Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn nhằm đánh giá các nhân tố (ngoài yếu tố chính thức) có ảnh hưởng lên việc tuân thủ quy định môi trường của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại thành phố Hồ Chí Minh. Mời các bạn cùng tham khảo!
GIỚI THIỆU
Bối cảnh nghiên cứu: hiện trạng môi trường thành phố Hồ Chí Minh và tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau Đại hội VI vào tháng 12 năm 1986, Việt Nam đã quyết tâm chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch tập trung sang định hướng thị trường Sự kiện bình thường hóa quan hệ với Mỹ vào năm 1995 và việc gia nhập các tổ chức thương mại khu vực và toàn cầu, như ASEAN, đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Việt Nam đã trải qua sự chuyển mình mạnh mẽ từ một nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn sang quốc gia có thu nhập trung bình thấp nhờ vào các hiệp định như AFTA (1996), APEC (1998) và WTO (2007) Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, từ năm 2009 đến 2011, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 6,00%, trong khi thu nhập bình quân đầu người tăng 17,87% Số lượng việc làm cho người lao động cũng gia tăng trung bình 2,72% mỗi năm, tỷ lệ thất nghiệp liên tục giảm và tỷ lệ thiếu việc làm duy trì ở mức 2-3%.
1 Theo cách xác định của Ngân hàng Thế giới có hiệu lực từ ngày 01/07/2013 đến ngày 01/07/2014:
Quốc gia có thu nhập thấp: Thu nhập quốc gia trên đầu người nhỏ hơn $1.035 một năm
Quốc gia có thu nhập trung bình thấp: Thu nhập quốc gia trên đầu người từ $1.036 đến $4.085 một năm
Quốc gia có thu nhập trung bình cao: Thu nhập quốc gia trên đầu người từ $4.086 đến $12.615 một năm
Quốc gia có thu nhập cao: Thu nhập quốc gia trên đầu người từ lớn hơn $12.616 một năm
2 Số liệu kinh tế và việc làm Việt Nam từ năm 2009 đến năm 2011 xem Bảng 1, Phụ lục A
Việt Nam đã trải qua hai thập niên tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên, để đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh và thu hút đầu tư, đất nước đã bỏ qua trách nhiệm bảo vệ môi trường Hậu quả là chất lượng môi trường sống đang bị suy giảm, đặc biệt rõ rệt ở các khu đô thị lớn và các tỉnh có nhiều khu công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm tài chính và sản xuất lớn nhất cả nước, đang phải đối mặt với ô nhiễm nghiêm trọng do tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh chóng, trong khi hạ tầng và các biện pháp bảo vệ môi trường không kịp thời và đồng bộ.
Theo báo cáo sơ kết hai năm (2011-2012) của Sở Tài nguyên Môi trường thành phố Hồ Chí Minh về chương trình giảm ô nhiễm môi trường giai đoạn 2011-2015, tình hình chất thải môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2012 đã được đánh giá chi tiết.
Nước thải xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, thương mại, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, cụm công nghiệp, và các khu đô thị mới cũng như hiện hữu Mặc dù một phần nước thải được xử lý trước khi thải ra môi trường, phần lớn vẫn xả thải trực tiếp vào các nguồn tiếp nhận Trong khu vực nội thành, nước thải chủ yếu được xả vào bốn hệ thống kênh rạch chính: sông Sài Gòn - Đồng Nai, kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè, kênh Tân Hóa - Lò Gốm, và kênh Tàu Hủ.
3 Số liệu tổng sản phẩm trong nước (GDP) của 11 tỉnh thành (trong đó có thành phố Hồ Chí Minh) từ năm 2008- 2010 xem Bảng 2- Phụ lục A
Bến Nghé- Đôi- Tẻ; ở khu vực ngoại thành: hai kênh rạch giáp ranh là kênh tiêu Ba
Bò và kênh Thầy Cai- sông Cần Giuộc
Theo số liệu sơ bộ từ Sở Tài nguyên Môi trường TP.HCM, thành phố hiện có khoảng 3.300 nguồn thải từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và thương mại Trong số này, có khoảng 750 nguồn thải có lưu lượng trên 50 m³/ngày, 450 nguồn thải có lưu lượng từ 30-50 m³/ngày, và 2.100 nguồn thải có lưu lượng dưới 30 m³/ngày Hiện tại, thành phố chỉ kiểm soát được các nguồn thải lớn hơn 50 m³/ngày, trong khi các nguồn thải nhỏ hơn vẫn chưa được quản lý chặt chẽ và thiếu số liệu thống kê đầy đủ.
Tất cả 15 khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) và khu công nghệ cao (KCNC) đều có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đạt tỷ lệ 100% Trong đó, 13/15 khu (tương đương 86,7%) có chất lượng nước thải sau xử lý đạt quy chuẩn.
KCN Cát Lái và KCN An Hạ là hai khu công nghiệp không đạt tiêu chuẩn, trong đó KCN An Hạ đã được chuyển đổi từ cụm công nghiệp (CCN) vào năm 2012 và hệ thống xử lý nước thải đang trong giai đoạn thử nghiệm Tuy nhiên, cả hai khu công nghiệp này vẫn chưa được lắp đặt hệ thống quan trắc tự động tại cửa xả nước thải, dẫn đến việc chất lượng nước thải chưa được theo dõi liên tục.
Cụm công nghiệp: hiện nay trên địa bàn thành phố có 27 CCN với diện tích
Trong tổng diện tích 1.441,02 ha, có 11 cụm công nghiệp (CCN) chưa đi vào hoạt động, trong đó 5 cụm đã có đơn vị kinh doanh hạ tầng và 6 cụm vẫn đang trong quy hoạch để kêu gọi đầu tư Hiện có 16 CCN có doanh nghiệp hoạt động, nhưng chỉ 3 cụm (Lê Minh Xuân, Nhị Xuân và Xuân Thới Sơn A) có đơn vị kinh doanh hạ tầng Trong số này, 2/3 cụm (66,7%) đã có hệ thống xử lý nước thải (HTXLNT) đạt tiêu chuẩn, ngoại trừ chỉ tiêu dinh dưỡng vượt quy chuẩn từ 1,1-1,3 lần Các CCN chưa có đơn vị kinh doanh hạ tầng chủ yếu vẫn thiếu hệ thống xử lý nước thải tập trung.
Hiện nay, khu đô thị mới thành phố có tổng cộng 39 dự án khu dân cư với diện tích từ 20 ha trở lên và 50 dự án với diện tích nhỏ hơn 20 ha Trong số 39 dự án lớn, 10 dự án đã đi vào hoạt động, trong đó 6 dự án (tương đương 60%) đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung Đối với 50 dự án nhỏ, 31 dự án đã hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng, và 25 trong số đó (chiếm 80,6%) có hệ thống xử lý nước thải.
Theo niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh, dân số năm 2012 ước tính khoảng 7 triệu người, với lượng nước thải sinh hoạt phát sinh từ các khu đô thị hiện hữu lên tới gần 2 triệu m³/ngày Tuy nhiên, thành phố chỉ có hai nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt (Bình Hưng Hòa và Bình Hưng) với tổng công suất 171.000 m³/ngày, dẫn đến việc chỉ khoảng 8,55% lượng nước thải được thu gom và xử lý.
Khí thải: Có hai nguồn gây ô nhiễm không khí và tiếng ồn chính: (i) hoạt động sản xuất; (ii) Hoạt động giao thông, vận tải
Trong năm 2012, thành phố ghi nhận 107 nguồn khí thải trong các khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất (KCX), cùng với 343 nguồn khí thải bên ngoài Khoảng 76% nguồn thải trong KCN/KCX được xử lý đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường, trong khi chỉ có 46% nguồn thải bên ngoài được trang bị hệ thống xử lý khí thải Đặc biệt, trong số các nguồn thải có hệ thống xử lý, khoảng 71% đã đạt tiêu chuẩn trước khi xả thải.
Hoạt động giao thông và vận tải hiện đang được thực hiện quan trắc định kỳ, nhưng vẫn chưa có phương pháp đánh giá mức độ ô nhiễm không khí, do đó chưa thể đưa ra kết luận cụ thể nào về vấn đề này.
Chất thải rắn tại thành phố Hồ Chí Minh được phân loại thành ba nhóm chính: (1) Chất thải rắn thông thường, (2) Chất thải rắn nguy hại, và (3) Chất thải rắn y tế.
4 Chi tiết xem Bảng 3- Phụ lục A
Chất thải rắn thông thường: Tổng khối lƣợng đƣợc thu gom, xử lý trong năm
Năm 2012, lượng chất thải rắn sinh hoạt được thu gom và xử lý đạt 2.362.419 tấn, trung bình 6.472 tấn mỗi ngày Tại khu vực nội thành, tỷ lệ thu gom đạt khoảng 95%, trong đó 95% được thu trực tiếp từ các hộ dân và 5% còn lại được thu dọc theo các tuyến đường, bô rác và thùng rác công cộng Đối với khu vực ngoại thành, khoảng 70-80% chất thải được thu gom trực tiếp từ các hộ dân, trong khi phần còn lại người dân tự xử lý rác ngay tại vườn của mình.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung của nghiên cứu là đánh giá các nhân tố ngoài yếu tố chính thức ảnh hưởng đến việc tuân thủ quy định môi trường của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại thành phố Hồ Chí Minh Nghiên cứu đặt ra hai mục tiêu cụ thể: đầu tiên, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ quy định bảo vệ môi trường (BVMT) của các doanh nghiệp; thứ hai, đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này trong bối cảnh các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ tại thành phố.
Phạm vi và giới hạn của nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) tại Việt Nam vì hai lý do chính: đầu tiên, dữ liệu được thu thập từ cuộc khảo sát về đặc điểm môi trường kinh doanh của SMEs năm 2009; thứ hai, SMEs đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam Theo số liệu năm 2011, SMEs chiếm 97,5% tổng số doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, tạo ra 46,5% việc làm và đóng góp 31,6% vào nguồn thu từ doanh nghiệp cho Chính phủ.
Nghiên cứu này được giới hạn trong thành phố Hồ Chí Minh do một số lý do quan trọng: Thứ nhất, thành phố Hồ Chí Minh là nơi có số lượng doanh nghiệp lớn nhất cả nước, với 96.206 doanh nghiệp, chiếm 30,8% tổng số doanh nghiệp và 95.186 SMEs, tương đương 31,2% tổng số SMEs cả nước Thứ hai, việc tập trung vào một tỉnh/thành phố giúp loại bỏ những yếu tố tác động từ đặc điểm địa phương như khả năng quản lý của chính quyền, mức độ nghiêm trọng của vấn đề môi trường, cũng như nhận thức và sự quan tâm của cộng đồng đối với các vấn đề môi trường.
Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả đã tiến hành khảo sát các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm liên quan để xác định các yếu tố ban đầu ảnh hưởng đến sự tuân thủ pháp luật bảo vệ môi trường của doanh nghiệp Sau đó, phương pháp thống kê mô tả được áp dụng để đánh giá mối tương quan giữa các nhân tố này Để thực hiện mục tiêu thứ hai, nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng với mô hình hồi quy logistic nhị phân nhằm xác định các yếu tố có ý nghĩa thống kê và đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố dựa trên kết quả mô hình.
5 Chi tiết xem Bảng 4- Phụ lục A
Theo Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh, số liệu được ghi nhận vào ngày 31/12/2010, tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) dựa trên số lượng lao động, với quy định là nhỏ hơn 300 lao động, được quy định trong Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Chính phủ nhằm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ý nghĩa của nghiên cứu
Nghiên cứu cho thấy rằng tình hình nghiên cứu về đề tài này trên thế giới và tại Việt Nam cho thấy sự quan tâm khác nhau từ các nhà nghiên cứu Kết luận từ các nghiên cứu không đồng nhất ở các khía cạnh khác nhau, và kết quả có thể trái chiều khi thực nghiệm ở các quốc gia khác nhau Điều này mở ra nhiều suy nghĩ, thắc mắc và gợi ý hướng nghiên cứu mới cho các đề tài liên quan.
Dự án nghiên cứu thường tập trung vào hai lĩnh vực chính: kiểm nghiệm lý thuyết và xây dựng lý thuyết Xây dựng lý thuyết hữu ích khi các công cụ lý thuyết hiện tại không đủ để giải thích vấn đề phức tạp, trong khi kiểm nghiệm lý thuyết có giá trị khi chúng đủ để kiểm tra câu hỏi nghiên cứu cụ thể Trong quá trình này, các nhà nghiên cứu có thể đề xuất sửa đổi các lý thuyết hiện có (Prakash, 09/2001) Bài viết này tập trung vào kiểm nghiệm lý thuyết, cung cấp bằng chứng thực nghiệm về các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả bảo vệ môi trường của doanh nghiệp Nghiên cứu trong lĩnh vực này còn mới mẻ và hiện có rất ít đề tài nghiên cứu tại Việt Nam.
Nghiên cứu cho thấy rằng các cơ quan quản lý ở Việt Nam cần xem xét lại các chính sách môi trường, do nhiều quy định hiện hành bị coi là không phù hợp Theo Dao & Ofori (2010), quy định môi trường tại Việt Nam chủ yếu được sao chép từ tiêu chuẩn Mỹ và châu Âu, dẫn đến tính nghiêm ngặt Tuy nhiên, các quy định này gặp nhiều trở ngại do thiếu ràng buộc pháp lý rõ ràng, năng lực quản lý hạn chế, thiếu công cụ và nhân sự được đào tạo, cùng với thông tin về xả thải không đầy đủ (Hettige et al., 1996) Một ví dụ điển hình là mặc dù chưa có cơ sở xử lý chất thải nguy hại, nhưng pháp luật vẫn yêu cầu doanh nghiệp phải loại bỏ chúng, gây khó khăn cho việc tuân thủ các quy định bảo vệ môi trường.
Kết cấu của luận văn
Luận văn được chia thành năm chương, bắt đầu với chương một giới thiệu, trong đó nêu rõ bảy nội dung chính: (1) ngữ cảnh nghiên cứu nhằm làm nổi bật tình trạng môi trường tại thành phố Hồ Chí Minh, nhấn mạnh tính cấp thiết của đề tài; (2) mục tiêu nghiên cứu chung và các mục tiêu cụ thể; (3) các câu hỏi nghiên cứu để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ quy định bảo vệ môi trường của doanh nghiệp; (4) lý do chọn SMEs làm đối tượng nghiên cứu và thành phố Hồ Chí Minh là phạm vi nghiên cứu; (5) phương pháp nghiên cứu được áp dụng để đạt được các mục tiêu; (6) ý nghĩa của nghiên cứu về mặt học thuật và ứng dụng; và cuối cùng, phần kết cấu của luận văn cùng ý nghĩa của từng phần.
Chương hai của bài viết tập trung vào cơ sở lý thuyết với năm nội dung chính Đầu tiên, chương trình bày khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) cùng các tiêu chí phân loại hiện tại và trong quá khứ tại Việt Nam, đồng thời so sánh với các phương pháp phân loại SMEs ở các quốc gia và tổ chức khác Thứ hai, chương đề cập đến các phương pháp phân hạng doanh nghiệp dựa trên kết quả hoạt động môi trường, làm cơ sở cho việc đánh giá sự tuân thủ quy định bảo vệ môi trường (BVMT) Thứ ba, các nghiên cứu lý thuyết liên quan được trình bày nhằm giải thích hành vi của doanh nghiệp trong hoạt động môi trường, dựa trên các quan điểm và suy luận của các tác giả Cuối cùng, chương cũng tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm, từ đó xác định yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ quy định BVMT, góp phần xây dựng khung khái niệm và phân tích trong nội dung thứ năm.
Chương ba của bài viết trình bày phương pháp nghiên cứu, bao gồm năm phần chính: (1) mô hình thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến sự tuân thủ quy định bảo vệ môi trường (BVMT) của doanh nghiệp, với các biến độc lập và kết quả tuân thủ được đại diện bởi các biến phụ thuộc; cách đo lường và giá trị của các biến này cũng được đề cập; (2) lý thuyết về hồi quy binary logistic được sử dụng để phân tích mô hình; (3) tóm tắt bộ dữ liệu SMEs năm 2009 và xác định cỡ mẫu nghiên cứu; (4) trích lọc các biến từ bộ dữ liệu để phục vụ cho tính toán; (5) mã hóa các biến từ định tính sang định lượng, điều này là cần thiết trước khi thực hiện hồi quy bằng phần mềm SPSS 16.0.
Chương bốn của nghiên cứu trình bày các kết quả từ việc thống kê mô tả đặc điểm của từng biến trong mẫu, đánh giá khả năng tác động của các yếu tố lên việc tuân thủ quy định bảo vệ môi trường (BVMT) của doanh nghiệp, kiểm tra mối quan hệ giữa các biến và kiểm định mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập Sau đó, mô hình hồi quy binary logistic được chạy để xác định các yếu tố tác động có ý nghĩa thống kê đến sự tuân thủ Kết quả từ hai phần này sẽ giúp tìm câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu trong chương 1 và tổng hợp các yếu tố tác động đến việc tuân thủ quy định BVMT cùng với mức độ tác động của chúng.
Chương năm kết luận trình bày ba nội dung chính: (1) các kết luận chung rút ra từ nghiên cứu; (2) những hạn chế mà tác giả nhận thấy trong nghiên cứu; và (3) đề xuất một số hướng nghiên cứu mở rộng dựa trên những hạn chế đã nêu.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) tại Việt Nam được quy định trong Nghị định số 56/2009/NĐ-CP, ngày 30/06/2009, của Chính phủ về hỗ trợ phát triển Theo đó, SMEs là các cơ sở kinh doanh đã đăng ký, được phân loại thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ và vừa, dựa trên tổng nguồn vốn hoặc số lao động bình quân hàng năm, trong đó tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên.
Bảng 2.1 Tiêu chí phân loại SMEs theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
DN siêu nhỏ Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao động Nguồn vốn Số lao động Nguồn vốn Số lao động Nông, lâm nghiệp và thủy sản
Công nghiệp và xây dựng
Thương mại và dịch vụ