thuyết cơ sở Các đối tượng được lựa chọn phỏng vấn đáp ứng đầy đủ các tiêu chí nghiên cứu Tác giả đã cố ý chọn 15 trường hợp cho mỗi thị trấn, bao gồm 10 nữ và 5 nam, nhằm đảm bảo tính đại diện và đạt được mục tiêu nghiên cứu.

Phương pháp thu thập thông tin

Trong nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng thông tin thu thập từ dự án cùng với các phương pháp tự thu thập dữ liệu để bổ sung cho nghiên cứu của mình.

5.2.1 Các phương pháp thu thập thông tin được sử dụng trong khuôn khổ dự án

Việc thảo luận nhóm được tiến hành tại 14 nhóm cho 2 thị trấn [45, tr.35], [46, tr.16], cụ thể số lượng nhóm được trình bày trong phần phụ lục

Mỗi nhóm thảo luận có từ 7-10 người và kéo dài từ 60 đến 150 phút Đối với nhóm nữ, việc lựa chọn diễn ra ngẫu nhiên từ một số hộ gia đình, ưu tiên những phụ nữ thuộc hộ nghèo theo yêu cầu của nhà tài trợ Nhóm nam được chọn ngẫu nhiên từ các hộ gia đình, trong khi nhóm hỗn hợp bao gồm cả nam và nữ, chủ yếu là đội ngũ lãnh đạo của các tiểu khu.

Nghiên cứu này dựa trên dữ liệu gốc từ khảo sát kinh tế xã hội và khảo sát cam kết đấu nối của dự án, sử dụng bảng hỏi có sẵn, chi tiết sẽ được trình bày trong phần phụ lục.

5.2.1.3 Phỏng vấn bán cấu trúc

Mỗi thị trấn thực hiện 5 phỏng vấn bán cấu trúc để khảo sát các vấn đề liên quan đến thực trạng sử dụng nước, mức chi trả và sự tiếp xúc với nước của các thành viên trong gia đình.

5.2.2 Các phương pháp thu thập thông tin được chính tác giả sử dụng

Phương pháp quan sát được tác giả áp dụng từ đầu dự án, tập trung vào việc theo dõi cách sử dụng nước của phụ nữ, nguồn nước mà cộng đồng đang khai thác, và tiến độ xây dựng nhà máy nước Đồng thời, tác giả cũng chú ý đến thái độ của người dân trong các cuộc họp và thảo luận nhóm.

Tác giả áp dụng quan sát tự do (phi tiêu chuẩn) trong quá trình tham gia dự án để phát triển ý tưởng và xác định phạm vi nghiên cứu, đồng thời sử dụng quan sát có chủ đích với bảng kiểm Bảng kiểm này sẽ được trình bày trong phần phụ lục.

5.2.2.2 Phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc

Tác giả tiến hành phỏng vấn 30 trường hợp cho cả 2 thị trấn Mỗi thị trấn có 15 phỏng vấn (10 đối với nữ và 5 đối với nam)

Trong quá trình tham gia dự án, phỏng vấn ban đầu chủ yếu tập trung vào các yêu cầu của dự án Tuy nhiên, 30 trường hợp phỏng vấn sau này lại chú trọng vào sự tham gia của phụ nữ, cùng với những rào cản và hình thức tham gia của họ trong khu vực dự án.

Việc chọn đối tượng phỏng vấn cần dựa trên tiêu chí là những người có liên quan đến dự án, ít nhất họ đã từng tham gia một cuộc họp liên quan đến dự án đó.

Phỏng vấn này dựa trên những vấn đề đã nêu trong hướng dẫn phỏng vấn (Hướng dẫn phỏng vấn này sẽ được nêu trong phần phụ lục)

Ngoài các phương pháp thu thập số liệu trực tiếp, tác giả còn áp dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, với nguồn tư liệu chủ yếu từ Internet, thư viện và các viện nghiên cứu Khoảng 150 tài liệu liên quan đến các từ khóa như giới, sự tham gia, phụ nữ và các dự án phát triển đã được sử dụng trong nghiên cứu này.

Qua việc nghiên cứu tài liệu, tác giả đã có cái nhìn tổng quan về vấn đề nghiên cứu và thu thập được nhiều dữ liệu hữu ích cho công trình của mình.

Phương pháp xử lý thông tin

- Phương pháp xử lý thông tin định lượng: toàn bộ các bảng hỏi được mã hóa và xử lý bằng phần mềm thống kê xã hội SPSS

- Phương pháp xử lý thông tin định tính: toàn bộ thảo luận nhóm được tổng hợp và phân loại

Các phỏng vấn bán cấu trúc được mã hóa và xử lý bằng phần mềm phân tích định tính Nvivo 2.0

Câu hỏi nghiên cứu

- Sự tham gia của phụ nữ với dự án cấp nước nhỏ như thế nào?

Phụ nữ có vai trò quan trọng trong các dự án cấp nước nhỏ, thể hiện qua nhiều hình thức tham gia khác nhau Họ có thể tham gia từ giai đoạn lập kế hoạch, thiết kế cho đến thực hiện và bảo trì dự án Sự tham gia của phụ nữ không chỉ giúp nâng cao hiệu quả của dự án mà còn đảm bảo rằng nhu cầu và ý kiến của họ được lắng nghe và đáp ứng Việc khuyến khích phụ nữ tham gia vào các giai đoạn khác nhau của dự án sẽ góp phần tạo ra sự bền vững và cải thiện chất lượng cuộc sống trong cộng đồng.

- Những yếu tố rào cản và thúc đẩy nào đối với sự tham gia của phụ nữ vào dự án?

Giả thuyết nghiên cứu

Phụ nữ tham gia vào dự án cấp nước với nhiều hình thức đa dạng, trong đó, việc tuyên truyền và vận động cộng đồng tham gia được xem là hình thức nổi bật nhất.

Ngoài các yếu tố chính sách và cá nhân, gia đình, năng lực và vị trí địa lý cũng là những rào cản lớn đối với sự tham gia của phụ nữ trong dự án.

- Dự án đã có sự tham gia đáng kể của phụ nữ, tuy nhiên, sự tham gia đó vẫn chưa mang tính chất quyết định như nam giới.

Khung lý thuyết

- Năng lực, trình độ học vấn của cá nhân

Yếu tố văn hóa xã hội:

- Chính sách của Việt Nam

- Chính sách của nhà tài trợ

- Địa lý và điều kiện tự nhiên

Sự tham gia của phụ nữ trong dự án cấp nước đô thị nhỏ

Các hình thức tham gia của phụ nữ

Các yếu tố thúc đẩy và rào cản đối với sự tham gia Bối cảnh kinh tế xã hội

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 10 1.1 Lý thuyết tiếp cận

Tổng quan nghiên cứu

"Tham gia" là khái niệm quan trọng trong chính trị, nghiên cứu học thuật và các dự án phát triển Nước ngoài, sự tham gia nói chung và đặc biệt là sự tham gia của phụ nữ đang thu hút sự chú ý lớn từ các học giả và tổ chức nghiên cứu.

13 chức thực hiện các dự án phát triển, đặc biệt như Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á v.v

Các nghiên cứu từ thập niên 60, 70 của thế kỷ XX đã phân tích sự tham gia của cộng đồng như một quyền lực công dân, với Sherry R Arnstein (1969, 1971) phân chia thành 8 nấc thang, từ không tham gia đến các cấp độ quyền lực công dân Brager và Specht (1973) cũng đề xuất 7 cấp độ tham gia trên thang hai cực, từ không tham gia đến quyền quản lý Mục tiêu cuối cùng của quá trình tham gia trong dự án hay chương trình là trao quyền, được xem là cấp độ cao nhất cần hướng tới (Xem thêm Ruth Alsop, Mette Bertelsen và Jeremy Holland, 2006).

Các nghiên cứu quốc tế về phát triển thường dựa trên kinh nghiệm phong phú từ nhiều dự án khác nhau, với sự tham gia của Ngân hàng Thế giới là một ví dụ tiêu biểu Những nghiên cứu như của Ruth Meinzen-Dick, Richard Reidinger và Andrew Manzardo (1995) đã phân tích vai trò của sự tham gia trong các dự án tưới tiêu nông nghiệp, trong khi Nat J Colletta và Gallian Perkins cũng đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về các khía cạnh này trong các bối cảnh khác nhau trên toàn cầu.

(1995) bàn về sự tham gia trong giáo dục; Gabrielle Watson, N Vijay Jagannathan

Năm 1995, Mary Schmidt và Alexandre Marc đã thảo luận về sự tham gia trong lĩnh vực cấp nước và vệ sinh, trong khi Dan R Aronson và Ellen Tynan tập trung vào sự tham gia trong các hoạt động của các quỹ xã hội Cùng năm, Deepa Narayan đã đề cập đến việc thiết kế sự phát triển dựa trên cộng đồng và sự tham gia trong nền kinh tế cũng như khu vực việc làm.

Sự tham gia của phụ nữ trong các vấn đề xã hội ngày càng được chú trọng trong nghiên cứu, đặc biệt là trong bối cảnh giới Một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới đã chỉ ra tầm quan trọng của việc nâng cao vai trò của phụ nữ trong các lĩnh vực khác nhau.

Năm 1996, việc thảo luận về các chủ đề then chốt và yếu tố chung của sự tham gia đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu và chứng minh sự khác biệt giới trong các vai trò, hoạt động, nhu cầu và cơ hội trong các bối cảnh cụ thể Phân tích giới đóng vai trò quan trọng trong việc xác định những khác biệt này.

Bài viết này khám phá 14 vai trò khác biệt và hành vi học hỏi của nam giới và nữ giới, dựa trên các thuộc tính giới Những sự khác biệt này được hình thành qua các yếu tố như văn hóa, giai tầng, chủng tộc, thu nhập, giáo dục và thời gian.

Một trong những thách thức lớn trong việc thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào các dự án là tình trạng bất bình đẳng giới Đánh giá của Ngân hàng Thế giới về 121 dự án cấp nước nông thôn ở 49 quốc gia cho thấy, ngay cả trong những khu vực mà phụ nữ có trách nhiệm lớn, họ chỉ nhận được 17% lợi ích từ các dự án được thiết kế cho họ Điều này cho thấy sự tham gia của phụ nữ trong các dự án phát triển thường bị cản trở bởi nhiều yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa Do đó, nghiên cứu về các yếu tố thúc đẩy và cản trở sự tham gia của phụ nữ đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.

Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của cộng đồng, bao gồm: sự thiếu cam kết của chính phủ đối với cách tiếp cận có sự tham gia; sự không sẵn lòng của viên chức từ bỏ quyền lãnh đạo; thiếu động cơ và kỹ năng của cán bộ dự án; năng lực hạn chế của tổ chức cấp địa phương và thiếu đầu tư xây dựng năng lực cộng đồng; sự triển khai tham gia quá chậm; và sự mất niềm tin giữa chính quyền và các bên tham gia cấp địa phương.

Maria Aycrigg (1998) đã thảo luận về các lực cản thể chế ảnh hưởng đến quản lý, bao gồm đồng thuận quản lý, giới hạn về nguồn lực, sự tham vấn đối với sự tham gia, và bằng chứng về giá trị gia tăng.

Sự tham gia của người hưởng lợi trong các chương trình phát triển thường bị cản trở bởi nhiều yếu tố, bao gồm năng lực của các tổ chức phi chính phủ (NGO) và sự cam kết của chính quyền Trond Vedeld (2001) đã chỉ ra rằng các cản trở này bao gồm cấu trúc đẳng cấp của các thiết chế tại Ấn Độ, sự thiếu hụt cam kết từ chính phủ, và năng lực thể chế Ngoài ra, tính đa dạng trong cấu trúc, chuyên môn và tổ chức, cũng như các thái độ và văn hóa của viên chức cũng góp phần vào những rào cản này Cuối cùng, năng lực của NGO trong việc quản lý quá trình tham gia và các lực cản từ năng lực địa phương cũng là những yếu tố cần được xem xét.

Sự tham gia của phụ nữ trong các dự án cộng đồng gặp nhiều thách thức đặc thù, đòi hỏi phải xác định rõ các yếu tố thúc đẩy và cản trở Một điểm yếu chung của các tổ chức cộng đồng tại khu vực dự án là thiếu sự thu hút phụ nữ tham gia, mặc dù nhiều lãnh đạo tổ chức nhận thấy rằng phụ nữ thường cam kết và dành nhiều thời gian cho sự tham gia hơn nam giới.

Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (1994) chỉ ra rằng phụ nữ gặp nhiều rào cản trong phát triển kinh tế, bao gồm khoảng cách giới trong giáo dục và sức khỏe Họ bị hạn chế về thời gian và địa điểm khi tương tác với cán bộ nam giới, cũng như không được xem xét trong các chương trình tập huấn Ngoài ra, vai trò chăm sóc hộ gia đình nặng nề cũng cản trở sự tham gia của phụ nữ vào nền kinh tế Các rào cản pháp luật và vai trò kép của phụ nữ tại nhà và nơi làm việc càng làm gia tăng khó khăn trong việc thúc đẩy sự phát triển của họ.

Sự tham gia của phụ nữ trong các dự án cấp nước và vệ sinh là rất quan trọng, vì họ đóng vai trò chủ chốt cho sự thành công của các dự án này Nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự góp mặt của phụ nữ không chỉ mang lại những điểm đặc thù mà còn ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả của các chương trình liên quan đến nước và vệ sinh.

Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong quản lý nước và vệ sinh hộ gia đình, nhưng thường gặp phải rào cản về vị trí, thiết kế hệ thống, và lập chương trình, khiến họ khó tiếp cận dịch vụ Chẳng hạn, ở Ấn Độ, thiết kế thiết bị cấp nước xa nhà làm cho phụ nữ phải sử dụng nguồn nước ô nhiễm thay vì nguồn nước sạch từ thiết bị hiện đại Tại Việt Nam, nghiên cứu trong 10 năm qua chỉ ra rằng bất bình đẳng giới đối với phụ nữ thể hiện rõ trong phân công lao động nội trợ, các hoạt động kinh tế, và sự chênh lệch trong vai trò kinh tế và địa vị trong gia đình Ngoài ra, phụ nữ cũng gặp khó khăn trong việc giáo dục và định hướng cho con cái, cũng như trong các vấn đề liên quan đến mức sinh và bạo lực giới.

Các khái niệm công cụ

+ Dự án phát triển: là những dự án được xây dựng nhằm phục vụ cho đời sống của một bộ phận hay cộng đồng dân cư

Kể từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20, khái niệm “dự án phát triển bền vững” đã trở thành một phần không thể thiếu trong các dự án phát triển Điều này cho thấy rằng mục tiêu chung của các dự án hiện nay là hướng tới sự phát triển bền vững.

Thuật ngữ "phát triển bền vững" lần đầu tiên được giới thiệu vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới của IUCN Nội dung chính của thuật ngữ này nhấn mạnh rằng sự phát triển của nhân loại không chỉ nên tập trung vào phát triển kinh tế, mà còn cần phải tôn trọng các nhu cầu xã hội thiết yếu và ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.

Báo cáo Brundtland, hay còn gọi là Báo cáo Our Common Future của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED), định nghĩa phát triển bền vững là khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai Điều này có nghĩa là phát triển bền vững cần đảm bảo sự phát triển kinh tế hiệu quả, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.

Trong các dự án do nhà tài trợ nước ngoài thực hiện, việc xây dựng dự án theo hướng "phát triển bền vững" là điều quan trọng nhất Thiết kế kỹ thuật cần phải cân bằng giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường để đảm bảo tính hài hòa và hiệu quả lâu dài.

Dự án cấp nước cho các thị trấn nhỏ tại Việt Nam, được tài trợ không hoàn lại 20 triệu Euro từ chính phủ Phần Lan qua Bộ Ngoại giao, nhằm cải thiện điều kiện nước sinh hoạt và vệ sinh cho người dân Dự án áp dụng mô hình Thiết kế - Xây dựng - Vận hành (DBL) tại 12 thị trấn thuộc 4 tỉnh Bắc Cạn, Hưng Yên, Hải Phòng và Thái Bình.

+ Thị trấn: Thị trấn là đô thị cấp V và là đơn vị hành chính tương đương cấp xã

Cơ quan quản lý Nhà nước cấp huyện tại Việt Nam thường được đặt tại một thị trấn gọi là huyện lỵ; tuy nhiên, không phải tất cả các thị trấn đều là huyện lỵ của một huyện.

Tiêu chí phân loại khu vực dân cư thành thị trấn hay xã thường dựa vào tỷ lệ ngành nghề Cụ thể, tại xã, tỷ lệ dân số làm trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp thường cao hơn so với thị trấn Hơn nữa, trong một huyện, mật độ dân số tại các thị trấn thường cao hơn so với mật độ dân số tại các xã.

Sự tham gia là một quá trình quan trọng, trong đó các bên liên quan có thể ảnh hưởng và chia sẻ trách nhiệm quản lý đối với việc phát triển các sáng kiến, quyết định và nguồn lực có ảnh hưởng đến họ.

Trong quá trình tham gia, việc tham vấn và lắng nghe là điều kiện tiên quyết cần thiết Sự tham gia "phổ biến" bao gồm những người nghèo và những cá nhân gặp khó khăn về sức khỏe, giáo dục, cũng như những vấn đề liên quan đến sắc tộc và giới tính.

Bình đẳng giới đề cập đến việc nam và nữ có vị trí và vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện để phát huy năng lực cho sự phát triển của cộng đồng và gia đình Cả hai giới đều có quyền thụ hưởng như nhau từ những thành quả của sự phát triển này.

Bình đẳng giới có thể hiểu là sự ngang bằng về mặt cơ hội giữa nam giới và phụ nữ trong quá trình phát triển

Ngược lại, bất bình đẳng giới có thể được hiểu là sự không ngang bằng giữa nam giới và phụ nữ trong quá trình phát triển

Định kiến giới đề cập đến những nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực đối với đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam giới hoặc nữ giới.

Các chính sách và bối cảnh xã hội của các chính sách về sự tham gia

1.4.1 Các chính sách của Việt Nam

Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng Nho Giáo, dẫn đến tình trạng "trọng nam khinh nữ" Đây là một trong những hệ quả rõ rệt của tư tưởng này trong xã hội.

Trong thời phong kiến, phụ nữ Việt Nam không có quyền lực trong gia đình và xã hội, với mọi quyết định đều thuộc về nam giới Họ chỉ đóng vai trò hỗ trợ trong các quyết định của đàn ông Tuy nhiên, sự ra đời của pháp luật Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ hiến pháp năm 1946 đến hiến pháp năm 1992, đã đưa ra nhiều điều khoản bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc nâng cao vị thế của họ trong xã hội.

Để nâng cao quyền kinh tế cho phụ nữ, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Sửa đổi đất đai năm 2003, quy định rằng tất cả giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất phải ghi rõ tên của cả vợ và chồng.

Các giấy tờ về quyền sử dụng đất giúp bảo đảm quyền và nghĩa vụ của người phụ nữ đối với tài sản đất đai đó

Giấy tờ này không chỉ hỗ trợ phụ nữ trong việc vay vốn đầu tư sản xuất kinh doanh mà còn bảo vệ quyền lợi của họ trong trường hợp ly hôn và phân chia tài sản.

Luật Bình đẳng giới năm 2006, được Quốc hội khoá XI thông qua vào ngày 29/11/2006 và có hiệu lực từ 01/7/2007, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ so với nam giới Đây là văn bản pháp luật chuyên ngành đầu tiên, tạo nền tảng pháp lý quan trọng cho nhà nước trong việc quản lý hiệu quả lĩnh vực bình đẳng giới.

Ngày 27/4/2007, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW nhằm nâng cao công tác phụ nữ trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Nghị quyết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường lãnh đạo của Đảng và đổi mới công tác phụ nữ, nhằm khuyến khích sự tham gia chủ động và đóng góp lớn hơn của phụ nữ vào sự phát triển của gia đình, cộng đồng và đất nước, đồng thời thực hiện bình đẳng giới.

Cùng với Luật Bình đẳng giới và Nghị Quyết 11, Quốc hội cùng các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện đồng bộ các quy định về bình đẳng giới Các văn bản này bao gồm Luật phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Cán bộ, công chức, cùng với các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Bình đẳng giới và Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010.

21 Điều 4 Mục tiêu bình đẳng giới

Mục tiêu của bình đẳng giới là loại bỏ sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ, đảm bảo cơ hội phát triển kinh tế - xã hội và nguồn nhân lực cho cả hai giới Điều này hướng tới việc đạt được sự bình đẳng thực chất giữa nam và nữ, đồng thời thiết lập và củng cố mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.

(Trích Luật bình đẳng giới năm 2006)

Luật pháp Việt Nam thể hiện nỗ lực mạnh mẽ trong việc xóa đói giảm nghèo và thúc đẩy bình đẳng giới Theo đánh giá quốc tế, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng từ vị trí 109 lên 105 trong số 177 nước Đồng thời, chỉ số giới (GDI) cũng cải thiện, từ hạng 109/177 lên 91/157, với chỉ số khoảng cách giới đạt 0,678, cho thấy sự tiến bộ trong công tác bình đẳng giới.

Trong vòng 20 năm qua, 68 trong số 130 quốc gia đã đạt được sự thay đổi nhanh chóng nhất trong việc xóa bỏ khoảng cách giới tại khu vực Đông Á.

Mặc dù có những thay đổi tích cực, nhưng ảnh hưởng của chế độ xã hội cũ vẫn khiến phụ nữ thường chỉ là "cái bóng" của nam giới trong cả gia đình lẫn xã hội Sự bất bình đẳng này thể hiện rõ ràng trong các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, quản lý và hoạt động xã hội.

1.4.2 Các chính sách về sự tham gia và các chính sách về giới của các nhà tài trợ quốc tế

Để nhận được tài trợ ưu đãi từ các tổ chức nước ngoài cho các dự án phát triển, các cơ quan hành chính Việt Nam phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt về môi trường và xã hội Đặc biệt, việc đảm bảo an toàn xã hội là một trong những yếu tố quan trọng mà các nhà tài trợ quốc tế đặc biệt chú trọng.

1.4.2.1 Các chính sách về sự tham gia

Trong tài liệu chiến lược giảm nghèo (PRSPs), quá trình tham gia cần được thiết kế theo "định hướng kết quả" để đảm bảo sự tham gia hiệu quả trong các chương trình thực hiện và giám sát đánh giá Kết quả của chiến lược không chỉ là văn bản mà còn là hành động của cộng đồng nhằm giảm nghèo Việc xây dựng tiến trình có sự tham gia phải giữ nguyên tắc tiếp cận dựa trên kết quả từ đầu và có sự hỗ trợ về mặt thể chế để tạo ảnh hưởng lâu dài qua chính sách và thực hiện Nếu quá trình tham gia không đầy đủ, có thể dẫn đến những khuyến nghị mơ hồ, ảnh hưởng đến chính sách chống đói nghèo Ngược lại, tiếp cận dựa trên kết quả khuyến khích tất cả các bên liên quan tham gia, tạo cảm giác sở hữu và ảnh hưởng đến tiến trình, đồng thời dựa trên nội dung của tài liệu chiến lược và các vấn đề cụ thể của từng nhóm liên quan.

1.4.2.2 Các chính sách về giới

Vấn đề giới là một yếu tố quan trọng trong chính sách đảm bảo an toàn của các nhà tài trợ, bao gồm cả Ngân hàng Thế giới Phân tích giới được coi là một phần không thể thiếu trong tất cả các dự án, đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá các khía cạnh xã hội.

Phân tích giới là một phương pháp phân tích xã hội nhằm hiểu và chứng minh sự khác biệt trong vai trò, hoạt động, nhu cầu và cơ hội giữa các giới tính trong các bối cảnh nhất định Phương pháp này sử dụng dữ liệu định tính phân tích theo yếu tố giới, làm nổi bật các vai trò và hành vi học hỏi khác nhau của nam và nữ dựa trên các thuộc tính giới Những khác biệt này được thể hiện qua các yếu tố như văn hóa, giai tầng, chủng tộc, thu nhập, giáo dục và thời gian, do đó, phân tích giới không chỉ đơn thuần là một lĩnh vực nghiên cứu mà còn là một công cụ quan trọng để nhận thức và giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến giới tính.

23 phụ nữ như một nhóm đồng nhất hay các thuộc tính giới như không thể thay đổi.[69, tr202]

Tổng quan về địa bàn nghiên cứu và dự án cấp nước cho các thị trấn nhỏ Việt Nam

Thị trấn Nà Phặc thuộc huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Cạn, được thành lập từ năm

Thị trấn Nà Phặc được thành lập vào năm 1979 trên diện tích 6245 ha, là kết quả của việc sơ tán các cơ quan chính quyền tỉnh Cao Bằng do chiến tranh biên giới Việt Nam – Trung Quốc Trước đó, khu vực này thuộc xã Thiều Quang với dân cư sống rải rác xa quốc lộ Sau khi dân sơ tán từ Cao Bằng về định cư hai bên quốc lộ 3, thị trấn ngày càng đông đúc với sự di cư của người dân từ các vùng khác Nà Phặc cách thị xã Bắc Cạn khoảng 40 km và cách thị trấn Ngân Sơn, thủ phủ huyện Ngân Sơn, khoảng 10 km, cả hai đều theo quốc lộ 3.

Dân số của Nà Phặc năm 2004 là 1.387 hộ với 6.295 khẩu và năm 2005 là 1.390 hộ với 6.365 khẩu

Thị trấn Tiên Lãng, nằm ở phía nam thành phố Hải Phòng, là trung tâm kinh tế, văn hóa và chính trị của huyện Tiên Lãng với diện tích tự nhiên 739,6 ha Thị trấn này giáp sông Văn Úc ở phía Đông, xã Cấp Tiến và xã Tiên Thanh ở phía Tây, xã Bạch Đằng và xã Quang Phục ở phía Nam, và xã Quyết Tiến ở phía Bắc Tổng nhân khẩu của thị trấn cũng là một yếu tố quan trọng trong sự phát triển của khu vực.

24 trên toàn thị trấn là 11.814 người, lớn nhất huyện, tương đuơng với 3.033 hộ Tỷ lệ tăng dân số 3,98%/năm

Thị trấn Tiên Lãng, được quy hoạch theo hướng đô thị từ năm 1987, chia thành 8 khu dân cư dựa trên địa giới của 5 làng thuộc xã Minh Đức cũ Hơn 70% hộ gia đình tại đây vẫn làm nông nghiệp, cao hơn mức trung bình toàn quốc (67%), với thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp Diện tích đất canh tác hạn chế, chỉ khoảng 220 m²/người, và thị trấn không có cơ sở công nghiệp lớn, chỉ tồn tại một vài doanh nghiệp tư nhân.

Dự án cấp nước cho các thị trấn nhỏ tại Việt Nam được thực hiện dưới sự tài trợ của chính phủ Phần Lan, nhằm nâng cao điều kiện cơ sở hạ tầng Dự án này tuân thủ quy trình đầu tư xây dựng một cách nghiêm ngặt, đảm bảo hiệu quả và bền vững trong việc cung cấp nước sạch cho cộng đồng.

Chu trình của dự án xây dựng bao gồm ba giai đoạn chính: chuẩn bị dự án, thực hiện dự án và kết thúc dự án Các giai đoạn này phải được thực hiện theo thứ tự, và nếu một giai đoạn bị dừng lại, dự án sẽ bị loại bỏ.

Hình 1.3: Chu trình của một dự án đầu tư xây dựng

Giai đoạn chuẩn bị dự án đánh dấu thời điểm hình thành ý tưởng, trong đó sự tham gia của người dân chưa được thực hiện Thông tin liên quan đến giai đoạn này cũng chưa được công bố rộng rãi, dẫn đến việc cộng đồng không được thông báo đầy đủ về dự án.

Trong giai đoạn thực hiện dự án, sự tham gia của người dân sẽ được thể hiện rõ ràng trong các giai đoạn lập dự án đầu tư xây dựng và thi công xây dựng Tuy nhiên, người dân không có thông tin và không tham gia vào hai giai đoạn thiết kế và đấu thầu.

Giai đoạn kết thúc dự án: Có thể có sự tham gia của người dân nhưng mức tham gia đó là không nhiều

TƯỞNG LẬP BÁO CÁO ĐẦU

2.1 GIAI ĐOẠN LẬP DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG

2.4 GIAI ĐOẠN THI CÔNG XÂY DỰNG

3.1 GIAI ĐOẠN VẬN HÀNH THỬ VÀ BÀN GIAO 3.2 GIAI ĐOẠN BẢO HÀNH

Nghiên cứu sẽ tập trung phân tích những giai đoạn có sự tham gia của người dân

Trong giai đoạn xây dựng và vận hành bảo dưỡng, vai trò của người dân chủ yếu là giám sát việc thực hiện có tuân thủ các cam kết và quy chuẩn ban đầu hay không.

Giai đoạn lập dự án đầu tư xây dựng là giai đoạn quan trọng, đòi hỏi sự tham gia tích cực của người dân Trong giai đoạn này, các bước thực hiện sẽ được tiến hành để đảm bảo dự án đáp ứng nhu cầu và mong muốn của cộng đồng.

Hình 1.4 Các bước trong giai đoạn lập dự án đầu tư xây dựng

Khảo sát kinh tế xã hội được thực hiện để đánh giá thực trạng cấp nước tại địa phương, tình hình sử dụng nước của người dân, nhu cầu về nước sạch, cũng như khả năng chi trả của họ cho dịch vụ nước.

Khảo sát cam kết đấu nối là bước quan trọng trong việc triển khai hệ thống cấp nước mới Sau khi xác định giá nước, mức nước sử dụng tối thiểu và các tiêu chuẩn kỹ thuật, các hộ gia đình sẽ được thông báo đầy đủ thông tin trước khi quyết định ký vào bản cam kết Dự án sẽ chỉ được tiếp tục nếu có trên 80% số hộ gia đình trong xã đồng ý tham gia đấu nối vào hệ thống cấp nước mới.

LÊN PHƯƠNG ÁN KĨ THUẬT, TÀI CHÍNH, GIÁ NƯỚC, TÁI ĐỊNH CƯ, THỂ CHẾ, MÔI TRƯỜNG

KHẢO SÁT CAM KẾT ĐẤU NỐI

KHẢO SÁT TÁI ĐỊNH CƯ

BÁO CÁO ĐẦU TƯ XÂY DỰNG KHẢO SÁT KINH TẾ XÃ HỘI

Khảo sát tái định cư nhằm tham vấn người dân về giá đền bù, hình thức đền bù và hỗ trợ phục hồi dự án cho những người bị ảnh hưởng về đất đai, tài sản và thu nhập Mục tiêu là đảm bảo rằng mức sống của những người bị ảnh hưởng bởi dự án ít nhất bằng hoặc cao hơn mức sống trước khi dự án được triển khai.

Chiến dịch thông tin – giáo dục – truyền thông (IEC) là một phần quan trọng trong dự án tại địa phương, nhằm cung cấp thông tin cho người dân về dự án và lợi ích của nước sạch cùng vệ sinh Mục tiêu của chiến dịch là khuyến khích người dân sử dụng nước sạch, đặc biệt là nước máy, để đảm bảo sức khỏe cho bản thân, gia đình và cộng đồng Ngoài ra, chiến dịch cũng kêu gọi người dân bảo vệ nguồn nước và các công trình cấp nước được xây dựng trong tương lai.

Giám sát thực hiện là công việc quan trọng của người dân trong giai đoạn thi công, vận hành và quản lý nhà máy nước, nhằm đảm bảo tuân thủ các quy chuẩn Nếu phát hiện vi phạm, người dân có quyền khiếu nại các cá nhân hoặc đơn vị liên quan đến cơ quan có thẩm quyền.

NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 28 2.1 Các biểu hiện sự tham gia của phụ nữ vào dự án

Phụ nữ tham gia dưới hình thức “Nghe và biết thông tin về dự án”

Khởi nguồn của sự tham gia vào bất kỳ hoạt động nào đều bắt đầu từ việc nắm bắt thông tin liên quan Để người dân quan tâm đến nhà máy nước, thông tin cần được truyền đạt một cách trực tiếp hoặc gián tiếp Điều này bao gồm việc nghe và hiểu thông tin về dự án, nguồn gốc thông tin, cũng như mức độ xác thực của thông tin đã tiếp nhận.

Hình 2.1 : Những thông tin về dự án mà người dân nghe và biết

Những thông tin về dự án

Nguồn thông tin từ đâu?

Nghe và biết những thông tin gì? Mức độ kiểm tra lại độ chính xác thông tin

Dự án cấp nước chứa đựng nhiều thông tin quan trọng, bao gồm các vấn đề kỹ thuật như công suất, nguồn nước, quy trình xử lý và vị trí nhà máy Ngoài ra, dự án còn liên quan đến các yếu tố xã hội như ảnh hưởng đến đất đai, tài sản và lợi ích cộng đồng Về môi trường, việc xây dựng nhà máy cần xem xét tác động đến cảnh quan và mức độ ô nhiễm không khí Thông tin về nhà tài trợ, thời gian thực hiện dự án và cơ quan quản lý nhà máy cũng là những yếu tố cần được lưu ý.

Quá trình tiếp nhận thông tin về dự án cấp nước của người dân là một quá trình chọn lọc, không phải tất cả thông tin đều được lắng nghe và cảm thấy cần thiết.

Một cuộc phỏng vấn với một phụ nữ 60 tuổi tại Tiên Lãng cho thấy, mặc dù bà biết về sự tồn tại của dự án xây dựng nhà máy nước, nhưng bà không nắm rõ thời gian khởi động dự án, vị trí cụ thể của nhà máy, và nhà tài trợ cho dự án Bà cũng đã nhầm lẫn về đối tượng được cung cấp nước, cho rằng toàn bộ dân cư huyện sẽ được hưởng lợi từ nhà máy nước ở trung tâm huyện, trong khi thực tế dự án chỉ phục vụ cho thị trấn Tiên Lãng mà thôi.

Nhiều thông tin mà người dân tiếp nhận thường mang tính phỏng đoán và không phản ánh đúng thực tế Chẳng hạn, dự án cấp nước tại thị trấn Tiên Lãng chỉ phục vụ cho cư dân trong thị trấn, nhưng người dân lại suy diễn rằng nhà máy nước sẽ phục vụ cho toàn huyện vì vị trí của nó nằm ở trung tâm huyện Tình trạng này không chỉ xảy ra với các công trình đang xây dựng mà còn với những công trình cấp nước đã đi vào hoạt động trong thời gian ngắn.

Hỏi: Bác có biết Nhà máy nước được xây dựng ở khu vực nào không?

Trả lời: ở Quẩy Thây đó

Câu hỏi đặt ra là ai quản lý Nhà máy nước này Tuy nhiên, người trả lời thừa nhận rằng họ không có thông tin rõ ràng về cơ quan hay tổ chức phụ trách.

(PV28, nam, 66 tuổi, khu 2, thị trấn Nà Phặc)

Thông tin mà người dân quan tâm thường trải qua nhiều nguồn khác nhau, dẫn đến khả năng sai lệch Nhiều thông tin không chính xác, như thông tin về nhà tài trợ, không gây ảnh hưởng lớn, khiến người dân không cảm thấy cần thiết phải nhớ chính xác Đặc biệt, có sự khác biệt trong việc ưu tiên thông tin giữa nam giới và phụ nữ.

Bảng 2.1: Sự khác biệt về thông tin ưu tiên của nam giới và phụ nữ

Nam giới và phụ nữ có những ưu tiên khác nhau khi xem xét vấn đề nước Đối với nam giới, ưu tiên hàng đầu là thời gian có nước sử dụng, tiếp theo là nguồn nước lấy từ đâu và vị trí xây dựng nhà máy Cuối cùng, giá nước cũng là một yếu tố quan trọng Trong khi đó, phụ nữ lại đặt giá nước lên ưu tiên số một, sau đó là thời gian có nước sử dụng, và cuối cùng là các hỗ trợ từ dự án như tiền đấu nối và hỗ trợ cho hộ nghèo.

Phụ nữ có xu hướng chú ý đến các vấn đề tài chính khi sử dụng nước, trong khi nam giới lại quan tâm đến khía cạnh kỹ thuật Điều này có thể do vai trò quản lý chi tiêu của phụ nữ trong gia đình, khiến họ lo lắng về chi phí và tác động đến ngân sách gia đình Ngược lại, nam giới thường không đặt nặng vấn đề tài chính mà thay vào đó tập trung vào tiện ích mà dự án cấp nước mang lại.

Bên cạnh đó, dường như còn có sự khác biệt về thông tin người dân nghe được của người dân ở thị trấn Tiên Lãng và Nà Phặc

Bảng 2.2: Thông tin nghe được của người dân thị trấn Tiên Lãng và thị trấn Nà Phặc

Người dân thị trấn Tiên Lãng Người dân thị trấn Nà Phặc

3 Thời gian bắt đầu cấp nước

4 Dự án này có những chương trình gì

5 Vị trí nhà máy nước

2 Thời gian bắt đầu cấp nước

3 Mất bao nhiêu tiền để mắc được nước sạch

Thu nhập bình quân đầu người ở thị trấn Tiên Lãng là 338.000 đồng/người/tháng,

Giá nước tại Nà Phặc là 317.000 đồng/người/tháng, trong khi người dân Tiên Lãng chỉ chi trung bình 14.700 đồng/tháng, với 6.416 đồng/tháng cho việc sử dụng nước Điều này cho thấy rằng "giá nước" và "chi phí lắp đặt" không phải là mối quan tâm hàng đầu của người dân Tiên Lãng, trong khi đó, đây lại là vấn đề quan trọng nhất đối với người dân Nà Phặc.

Về nguồn thông tin mà người dân thu được ở hai thị trấn cũng có khác nhau

Bảng 2.3: Nguồn thông tin về dự án nước sạch tại hai thị trấn Tiên Lãng và Nà Phặc

Thị trấn Tiên Lãng Thị trấn Nà Phặc

- Qua những hội nghị, tham quan tại Hà Nội do nhà tài trợ tổ chức

- Qua các cuộc họp của UBND xã

- Qua các cuộc họp thôn và chi hội phụ nữ

- Qua tuyên truyền trực tiếp tới hộ gia đình (một số rất ít)

- Qua những hội nghị, tham quan tại Hà Nội do nhà tài trợ tổ chức

- Qua hội phụ nữ tỉnh tuyên truyền

- Qua cuộc họp của UBND xã

- Qua các cuộc họp thôn và chi hội phụ nữ

- Qua tuyên truyền trực tiếp tới hộ gia đình (tuyên truyền viên tới tất cả các hộ)

Chương trình nước Phần Lan tổ chức tập huấn cho các tuyên truyền viên tại Hà Nội nhằm đảm bảo thông tin chính xác và tránh sai lệch Ngoài ra, các tuyên truyền viên còn được tham quan mô hình nhà máy nước Yên Phụ.

Một điểm khác biệt giữa hai thị trấn là cách thức người dân nhận thông tin Tại Nà Phặc, người dân tiếp cận thông tin trực tiếp qua các tuyên truyền viên thông qua hộ gia đình và các phiên chợ Trong khi đó, tại Tiên Lãng, thông tin chủ yếu được truyền đạt qua các buổi họp thôn.

Dường như cũng có sự khác nhau giữa nguồn thông tin thu được giữa nam và nữ

Bảng 2.4 Nguồn thu nhận thông tin của nam giới và phụ nữ

1 Các hội nghị và tham quan do nhà tài trợ

2 Các cuộc họp với UBND xã

4 Từ người vợ (đối với Tiên

1 Các hội nghị và tham quan do nhà tài trợ

2 Các cuộc họp với UBND xã

3 Các cuộc họp thôn, hội phụ nữ

4 Các cuộc trao đổi giữa chị em trong phiên chợ và hàng ngày

5 Từ người chồng Điều này cho thấy, phụ nữ thu nhận thông tin từ nhiều nguồn hơn nam giới, đặc biệt, hình thức trao đổi giữa các chị em trong các buổi phiên chợ (ở Nà Phặc) được coi là một kênh truyền thông khá hiệu quả “Thôn tôi có 1 tổ người dân tộc ở rất xa, cách khoảng 4km đó là khu Khuẩy Thây Liên lạc lên đó còn khó vì bà tổ trưởng điện thoại cũng không có, phải nhắn trẻ em đi học Hoặc các phiên họp trong các ngày chợ, bà con đi chợ rồi đi trao đổi luôn” (PV21, nam, 50 tuổi, khu 1, thị trấn Nà Phặc)

Kênh thông tin từ vợ/chồng là một phương tiện phổ biến ở Tiên Lãng, nhưng tại Nà Phặc, phụ nữ thường không trao đổi với chồng sau các cuộc họp Nguyên nhân là do chồng họ thường say xỉn và không nắm bắt thông tin, dẫn đến việc chị em tự quyết định mà không cần tham khảo ý kiến của chồng.

Nhiều phụ nữ thường ngại chia sẻ cảm xúc của mình với chồng vì sợ bị mắng chửi hoặc đánh đập Một người phụ nữ 50 tuổi ở thôn Bản Cày, thị trấn Nà Phặc cho biết: "Chúng tôi không dám nói gì với các ông ấy" Điều này cho thấy sự lo lắng và áp lực mà nhiều chị em phải chịu đựng trong cuộc sống gia đình.

Phụ nữ tham gia bằng hình thức “đóng góp tiền bạc và lao động cho dự án”

Theo khảo sát kinh tế xã hội trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, gần 92% hộ gia đình tại thị trấn Tiên Lãng bày tỏ mong muốn tham gia vào việc xây dựng nhà máy nước Tương tự, tại thị trấn Nà Phặc, tỷ lệ này lên tới 99,4%.

Hình 2.2: Tỉ lệ hình thức mong muốn đóng góp vào việc xây dựng nhà máy nước (%)

Các hình thức đóng góp

Bằng tiền và công lao động

Hình thức đóng góp dường như không có sự khác biệt nhiều về giới (p=0,612), nhưng lại có xu hướng khác biệt về vùng miền

Hình 2.3: Tỉ lệ các hình thức đóng góp tham gia xây dựng nhà máy nước (%)

Nam Nữ Đóng góp bằng cả tiền và hiện vật Đóng góp bằng hiện vật Đóng góp bằng tiền

Hầu hết người dân đều khao khát tham gia vào quá trình xây dựng nhà máy nước, trong đó hình thức đóng góp bằng tiền được ưa chuộng nhất tại cả hai thị trấn.

H ìn h th ức đ ón g gó p

Dự án cấp nước do chính phủ Phần Lan tài trợ mang lại lợi ích cho người dân với chi phí lắp đặt hoàn toàn miễn phí Người dân chỉ phải thanh toán tiền nước dựa trên mức sử dụng thực tế Công việc lao động công ích như đào đường để lắp ống và hoàn trả mặt bằng hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện của cộng đồng.

Tại Nà Phặc, người dân tham gia tích cực vào các dự án, tạo cảm giác gắn bó hơn với công việc, như khi họ cùng nhau đào đường ống nước với niềm vui và sự hăng hái Ngược lại, tại Tiên Lãng, khái niệm “tham gia” chỉ đơn giản là đồng ý cho thực hiện dự án, với người dân sẵn sàng hỗ trợ bằng cách tạo điều kiện cho các hoạt động cần thiết, như giải tỏa mặt bằng Sự khác biệt này có thể phản ánh nét đặc trưng trong văn hóa của người dân tộc Tày và Nùng ở Nà Phặc, nơi mà tình cảm và sự chân thật được coi trọng hơn.

Văn hóa cộng đồng Nà Phặc thể hiện rõ nét qua tinh thần giúp đỡ lẫn nhau, không ngại ngần trong bất kỳ công việc nào Phụ nữ tại đây tích cực tham gia vào các hoạt động như tuyên truyền, vận động họp hành và lao động công ích, bao gồm cả việc đào đường ống nước Một người dân địa phương cho biết: "Chị em tham gia nhiều hoạt động lắm, từ tuyên truyền đến lao động công ích phụ nữ tham gia hết các hoạt động của dự án." Điều này cho thấy sự đóng góp của phụ nữ trong việc phát triển cộng đồng là rất quan trọng và đa dạng.

Phụ nữ ngày càng tham gia nhiều hơn vào công việc đào đường ống và lấp đi, không còn phân biệt giới tính trong lao động Họ thường làm việc gần nhà hoặc kết hợp việc chợ búa, cho thấy sự linh hoạt và đóng góp của phụ nữ trong các ngành nghề này.

36 tham gia được chứ nam giới nhiều anh đi làm ăn xa thì khó tham gia hơn” (PV28, nam,

66 tuổi, khu 2, thị trấn Nà Phặc).

Phụ nữ tham gia dự án bằng hình thức “tuyên truyền cho người khác”

Để nhà máy nước hoạt động hiệu quả, cần có một số lượng người dùng nước nhất định Tuy nhiên, việc sử dụng nước không miễn phí, người dân phải trả tiền cho nước sử dụng Điều này khiến nhiều người phải xem xét lợi ích của việc sử dụng nước.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của dự án là khuyến khích người dân tham gia sử dụng nước sạch Để tiếp tục triển khai dự án tại địa phương, cần có ít nhất 80% hộ gia đình cam kết đấu nối sử dụng nước sau khi công trình hoàn thành Do đó, việc tuyên truyền đã được chủ dự án và địa phương chú trọng ngay từ đầu Ban quản lý dự án và Ủy ban nhân dân thị trấn đã thành lập đội tuyên truyền viên tại mỗi thị trấn, bao gồm trưởng khu và Hội phụ nữ, nhằm vận động người dân sử dụng nước sạch Tại hai thị trấn Tiên Lãng và Nà Phặc, tỷ lệ nữ trong đội tuyên truyền viên bằng hoặc cao hơn nam, với 15/25 thành viên nữ ở Nà Phặc và 7/14 thành viên nữ ở Tiên Lãng.

Việc tuyên truyền có thể phân ra: Tuyên truyền cái gì? – Tuyên truyền cho ai? – Tuyên truyền bằng hình thức nào?

Hình 2.4: Việc tuyên truyền của phụ nữ trong khu vực dự án

Tuyên truyền bằng hình thức nào?

Tuyên truyền về dự án

Mục đích của tuyên truyền là để cho mọi người hiểu về dự án và cam kết đấu nối sử dụng

Bảng 2.6 : Nội dung tuyên truyền của các tuyên truyền viên của hai thị trấn

Thị trấn Nà Phặc Thị trấn Tiên Lãng

1 Lợi ích khi sử dụng nước sạch

2 Nguồn nước cũ không đảm bảo vệ sinh, nước máy mới đảm bảo vệ sinh

3 Được miễn phí toàn bộ khi tham gia dự án

4 Đây là sự ưu tiên của nhà nước đối với địa phương

5 Kinh nghiệm dùng nước sạch của bản thân

6 Bảo vệ nguồn nước máy

7 Những bất lợi tham gia sau khi dự án hoàn thành

1 Lợi ích khi sử dụng nước sạch

2 Nguồn nước cũ không đảm bảo vệ sinh

3 Được miễn phí toàn bộ khi tham gia dự án

4 Việc xây dựng nhà máy nước sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước hiện tại (không dùng nước sạch thì sau này cũng không có nước mà dùng)

Tại Nà Phặc, nội dung tuyên truyền về giá nước và chi phí sử dụng nước chưa được giải thích rõ ràng cho người dân Một cư dân cho biết: “Có nước sạch sử dụng thì tốt, nhưng việc mua bán nước như thế nào thì ban quản lý nước đã có khung giá của họ Nếu người dân phải trả tiền cho nước, chắc chắn sẽ gặp khó khăn.” Điều này cho thấy nhu cầu cần có thông tin minh bạch hơn về giá nước để người dân hiểu rõ và có thể chuẩn bị tài chính hợp lý.

Tại Tiên Lãng, với nhận thức dân trí cao hơn so với Nà Phặc, các tuyên truyền viên phải rất cẩn trọng trong việc cung cấp thông tin Một người dân cho biết: “Đến bọn tớ còn dấm da dấm dớ, chả nắm được thông tin gì cả,” cho thấy sự cần thiết phải cập nhật thông tin kịp thời và chính xác từ dự án Điều này chỉ ra rằng, tuyên truyền tại địa phương không phải lúc nào cũng rõ ràng, và người dân có xu hướng tin tưởng vào tuyên truyền viên hơn là vào các con số cụ thể.

Về nội dung tuyên truyền cũng có sự khác biệt giữa nam giới và phụ nữ

Bảng 2.7: So sánh nội dung tuyên truyền giữa nam giới và phụ nữ

1 Nguồn lấy nước và quá trình xử lý nước đảm bảo vệ sinh

2 Những bất lợi nếu tham gia sau khi dự án hoàn thành

3 Đây là sự ưu tiên của nhà nước đối với địa phương

1 Được miễn phí toàn bộ khi tham gia dự án

2 Lợi ích khi sử dụng nước sạch (đặc biệt là đối với chị em phụ nữ)

3 Kinh nghiệm dùng nước sạch của bản thân

5 Những bất lợi nếu tham gia sau khi dự án hoàn thành

6 Nguồn nước cũ không đảm bảo vệ sinh

Nam giới thường chú trọng vào việc truyền đạt kỹ thuật, trong khi phụ nữ lại quan tâm đến lợi ích thực tế Điều này cho thấy, nữ tuyên truyền viên thường tiếp cận và tuyên truyền cho phụ nữ, trong khi nam giới lại chủ yếu hướng đến nam giới.

Tại Tiên Lãng, công tác tuyên truyền tập trung vào việc giúp người dân, cả nam và nữ, nhận thức về lợi ích của việc cải thiện điều kiện sinh hoạt và đảm bảo cuộc sống Ngược lại, ở Nà Phặc, tuyên truyền chủ yếu nhắm đến việc bảo vệ nguồn nước, với thông điệp cụ thể rằng các thôn có nguồn nước sạch không được thả trâu vào để duy trì vệ sinh cho cộng đồng.

Bảng 2.8: Hình thức tuyên truyền của nam giới và phụ nữ

1 Các cuộc họp thôn (cả nam và nữ tham gia)

2 Các cuộc họp tại UBND xã

3 Ai đến nhà hỏi thì trả lời

1 Các cuộc họp trong chi hội phụ nữ

2 Tuyên truyền trực tiếp tới từng chị em trong các buổi phiên chợ, đến tận nhà người dân

Phụ nữ thường áp dụng phương pháp tuyên truyền gần gũi và thân thiện hơn so với nam giới, khi họ giao tiếp với người dân Trong khi nam giới chủ yếu sử dụng các kênh thông tin chính thức, phụ nữ lại chú trọng hơn đến việc khai thác các nguồn thông tin phi chính thức, tạo ra sự kết nối mạnh mẽ hơn với cộng đồng.

Tuyên truyền là một hình thức tham gia phổ biến, với nhiều cách thức, đối tượng và nội dung khác nhau Trong dự án này, việc sử dụng các kênh phi chính thức để tuyên truyền đã chứng tỏ là một phương tiện truyền thông hiệu quả.

Phụ nữ tham gia dự án qua hình thức “tham dự các buổi họp”

Các dự án của nhà tài trợ nước ngoài thường tổ chức các buổi lấy ý kiến từ người dân thông qua họp dân hoặc thảo luận nhóm Những vấn đề chính xung quanh các buổi họp này bao gồm thành phần tham dự, cách thức tham gia và khả năng phát biểu ý kiến của người dân Để đảm bảo hiệu quả, nhà tài trợ thường trực tiếp thuê tư vấn tổ chức các cuộc họp nhằm thu thập ý kiến từ cộng đồng.

Trong các cuộc họp nhóm thảo luận dự án tại Tiên Lãng và Nà Phặc, số lượng người tham gia dao động từ 5 đến 11 người, thấp hơn so với đề xuất ban đầu là 12-15 người Các nhóm tham gia bao gồm nhóm nam nghèo, nhóm nữ nghèo (họp 2 lần), nhóm cán bộ và nhóm khá, với nhóm khá được tổ chức chung cho cả nam và nữ.

Bảng 2.9: Số người tham dự các cuộc họp nhóm tại thị trấn Nà Phặc và Tiên Lãng

Số cuộc họp nhóm tổ chức 7 7

Số người tham gia trong cuộc họp đông nhất 8 11

Số người tham gia trong cuộc họp ít nhất 5 5

Trung bình số người tham gia trong mỗi cuộc họp 7 7

Mặc dù mỗi cuộc họp nhóm thường mời 15 người, nhưng trung bình chỉ có 7 người tham gia Nhiều khi, có người chỉ đến sau khi cuộc thảo luận đã kết thúc, hoặc thậm chí tham gia muộn trong quá trình thảo luận.

Trong một cuộc thảo luận nhóm, có 40 người được mời nhưng chỉ đứng ngoài cổng, không dám vào tham gia Họ cảm thấy ngại ngùng và chỉ quyết định vào gần cuối buổi họp.

Trong các cuộc họp, nhóm nam thường đông hơn nhóm nữ và thường đến đúng giờ hơn Sau khi kết thúc, mọi người đều ở lại trò chuyện một lúc trước khi ra về, không có ai về sớm, bất kể là nhóm nam hay nhóm nữ.

Mức độ phát biểu trong các cuộc họp giữa nam giới và phụ nữ có sự khác biệt rõ rệt Mặc dù phụ nữ thường được cho là nói nhiều hơn, nhưng thực tế họ ít phát biểu trong các cuộc họp do tâm lý sợ sai và thiếu tự tin khi nói trước đám đông Nhiều phụ nữ cảm thấy e ngại khi trình bày quan điểm, đặc biệt khi ý kiến của họ trái ngược với người khác Điều này dẫn đến việc họ dễ bị rơi vào “vòng xoáy im lặng” trong quá trình thảo luận.

Mặc dù phụ nữ thường ít phát biểu về các vấn đề chính trong các cuộc họp, họ lại thường xuyên chuyển sang những chủ đề riêng tư Điều này thể hiện rõ trong dự án nước sạch, nơi họ gặp khó khăn trong việc giao tiếp với nam giới, dẫn đến tình trạng ngại ngùng và thiếu tự tin Nhiều lần trong các buổi tập huấn, họ chỉ nói chuyện mà không chú ý đến việc ghi chép, điều này phần nào phản ánh trình độ học vấn thấp và những hạn chế trong khả năng của các cô gái.

44 tuổi, khu 1, thị trấn Tiên Lãng)

Trong các cuộc thảo luận nhóm, phụ nữ thường có xu hướng chia sẻ những ý kiến mang tính “kêu ca” về thực trạng hơn là đề xuất các giải pháp khắc phục Ngược lại, nam giới thường tập trung vào việc đưa ra những ý kiến mang tính “giải pháp”.

41 nhiều hơn Tuy nhiên, nhận định này cần được kiểm chứng lại bằng những nghiên cứu sâu hơn

Một điểm nổi bật trong việc tham gia dự án là ý kiến của người dân Nà Phặc đã góp phần thay đổi một phần quy định ban đầu của chủ dự án Theo quy định của chương trình nước Phần Lan, mức nước tối thiểu cho mỗi hộ gia đình là 4m3 và giá nước là 3.400 đồng/m3 Nếu hộ nào sử dụng dưới mức tối thiểu này vẫn phải thanh toán cho 4m3, tương đương 13.600 đồng/tháng.

Trong các cuộc họp triển khai dự án cấp nước tại thôn, các hộ gia đình đã bày tỏ sự không đồng tình với mức nước dùng tối thiểu Vấn đề này đã được trình lên UBND thị trấn Nà Phặc và chuyển đến chủ dự án Sau thời gian thảo luận và nghiên cứu, nhà tài trợ đã đồng ý giữ nguyên giá nước như ban đầu, nhưng mức nước dùng tối thiểu đã được điều chỉnh, không còn quy định là 4m3 nữa.

Thông tin từ UBND thị trấn Nà Phặc vào tháng 7/2009 cho thấy sự đóng góp của người dân đã góp phần thay đổi chính sách, giúp các quy định trở nên phù hợp hơn với điều kiện thực tế của cộng đồng.

Phụ nữ tham gia dự án bằng các hình thức giám sát thực hiện

Một trong những hình thức khuyến khích người dân tham gia dự án là giám sát việc thực hiện dự án Người dân ở cả hai địa phương đều ủng hộ hình thức này, như trường hợp của một cư dân tại thị trấn Nà Phặc cho biết: “Công việc giám sát không nặng nhọc, chỉ cần quan sát và phản ánh nếu có sai sót.”

Công việc này những thành viên trong hội phụ nữ tỏ ra rất năng nổ và nhiệt tình

Cô đã khuyến khích bà con đến nhà mình để tạo điều kiện cho họ làm việc, đồng thời giám sát và báo cáo nếu có vấn đề Trong các cuộc họp hội phụ nữ, cô thường triển khai hoạt động này và nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ chị em, họ cũng áp dụng tại gia đình mình.

Người dân hiện nay giám sát dự án một cách nhỏ lẻ và chưa có phương pháp giám sát tổng quát Họ chủ yếu tập trung vào việc đào và lắp đặt đường ống nước, mà chưa chú ý đến việc giám sát toàn bộ khu vực nhà máy, đặc biệt là khu vực bảo vệ nguồn nước Bảo vệ nguồn nước cấp là vấn đề quan trọng mà những người lập dự án cần quan tâm, vì nguồn nước sinh hoạt sẽ không thể sạch nếu đầu nguồn không được giữ gìn, dẫn đến ô nhiễm nguồn nước.

Mặc dù các địa phương đã triển khai tốt công tác tuyên truyền và bảo vệ nguồn nước, người dân vẫn thể hiện ý thức cao về vấn đề này Một người phụ nữ 50 tuổi ở Thôn Cốc Tào, thị trấn Nà Phặc chia sẻ: "Đi họp chị em bảo ban nhau phải bảo vệ nguồn nước chứ Nguồn nước mà ô nhiễm thì dù qua xử lý rồi thì vẫn là nước bẩn."

Việc bảo vệ nguồn nước tại thị trấn Nà Phặc vẫn gặp nhiều thách thức, đặc biệt là trong việc giám sát ô nhiễm nguồn nước, mặc dù hệ thống cấp nước đã hoạt động gần một năm Nhiều người dân vẫn thả trâu bò gần khu vực nguồn nước, dẫn đến nguy cơ ô nhiễm Một người dân cho biết: "Việc chăn trâu ở đầu nguồn cũng ảnh hưởng vì có lúc nó xuống đầm thì ảnh hưởng nước sạch." Điều này cho thấy rằng nhận thức về bảo vệ nguồn nước chưa được thực hiện đúng cách trong thực tiễn, mặc dù có thể người dân đã hiểu đúng về vấn đề này.

Trong quá trình giám sát, người dân đã nêu ra nhiều thắc mắc, nhưng tất cả đều được các tuyên truyền viên giải thích một cách chi tiết Nhờ đó, người dân đã hiểu rõ hơn về các vấn đề liên quan.

Tính đến thời điểm hiện tại, cả hai thị trấn đều có tiến triển trong các dự án, mặc dù dự án ở Tiên Lãng diễn ra chậm Tuy nhiên, các dự án còn lại vẫn tiến triển theo đúng mong đợi của người dân và chưa có bất kỳ tình trạng "phá hoại" nào từ phía cộng đồng.

Hình thức tham gia của người dân địa phương trong khu vực dự án rất đa dạng, cho thấy dự án không áp dụng cách tiếp cận "từ trên xuống" Chính sách của nhà tài trợ đã khuyến khích sự tham gia mạnh mẽ của người dân, đặc biệt là phụ nữ, vào dự án Mức độ tham gia của phụ nữ trong dự án cấp nước nhỏ sẽ được thảo luận chi tiết hơn trong phần sau Tóm lại, hình thức tham gia của người dân có thể được tổng hợp như sau:

Hình 2.5: Các hình thức tham gia của phụ nữ trong dự án cấp nước nhỏ

Các hình thức tham gia của phụ nữ trong dự án cấp nước nhỏ

Nghe và biết thông tin về dự án

Tham dự các buổi họp

Tuyên truyền cho người khác Đóng góp bằng tiền mặt và lao động công ích

Giám sát thực hiện và bảo vệ công trình

Các yếu tố thúc đẩy và rào cản đối với sự tham gia của phụ nữ vào dự án

Sự tham gia của người dân, đặc biệt là phụ nữ, trong các dự án phát triển, như dự án cấp nước tại Nà Phặc và Tiên Lãng, đã được thể hiện rõ nét Tuy nhiên, phụ nữ không phải lúc nào cũng được tham gia đầy đủ và rõ ràng Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tham gia của họ trong dự án này.

2.2.1 Các yếu tố cá nhân

Yếu tố cá nhân được đề cập đến ở đây bao gồm: yếu tố năng lực, yếu tố địa vị xã hội và yếu tố tâm lý

Năng lực ở đây được chia thành năng lực tham gia vào hoạt động xã hội và trình độ học vấn, trình độ nhận thức các vấn đề

Công tác xã hội đòi hỏi sự nhiệt tình, uy tín và niềm tin từ cộng đồng, điều này đặc biệt đúng với phụ nữ tham gia dự án Họ thường là những người có kinh nghiệm và được người dân tin tưởng, nhờ đó khi tuyên truyền về việc sử dụng nước sạch, ý kiến của họ dễ dàng nhận được sự đồng tình Sự tham gia tích cực của phụ nữ trong công tác tuyên truyền không chỉ thể hiện năng lực của họ mà còn là yếu tố thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng Như một phụ nữ 61 tuổi đã chia sẻ: “Người ta hỏi thì chúng tôi nói được, dám đứng lên tập thể nói được thì chúng tôi trả lời thế thôi.”

Phụ nữ nhận thấy rằng việc tham gia vào công tác xã hội giúp họ tham gia hiệu quả hơn vào các dự án, đặc biệt tại những khu vực có phong trào chi hội phụ nữ mạnh như thị trấn Nà Phặc và Tiên Lãng Cả nam giới và phụ nữ đều công nhận vai trò quan trọng của phụ nữ trong những hoạt động này.

45 nếu có trình độ học vấn và sự hiểu biết càng cao thì khả năng họ tham gia vào dự án càng lớn

Những người có trình độ học vấn cao thường có khả năng lớn hơn để được chính quyền đề xuất tham gia vào các dự án, vì họ sở hữu kiến thức và sự nhanh nhạy trong việc nắm bắt thông tin.

Học vấn cao giúp người dân nắm bắt thông tin về dự án nhanh chóng và tìm ra những giải pháp hợp lý để tuyên truyền về ý nghĩa của việc sử dụng nước sạch Ngược lại, hạn chế về trình độ học vấn gây khó khăn cho sự tham gia của phụ nữ trong các dự án, đặc biệt ở những vùng xa xôi, nơi mà việc tổ chức họp và truyền đạt thông tin gặp nhiều thách thức Điều này dẫn đến việc hiểu sai vấn đề, ảnh hưởng đến hiệu quả của các hoạt động triển khai.

2.2.1.2 Yếu tố địa vị xã hội Địa vị xã hội ở đây đề cập đến chức vụ nắm giữ trong bộ máy chính quyền Việc dự án triển khai ở địa phương, cán bộ chính quyền thường là người nắm được thông tin nhanh và cụ thể nhất để thông báo cho người dân Việc phụ nữ là cán bộ trong bộ máy chính quyền chính là một lợi thế trong việc nắm giữ thông tin về dự án, đặc biệt là tham dự các cuộc họp triển khai các thông tin về dự án: “Hồi đấy cô đóng vai trò cũng nhiều lắm: xóm trưởng, làm chi hội phó phụ nữ thôn, bên nông dân cũng làm chi hội phó nên đương nhiên là được mời đi họp, nên thông tin gì mình cũng biết” (PV10, Nữ, 61 tuổi, khu 1, thị trấn Tiên Lãng)

Phụ nữ có địa vị xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích những phụ nữ khác tham gia vào dự án Yếu tố tâm lý "phụ nữ đồng cảnh ngộ" thể hiện rõ khi một người như bà H.T.Đ, với những hoạt động tích cực, đã thu hút sự tham gia đông đảo từ hội phụ nữ trong cộng đồng.

Tào, thị trấn Nà Phặc)

Tuy nhiên, đối tượng chính trong việc tuyên truyền vẫn là phụ nữ, vì nam giới thường chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của những nỗ lực này từ phái nữ.

Phụ nữ thường không giữ các vị trí lãnh đạo quan trọng, dẫn đến việc quyết định chủ yếu thuộc về nam giới Một phụ nữ 52 tuổi ở Tiên Lãng chia sẻ rằng mặc dù cô có khả năng tuyên truyền và vận động tốt hơn nam trưởng khu, nhưng mọi quyết định vẫn phải hỏi ý kiến ông ấy Điều này cho thấy địa vị xã hội ảnh hưởng lớn đến sự tham gia của phụ nữ, với vị trí cao thúc đẩy sự tham gia nhiều hơn.

Một trong những rào cản chính đối với sự tham gia của phụ nữ là yếu tố tâm lý Nhiều phụ nữ cảm thấy e dè và ngại ngùng khi trình bày quan điểm trước đám đông Một phụ nữ chia sẻ: “Có chị em nghĩ ra nhưng không dám phát biểu, sợ người khác cười chê và mất quan điểm.” Điều này cho thấy tâm lý tự ti là một yếu điểm cần được khắc phục.

Trong khi đó, phụ nữ lại thường bàn luận rất sôi nổi những chuyện ngoài lề:

Chị em thường ít phát biểu trong các cuộc họp, mặc dù bên ngoài họ có vẻ hoạt bát và năng động Tâm lý sợ sai khiến họ ngần ngại khi tham gia thảo luận.

Sự e dè của phụ nữ khiến cho ý kiến của họ thường không được trình bày, dẫn đến việc mọi người khó hiểu và nắm bắt được tâm tư của chị em.

Hỏi: Nếu tham gia các cuộc họp cô có hay phát biểu không?

Trả lời: Cũng run không dám nói ý kiến của mình, sợ mọi người không hiểu,

(PV6, nữ, 49 tuổi, khu 4, thị trấn Tiên Lãng)

Nhiều phụ nữ cảm thấy tự ti về trình độ học vấn và khả năng kinh tế của bản thân so với chồng, dẫn đến việc họ thường “nhường” quyền quyết định trong gia đình.

Nhiều phụ nữ thường không dám tự mình ký vào các bản cam kết quan trọng, như cam kết sử dụng nước, mà thường để chồng họ thực hiện điều này Đây là một tâm lý điển hình thể hiện sự phụ thuộc và vai trò của người chồng trong các quyết định quan trọng trong gia đình.

Người nam giới cũng nhìn thấy điểm bất lợi trong quá trình tham gia này của phụ nữ

Bảng 2.10: Cách nhìn nhận của nam giới và phụ nữ về sự tham gia của phụ nữ

Cách nhìn nhận của nam giới

Cách nhìn nhận của phụ nữ

- Nhiệt tình, không trốn tránh thoái thác công việc

- Ngại phát biểu, tâm lý sợ sai, mọi người cười

- Không dám một mình đưa ra ý kiến, nhưng bàn luận thì sôi nổi

- Công việc đã được giao thì phấn đấu thực hiện cho bằng được dù có bận việc gì đi nữa

- Cho rằng mình không bằng người chồng nên quyền quyết định đương nhiên thuộc về người chồng

Tâm lý e ngại và cảm giác tự ti của phụ nữ về khả năng của mình so với nam giới đã tạo ra rào cản trong việc tham gia các hoạt động xã hội, đặc biệt là dự án cấp nước Điều này được ghi nhận rõ ràng ở phụ nữ tại thị trấn Tiên Lãng, trong khi phụ nữ ở Nà Phặc lại không gặp phải rào cản này Ngược lại, họ cảm thấy có quyền tự quyết trong các vấn đề liên quan, như việc ký cam kết sử dụng nước sạch.

Thảo luận

2.3.1 Phụ nữ trong dự án “cấp nước cho các thị trấn nhỏ Việt Nam” tham gia tương ứng với nấc thang nào?

Nhà xã hội học S Arnstein đã phát triển mô hình 8 nấc thang tham gia của người dân trong quá trình xây dựng chính sách và ra quyết định vào những năm 60 Mô hình này bắt đầu từ nấc thấp nhất, thể hiện sự không tham gia, cho đến nấc cao nhất, nơi người dân được trao quyền quyết định và kiểm soát hoàn toàn.

Mô hình tám nấc thang của Arnstein đã trở thành cơ sở cho nhiều nghiên cứu về sự tham gia, giúp xác định mức độ tham gia tương ứng với từng nấc thang Một trong những nghiên cứu tiêu biểu là "Up the Participation Ladder: Problems of Public Involvement in Environmental and Technological Policy-Making", nghiên cứu này tập trung vào những vấn đề liên quan đến sự tham gia của cộng đồng trong việc xây dựng chính sách môi trường và công nghệ.

Theo nghiên cứu của Dmitri Efremenko, 80% người dân Nga không đồng ý với việc xây dựng nhà máy năng lượng hạt nhân, dẫn đến việc dự án này bị ngừng lại Tác giả cho rằng đây là một hình thức tham gia của người dân, phản ánh các nấc thang trong mô hình tham gia của Arnstein Hơn nữa, việc tham gia của người dân trong các quyết định liên quan đến chính sách công nghệ và môi trường được xem như một quá trình học hỏi xã hội, không phải là vấn đề bệnh lý Đối với dự án cấp nước cho các thị trấn nhỏ ở Việt Nam, mức độ tham gia của người dân chủ yếu dừng lại ở việc được cung cấp thông tin và tham vấn, cũng như một phần ở mức “xoa dịu” (các nấc thang 3, 4, 5 trong tổng số 8 nấc) Đáng chú ý, chỉ có nam giới mới đạt được mức “xoa dịu” này.

Hình 2.6: Mức thang tương ứng với sự tham gia của nam giới và phụ nữ vào dự án

(mầu vàng chỉ nấc thang sự tham gia đạt tới)

Khác với các dự án do chính phủ Việt Nam đầu tư, quá trình tham vấn người dân, đặc biệt là phụ nữ, được thực hiện rất kỹ lưỡng Mặc dù các nhà tài trợ và dự án đều hướng đến sự bình đẳng giới, nhưng sự tham gia của phụ nữ vẫn chưa đạt được mức độ như nam giới Điều này xảy ra bởi vì phụ nữ chỉ có quyền tham gia mà gần như không có quyền quyết định hay thảo luận về các vấn đề quan trọng.

Hình 2.7: Mức thang tham gia vào các giai đoạn của dự án của nam giới và phụ nữ

Khảo sát Kinh tế xã hội

Khảo sát cam kết đấu nối

Khảo sát tái định cư

Giám sát thực hiện xây dựng và vận hành nhà máy nước

Các giai đoạn có s ự tham gia

Trong từng giai đoạn của dự án, mức độ tham gia của người dân có sự khác biệt rõ rệt Kết quả nghiên cứu cho thấy, phụ nữ chỉ có mức độ tham gia cao hơn nam giới trong hoạt động tuyên truyền Ở các giai đoạn khác, nam giới thường có mức tham gia cao hơn Đặc biệt, trong giai đoạn khảo sát cam kết đấu nối và khảo sát tái định cư, nơi cần ý kiến quyết định từ hộ gia đình, nam giới thể hiện mức độ tham gia cao hơn phụ nữ.

Sự tham gia của phụ nữ trong dự án cấp nước nhỏ thường chỉ dừng lại ở mức độ được tham vấn, trong khi nam giới có xu hướng tham gia ở mức độ cao hơn là khuyên giải Điều này phản ánh thực tế rằng nam giới thường có quyền quyết định trong các vấn đề quan trọng, như tham gia các cuộc họp với chính quyền địa phương để thảo luận về các dự án Hơn nữa, thành phần lãnh đạo trong những cuộc họp này chủ yếu là nam giới, dẫn đến sự chênh lệch trong quyền lực và ảnh hưởng giữa hai giới.

2.3.2 Những yếu tố rào cản và thúc đẩy phụ nữ tham gia vào dự án cấp nước tại Việt Nam

Phụ nữ ở Việt Nam thường tiếp xúc với nước nhiều hơn nam giới do sự phân công lao động trong gia đình Các công việc như nấu ăn, giặt giũ, tắm rửa cho trẻ em, lau dọn nhà cửa và rửa chuồng trại chăn nuôi chủ yếu do phụ nữ đảm nhận.

Tại Việt Nam, do đặc điểm phân công lao động trong gia đình, phụ nữ được xem là những người gần gũi với nguồn nước Vì lý do này, trong các dự án cấp nước, phụ nữ thường được ưu tiên tham gia, đặc biệt là trong công tác tuyên truyền.

Phụ nữ thường có mối liên hệ gần gũi với nước, vì vậy họ tham gia nhiều hơn vào các dự án cấp nước so với các dự án khác Điều này tạo nên sự khác biệt cho dự án cấp nước tại Việt Nam, nơi mà văn hóa xã hội và những yếu tố tâm lý cá nhân ảnh hưởng đến sự tham gia của phụ nữ Dưới áp lực quan niệm truyền thống về vai trò giới, phụ nữ thường chỉ tham gia ở mức độ “biết thông tin” và “được tham vấn”, mà chưa có quyền quyết định trong các vấn đề quan trọng Do đó, sự tham gia của phụ nữ trong các dự án cấp nước tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, phản ánh những đặc thù riêng của bối cảnh xã hội hiện tại.

Dự án cấp nước tại Việt Nam có những đặc thù riêng, dẫn đến sự khác biệt trong các yếu tố thúc đẩy và rào cản đối với sự tham gia của phụ nữ Những yếu tố này cần được xem xét kỹ lưỡng để tối ưu hóa quá trình phát triển dự án và nâng cao vai trò của phụ nữ trong cộng đồng.

Nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng sự bất bình đẳng giới vẫn ở mức báo động, với phụ nữ thường gặp khó khăn hơn nam giới trong việc tiếp cận nguồn lực phát triển Tuy nhiên, nghiên cứu này cho thấy phụ nữ đang dần có nhiều cơ hội hơn trong các dự án phát triển, chẳng hạn như tham gia vào các dự án cấp nước cho các thị trấn nhỏ Mặc dù những thuận lợi này vẫn còn hạn chế, tác giả đặt ra câu hỏi liệu chính sách, đặc biệt là luật bình đẳng giới năm 2006, có phải là yếu tố quyết định trong việc tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các dự án phát triển hay không.

Phụ nữ tham gia vào dự án cấp nước nhỏ qua nhiều hình thức như nghe và nắm bắt thông tin, đóng góp tiền mặt và công lao động, tham gia các cuộc họp, tuyên truyền về dự án, giám sát thực hiện và bảo vệ công trình Trong đó, tuyên truyền về dự án là hình thức tham gia phổ biến nhất đối với phụ nữ.

Mặc dù phụ nữ tham gia vào dự án cấp nước nhỏ qua nhiều hình thức, nhưng mức độ tham gia của họ chỉ dừng lại ở việc được thông tin và tham vấn theo thang đo của Arnstein Điều này cho thấy sự tham gia của phụ nữ thấp hơn so với nam giới, khi nam giới đạt được mức độ tham gia cao hơn, cụ thể là ở mức xoa dịu.

Theo nghiên cứu của Brager và Specht, sự tham gia của phụ nữ trong dự án cấp nước nhỏ chủ yếu ở mức độ tham vấn, tức là họ chỉ đồng ý với dự án thông qua sự đồng thuận Ngược lại, nam giới thường tham gia ở mức độ cao hơn, thể hiện qua sự khuyên giải và góp ý tích cực cho dự án.

Sự tham gia của phụ nữ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm yếu tố cá nhân, gia đình, xã hội và điều kiện tự nhiên Những yếu tố này có thể thúc đẩy hoặc cản trở khả năng tham gia của phụ nữ trong các hoạt động xã hội và kinh tế.

Những ngụ ý về mặt chính sách

Địa phương cần mở rộng vai trò của phụ nữ không chỉ trong công tác tuyên truyền mà còn giao cho họ trách nhiệm giám sát thực hiện và bảo vệ nguồn nước trong các dự án Để đạt được điều này, cần tích hợp các tiêu chí giám sát vào các cuộc họp thôn dành cho phụ nữ.

Việc tổ chức họp cần đảm bảo sự tham gia của cả nam giới và phụ nữ, không chỉ giới hạn ở việc mời chủ hộ Thực tế, các cuộc họp nên ưu tiên mời phụ nữ để đảm bảo sự đa dạng và công bằng trong các ý kiến đóng góp.

Dự án cần thiết lập một quy trình thông tin minh bạch và liên tục để người dân có thể theo dõi tiến độ thực hiện Việc cung cấp thông tin thường xuyên sẽ giúp cộng đồng không cảm thấy bị "bỏ quên" và tạo sự gắn kết giữa dự án và người dân.

Ngày đăng: 14/07/2021, 12:04

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
2. Đặng Nguyên Anh (2005), “Chiều cạnh giới của di dân lao động thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Xã hội học, số 2 (90): tr23-32 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chiều cạnh giới của di dân lao động thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Tác giả: Đặng Nguyên Anh
Năm: 2005
3. Nguyễn Thị Vân Anh (2006), “Sinh kế và tiếp cận nguồn lực đất đai của phụ nữ tại hai xã nông thôn đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ”. Tạp chí Xã hội học, số 2 (95): tr87-94 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sinh kế và tiếp cận nguồn lực đất đai của phụ nữ tại hai xã nông thôn đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ
Tác giả: Nguyễn Thị Vân Anh
Năm: 2006
5. Mai Huy Bích (2003), “Vài nhận xét về vai trò chăm sóc và dạy dỗ của người cha”. Tạp chí Xã hội học, số 2 (82): tr13-27 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vài nhận xét về vai trò chăm sóc và dạy dỗ của người cha
Tác giả: Mai Huy Bích
Năm: 2003
7. Nguyễn Văn Chính (1999), “Cấu trúc trọng nam trong gia đình và tập quán sinh để của người Việt”. Tạp chí Xã hội học số 3&4 (67&68): tr85-96 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cấu trúc trọng nam trong gia đình và tập quán sinh để của người Việt
Tác giả: Nguyễn Văn Chính
Năm: 1999
8. Bùi Quang Dũng (2002), “Giải quyết xích mích trong nhóm gia đìnHỏi: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính”. Tạp chí Xã hội học, Số 1 (77): tr29-35 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải quyết xích mích trong nhóm gia đìnHỏi: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính
Tác giả: Bùi Quang Dũng
Năm: 2002
9. Trần Thị Minh Đức, Đỗ Hoàng (2001), “Áp lực xã hội đối với vai trò trụ cột của người đàn ông”, Tạp chí Xã hội học số 4 (76): tr32-35 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Áp lực xã hội đối với vai trò trụ cột của người đàn ông
Tác giả: Trần Thị Minh Đức, Đỗ Hoàng
Năm: 2001
10. Bùi Thị Thanh Hà (2004), “Hiểu biết của nữ công nhân đối với Bộ luật lao động. (Qua nghiên cứu một số doanh nghiệp công nghiệp tại Hà Nội)”. Tạp chí xã hội học, số 2 (86):tr65-75 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiểu biết của nữ công nhân đối với Bộ luật lao động. (Qua nghiên cứu một số doanh nghiệp công nghiệp tại Hà Nội)
Tác giả: Bùi Thị Thanh Hà
Năm: 2004
12. Phùng Tố Hạnh và Đào Việt Dũng (1999), “Một vài nhận xét về sự tham gia của cộng đồng qua đánh giá các dự án xây dựng hệ thống cấp nước bằng đường ống”. Tạp chí Xã hội học. Số 1 (65): tr66-72 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một vài nhận xét về sự tham gia của cộng đồng qua đánh giá các dự án xây dựng hệ thống cấp nước bằng đường ống
Tác giả: Phùng Tố Hạnh và Đào Việt Dũng
Năm: 1999
13. Lê Thúy Hằng (2006), “Khác biệt giới trong dự định đầu tư của bố mẹ cho việc học của con cái. (Nghiên cứu trường hợp tại xã Lộc Hòa, Nam Định)”, Tạp chí Xã hội học, số 2 (94): tr28-35 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khác biệt giới trong dự định đầu tư của bố mẹ cho việc học của con cái. (Nghiên cứu trường hợp tại xã Lộc Hòa, Nam Định)
Tác giả: Lê Thúy Hằng
Năm: 2006
14. Đỗ Hậu (2000), “Sự tham gia của cộng đồng dân cư trong công tác quy hoạch xây dựng đô thị ở Việt Nam”. Tạp chí Xã hội học, số 3 (71): tr92-96 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự tham gia của cộng đồng dân cư trong công tác quy hoạch xây dựng đô thị ở Việt Nam
Tác giả: Đỗ Hậu
Năm: 2000
16. Phùng Thị Huế (2006), “Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: hiện trạng và một số định hướng chính sách”. Tạp chí Xã hội học, số 2 (94): tr74-83 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan: hiện trạng và một số định hướng chính sách
Tác giả: Phùng Thị Huế
Năm: 2006
17. Vũ Tuấn Huy (2002), “Vai trò của người cha trong gia đình”. Tạp chí Xã hội học, số 4 (80): tr29-39 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vai trò của người cha trong gia đình
Tác giả: Vũ Tuấn Huy
Năm: 2002
18. Vũ Tuấn Huy, Deborah S.Carr (2000), “Phân công lao động nội trợ trong gia đình”. Tạp chí Xã hội học số 4 (72): tr43-52 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân công lao động nội trợ trong gia đình
Tác giả: Vũ Tuấn Huy, Deborah S.Carr
Năm: 2000
19. Trần Thị Kim (2003), “Ảnh hưởng của học vấn đề sự tham gia và quyền ra quyết định của phụ nữ nông thôn tỉnh Quảng Ngãi trong thiết chế gia đình. Qua nghiên cứu 3 xã thuộc tỉnh Quảng Ngãi.” Tạp chí Xã hội học, số 1 (81): tr58-64 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ảnh hưởng của học vấn đề sự tham gia và quyền ra quyết định của phụ nữ nông thôn tỉnh Quảng Ngãi trong thiết chế gia đình. Qua nghiên cứu 3 xã thuộc tỉnh Quảng Ngãi
Tác giả: Trần Thị Kim
Năm: 2003
21. Nguyễn Văn Khang (2004), “Xã hội học ngôn ngữ về giới: kì thị và kế hoạch hóa ngôn ngữ chống kì thị đối với nữ giới trong sử dụng ngôn ngữ”, Tạp chí xã hội học, số 2 (86):tr25-38 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xã hội học ngôn ngữ về giới: kì thị và kế hoạch hóa ngôn ngữ chống kì thị đối với nữ giới trong sử dụng ngôn ngữ
Tác giả: Nguyễn Văn Khang
Năm: 2004
22. Nguyễn Linh Khiếu (2002), “Vị thế của phụ nữ trong một số vấn đề của gia đình”. Tạp chí Xã hội học, số 4 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vị thế của phụ nữ trong một số vấn đề của gia đình
Tác giả: Nguyễn Linh Khiếu
Năm: 2002
23. Lê Tiêu La, Lê Ngọc Hùng (1998), “Vấn đề giới trong kinh tế hộ: tìm hiểu phân công lao động nam nữ trong gia đình ngư dân ven biển miền Trung”, Tạp chí Xã hội học, Số 3 24. Vũ Mạnh Lợi (2000), “Một số quan điểm lý thuyết về giới trong nghiên cứu gia đình.”Tạp chí Xã hội học, số 4 (72): tr12-17 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề giới trong kinh tế hộ: tìm hiểu phân công lao động nam nữ trong gia đình ngư dân ven biển miền Trung”, Tạp chí Xã hội học, Số 3 24. Vũ Mạnh Lợi (2000), “Một số quan điểm lý thuyết về giới trong nghiên cứu gia đình
Tác giả: Lê Tiêu La, Lê Ngọc Hùng (1998), “Vấn đề giới trong kinh tế hộ: tìm hiểu phân công lao động nam nữ trong gia đình ngư dân ven biển miền Trung”, Tạp chí Xã hội học, Số 3 24. Vũ Mạnh Lợi
Năm: 2000
25. Võ Thị Mai (2001), “Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và hiểu biết xã hội của phụ nữ Quảng Ngãi trong thời kỳ đổi mới”. Tạp chí Xã hội học, Số 3 (75): tr51-58 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và hiểu biết xã hội của phụ nữ Quảng Ngãi trong thời kỳ đổi mới
Tác giả: Võ Thị Mai
Năm: 2001
68. Anita Kelles-Viitanen (2002). Opinion Participation: A Key for Stability and sustainable Change. The views of the poor and experts must be seen as complementaryfor development tosucceed.http://www.adb.org/Documents/Periodicals/ADB_Review/2002/vol34_2/participation.asp truy cập ngày 1/6/2009 Link
69. Asian Development Bank (2006), Strengthening Participation for Development Results:A Staff Guide to Consultation and Participation.http://www.adb.org/Documents/guidelines/strengthening-participation-for-dev/default.asp truy cập ngày 1/6/2009 Link

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN