1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nhận thức của trí thức hà nội về vai trò của cán bộ nữ trong việc tham gia lãnh đạo quản lý nhà nước hiện nay

98 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 98
Dung lượng 1,07 MB

Cấu trúc

  • phần I: mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài (14)
    • 2. ý nghĩa khoa học của đề tài (0)
    • 3. Mục tiêu nghiên cứu (16)
    • 4. Nhiệm vụ nghiên cứu (16)
    • 5. Đối t-ợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu (17)
      • 5.1. Đối t-ơng nghiên cứu (0)
      • 5.2. Khách thể nghiên cứu (17)
      • 5.3. Phạm vi nghiên cứu (17)
    • 6. Ph-ơng pháp nghiên cứu (17)
      • 6.1. Ph-ơng pháp phân tích tài liệu (17)
      • 6.2. Ph-ơng pháp nghiên cứu định l-ợng (18)
      • 6.3. Ph-ơng pháp nghiên cứu định tính (19)
      • 6.4. Ph-ơng pháp quan sát (19)
    • 7. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết (20)
      • 7.1. Giả thuyết nghiên cứu (22)
      • 7.2. Khung lý thuyết, mô tả các biến số (0)
  • PHÇn II: néi dung chÝnh Ch-ơng I: Cơ sở lý luận chung (23)
    • 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu (23)
      • 2.1. Lý thuyết biến đổi về xã hội (0)
      • 2.2. Lý luận xã hội học về định h-ớng giá trị (26)
      • 2.3. Lý thuyết xã hội hoá (28)
    • 3. Một số khái niệm công cụ (34)
      • 3.1. Khái niệm nhận thức (34)
      • 3.2. Khái niệm trí thức (35)
      • 3.3. Khái niệm lãnh đạo, quản lý nhà n-ớc (36)
      • 3.4. Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý (38)
      • 3.5. Khái niệm vị thế, vai trò xã hội (40)
      • 3.6. Khái niệm vai trò của cán bộ nữ trong việc tham gia lãnh đạo quản lý nhà n-ớc (43)
      • 3.7. Một số khái niệm liên quan khác (44)
    • 1. Một số nét về đặc điểm kinh tế xã hội của địa bàn khảo sát (46)
    • 2. Vài nét khái quát về tình hình tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ của n-ớc ta hiện nay (49)
    • 3. Một số đặc điểm của trí thức trong mẫu khảo sát (0)
    • 4. Nhận thức của trí thức Hà Nội về vai trò tham gia lãnh đạo, quản lý Nhà n-ớc của đội ngũ cán bộ nữ hiện nay (0)
      • 4.1. Nhận thức của trí thức về sự tham gia lãnh đạo, quản lý Nhà n-ớc của cán bộ nữ qua khảo sát tại địa bàn nghiên cứu (57)
      • 4.2. Nhận thức và đánh giá về năng lực, khả năng lãnh đạo, quản lý Nhà n-ớc của trí thức đối với cán bộ nữ hiện nay (0)
      • 4.3. Một số yếu tố tác động đến sự tham gia lãnh đạo, quản lý Nhà n-ớc của cán bộ nữ hiện nay (76)
        • 4.3.1. Yếu tố chủ quan (77)
        • 4.3.2. Yếu tố khách quan (82)
  • Phần III. Kết Luận và khuyến nghị ...................................................................... 80 Danh mục tài liệu tham khảo (93)

Nội dung

néi dung chÝnh Ch-ơng I: Cơ sở lý luận chung

Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Công tác cán bộ nữ, đặc biệt là trong lãnh đạo và quản lý nhà nước, là vấn đề quan trọng đối với mục tiêu bình đẳng giới toàn cầu Trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, việc tăng cường vai trò của cán bộ nữ trong lãnh đạo càng trở nên cần thiết Nghiên cứu về vai trò này thu hút sự quan tâm của nhiều cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước.

Trong thời gian qua, một số cơ quan ở nước ta đã chú trọng đến việc thống kê và nghiên cứu vai trò của cán bộ nữ trong lãnh đạo và quản lý Nhà nước Đặc biệt, đề tài nghiên cứu của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam mang tên “Thực trạng đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo quản lý và đề xuất các giải pháp tăng cường sự bình đẳng và phát triển của cán bộ nữ trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước” đã được thực hiện nhằm nâng cao nhận thức và thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo.

Nghiên cứu năm 2003 được thực hiện tại 4 tỉnh, thành phố gồm TP Hồ Chí Minh, TP Hải Phòng, tỉnh Quảng Trị và tỉnh Tuyên Quang, đại diện cho ba miền Bắc, Trung, Nam và các khu vực đồng bằng, miền núi của cả nước Nghiên cứu tập trung vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, khảo sát tại 3 bộ: Bộ Giáo dục - Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội, và Bộ Công nghiệp Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng được chọn do có nhiều nữ cán bộ tham gia lãnh đạo Với quy mô mẫu lớn, gồm 710 bảng hỏi và 40 phỏng vấn sâu, mục đích nghiên cứu là chỉ ra thực trạng và đánh giá vai trò của đội ngũ cán bộ nữ trong công tác lãnh đạo, quản lý Nhà nước, đồng thời đề xuất khuyến nghị về việc sử dụng lực lượng cán bộ nữ trong xây dựng đất nước trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

Luận án Tiến sỹ Xã hội học của Võ Thị Mai (2001) nghiên cứu vai trò của nữ cán bộ quản lý Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tại tỉnh Quảng Ngãi Mục tiêu chính là làm rõ thực trạng và xu hướng biến đổi vai trò của nữ cán bộ, đồng thời đề xuất giải pháp nâng cao vai trò này phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước Nghiên cứu tập trung khảo sát cán bộ quản lý từ cấp phó phòng trở lên, nhấn mạnh việc sử dụng nguồn lao động nữ nhằm thực hiện bình đẳng giới Tuy nhiên, tỷ lệ nữ cán bộ tham gia lãnh đạo vẫn còn thấp, phản ánh những hạn chế trong nhận thức của xã hội và đội ngũ cán bộ Đề tài của ThS Trần Thị Xuân cũng đề cập đến thực trạng đội ngũ nữ lãnh đạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bài viết trên tạp chí Giáo dục lý luận số 3 năm 2004 đã phân tích thực trạng cán bộ nữ trong các cơ quan nhà nước, từ cấp trung ương đến các đại biểu quốc hội và hội đồng nhân dân Đồng thời, bài viết cũng chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế và bất cập trong tình hình quản lý cán bộ nữ ở các cấp.

Nhiều nghiên cứu xã hội học đã chỉ ra vai trò quan trọng của cán bộ nữ trong quản lý và lãnh đạo Nhà nước, bên cạnh các công trình từ các lĩnh vực như dân số học, kinh tế học và địa lý học Các bài viết và nghiên cứu hiện có đã phản ánh thái độ và nhận thức của người dân, cũng như trí thức, về vị trí của cán bộ nữ trong công tác quản lý Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.

Nghiên cứu gần đây cho thấy, mặc dù đã có nhiều đề tài về vai trò của cán bộ nữ trong lãnh đạo và quản lý, nhưng chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu nhận thức của trí thức Hà Nội về vấn đề này Do đó, việc nghiên cứu nhận thức của người dân, đặc biệt là đội ngũ trí thức Hà Nội, về vai trò của cán bộ nữ trong quản lý Nhà nước là rất cần thiết Những kết luận và kiến nghị từ nghiên cứu sẽ giúp các cơ quan chức năng xác định các biện pháp nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, đồng thời tạo cơ hội cho cán bộ nữ và phụ nữ trong tham gia lãnh đạo và quản lý.

2 Cơ sở lý luận của đề tài

Nghiên cứu về nhận thức của trí thức Hà Nội đối với vai trò của cán bộ nữ trong lãnh đạo và quản lý Nhà nước hiện nay được xây dựng trên nền tảng của các lý thuyết xã hội học.

2.1 Lý thuyết về sự biến đổi xã hội:

Lý thuyết biến đổi xã hội khẳng định rằng mọi xã hội luôn trong trạng thái vận động và biến đổi không ngừng Sự ổn định của xã hội chỉ mang tính tương đối, vì thực tế bên trong luôn có những thay đổi diễn ra Đặc biệt, sự biến đổi trong xã hội hiện đại càng trở nên rõ rệt hơn.

Biến đổi xã hội có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau Theo cách hiểu rộng nhất, nó là sự thay đổi so với một tình trạng xã hội đã tồn tại trước đó Trong khi đó, theo nghĩa hẹp hơn, biến đổi xã hội đề cập đến sự thay đổi trong cấu trúc của xã hội hoặc tổ chức xã hội, dẫn đến sự thay đổi trong chức năng của các bộ phận và thành phần trong xã hội.

Trong những năm qua, dưới tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, xã hội Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc, đặc biệt là xu hướng tạo ra sân chơi công bằng cho nam giới và phụ nữ Vai trò của phụ nữ đã mở rộng, không chỉ là người vợ, người mẹ mà còn tham gia lao động sản xuất và các hoạt động cộng đồng Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách bảo vệ quyền lợi hợp pháp của phụ nữ, thúc đẩy bình đẳng giới Điều này đã làm thay đổi nhận thức xã hội, ghi nhận những đóng góp đáng kể của phụ nữ trong lao động, nghiên cứu khoa học và nhiều người đã được cất nhắc vào vị trí lãnh đạo.

Những thay đổi trong kinh tế, chính trị, lối sống, phong tục tập quán, luật pháp và chính sách xã hội ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức của người dân, đặc biệt là nhóm trí thức, về vai trò của cán bộ nữ trong việc tham gia lãnh đạo và quản lý Nhà nước.

2.2 Lý luận xã hội học về định h-ớng giá trị:

Giá trị là khái niệm chứa đựng nhiều ý nghĩa khác nhau và có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội Chúng tồn tại trong ý thức của cá nhân và cộng đồng, ảnh hưởng đến hành vi ứng xử của con người Theo Cl Kluckhonn, giá trị được định nghĩa là quan niệm về điều mong muốn, hiện hữu hoặc tiềm ẩn trong một cá nhân hay nhóm, và ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương thức, phương tiện hoặc mục tiêu hành động.

Xã hội chứa đựng nhiều giá trị đa dạng, có thể phân chia thành hai lĩnh vực chính: giá trị vật chất và giá trị tinh thần Từ góc độ nhu cầu xã hội, có sáu loại giá trị quan trọng: giá trị tự nhiên như sức khỏe và môi trường; giá trị kinh tế thể hiện sự giàu có và sang trọng; giá trị tri thức liên quan đến hiểu biết và học vấn; giá trị tâm linh bao gồm tôn giáo và tín ngưỡng; giá trị chính trị liên quan đến hệ thống và tổ chức cộng đồng; và cuối cùng là giá trị đạo đức – thẩm mỹ, thể hiện cái đẹp và cái thiện.

Giá trị là một phạm trù lịch sử, luôn thay đổi theo sự phát triển của đời sống xã hội Trong từng giai đoạn, một số loại giá trị sẽ nổi bật và chi phối các giá trị khác Tại Việt Nam, Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã chính thức công nhận quyền tự do và bình đẳng trước pháp luật, cũng như quyền bình đẳng giới trong nhiều lĩnh vực của xã hội Sự ra đời của Hiến pháp này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc khẳng định các giá trị nhân quyền.

Một số khái niệm công cụ

Có nhiều cách hiểu khác nhau về nhận thức:

- Theo Từ điển Tiếng Việt, “nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện thức vào trong t- duy“ [26]

V.I Lênin định nghĩa nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan bởi con người, nhưng không phải là một phản ánh đơn giản và trực tiếp Thay vào đó, nhận thức là một quá trình phức tạp, bao gồm chuỗi các bước trừu tượng, cấu thành và hình thành các khái niệm, quy luật Những khái niệm và quy luật này không chỉ phản ánh thực tại mà còn gần đúng với tính quy luật phổ biến của giới tự nhiên, vốn luôn vận động và phát triển.

Nhận thức, theo định nghĩa của từ điển Tâm lý học, là quá trình phản ánh và tái hiện thực tại trong tư duy, giúp con người nhận biết và hiểu biết về thế giới khách quan.

K K Platonov định nghĩa rằng nhận thức là quá trình tiếp nhận những tri thức chân thực từ thế giới khách quan, diễn ra trong hoạt động thực tiễn xã hội.

Nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người, không đơn giản và thụ động, mà là một quá trình biện chứng dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể Tính tích cực này thể hiện qua sự sáng tạo trong việc phản ánh khách thể, giúp chủ thể ngày càng hiểu rõ hơn về bản chất và quy luật của khách thể.

Nhận thức là quá trình hiểu biết của con người về thế giới khách quan, được hình thành qua hoạt động xã hội hóa Nó không chỉ bao gồm việc lĩnh hội thông tin về các sự vật, hiện tượng xung quanh mà còn liên quan đến việc hiểu biết về chính bản thân con người Tóm lại, nhận thức có thể được định nghĩa là kết quả của quá trình tìm hiểu và tiếp thu kiến thức từ môi trường xung quanh.

Nhận thức là quá trình hiểu biết của con người về sự vật và hiện tượng với các mức độ khác nhau, bao gồm nhận thức đúng hay sai, đầy đủ hay chưa đầy đủ, nông hay sâu, tốt hay chưa tốt.

Theo Từ điển Tiếng Việt, trí thức được định nghĩa là những người lao động trí óc, sở hữu kiến thức chuyên môn cần thiết cho công việc của họ.

Theo Karl Marx, trí thức được định nghĩa là những người có tri thức phong phú và quan điểm rõ ràng về các vấn đề chính trị xã hội Tại Việt Nam, khái niệm này đã được đơn giản hóa, coi trí thức là những người lao động trí óc, phân biệt với lao động chân tay, hoặc phức tạp hơn, là những người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên.

Trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi thu hẹp khái niệm “trí thức”

Hà Nội là những ng-ời có trình độ học vấn từ cao đẳng trở lên hiện đang sinh sống và làm việc tại Hà Nội

3.3 Khái niệm “Lãnh đạo“, “ Quản lý Nhà nước“

Trong đời sống th-ờng ngày, ng-ời ta vẫn th-ờng dùng các từ

Quản lý và lãnh đạo thường bị hiểu nhầm là giống nhau, nhưng thực tế, chúng có những thuật ngữ và ý nghĩa khác biệt Trong khi quản lý tập trung vào việc tổ chức và kiểm soát các hoạt động, lãnh đạo lại liên quan đến việc định hướng và truyền cảm hứng cho đội ngũ Sự phân biệt này là quan trọng để phát triển kỹ năng cần thiết trong mỗi lĩnh vực.

“quản lý” là hai khái niệm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau song chúng có những nét khác biệt nhất định, cần đ-ợc phân biệt rõ

Lãnh đạo là quá trình tác động có ý thức của người quản lý lên đối tượng cần quản lý, nhằm tối ưu hóa năng lực của cấp dưới để đạt được hiệu quả cao nhất và hoàn thành mục tiêu của tổ chức.

Quản lý là quá trình tác động có tổ chức và định hướng từ chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý, nhằm tối ưu hóa việc sử dụng tiềm năng và cơ hội của tổ chức trong bối cảnh môi trường biến động.

Một cách định nghĩa khác về “lãnh đạo” và “quản lý”:

Lãnh đạo đóng vai trò quan trọng trong việc đề ra chủ trương và định hướng hoạt động cho tổ chức, trong khi quản lý tập trung vào việc điều hành và tổ chức thực hiện công việc Lãnh đạo thường giải quyết những vấn đề tổng thể, còn quản lý chú trọng vào các vấn đề cụ thể.

- Lãnh đạo và quản lý có hai chức năng riêng biệt Trong cơ chế

Chức năng tổng quát của Đảng là xác định đường lối và chủ trương lãnh đạo, đồng thời tổ chức các hoạt động để đảm bảo Nhà nước quản lý hiệu quả, trong khi nhân dân giữ vai trò làm chủ.

Nhà nước có trách nhiệm xây dựng và thực hiện các đạo luật, chính sách theo Nghị quyết của Đảng, nhằm đảm bảo hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại Mặc dù quản lý và lãnh đạo là hai chức năng khác nhau, nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ và không thể tách rời Quản lý không đúng mục tiêu sẽ dẫn đến rối loạn xã hội, trong khi thiếu quản lý khoa học và hiệu quả sẽ khiến các mục tiêu không được thực hiện Quản lý và lãnh đạo không chỉ là chức vụ hay nghề nghiệp, mà còn là một khoa học và nghệ thuật.

Lãnh đạo là quá trình xác định chiến lược và phương hướng cho tổ chức, trong khi quản lý là việc điều phối và tổ chức thực hiện các công việc.

Khái niệm “Quản lý Nhà nước“

Một số nét về đặc điểm kinh tế xã hội của địa bàn khảo sát

1.1 Sơ l-ợc về thành phố Hà Nội

Hà Nội, trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế và khoa học kỹ thuật của Việt Nam, cũng là điểm giao lưu quốc tế quan trọng Thành phố nằm hai bên bờ sông Hồng, giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Thái Nguyên ở phía Bắc, Hưng Yên ở phía Đông, Hà Nam ở phía Nam và Hà Tây ở phía Tây.

Diện tích thành phố Hà Nội trước 1/8/2008 là 920,97 km², chiếm 0,3% diện tích đất tự nhiên của cả nước, với khu vực trung tâm chỉ chiếm 1/10 tổng diện tích Mặc dù diện tích không lớn, dân số Hà Nội rất đông đúc, với 3.398.889 người sinh sống tính đến 31/12/2007, trong đó khoảng 2,9 triệu người đã đăng ký thường trú Mật độ dân số trung bình đạt 3.568 người/km² Đến năm 2008, Hà Nội có 14 đơn vị hành chính cấp quận/huyện, bao gồm 9 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành.

Về tăng tr-ởng kinh tế:

Tốc độ tăng trưởng GDP của Hà Nội giai đoạn 2001-2003 đạt bình quân 10,7% Cơ cấu kinh tế thành phố đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, từ mô hình công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ – kinh tế đối ngoại (1986-1990) sang công nghiệp – thương mại – du lịch – dịch vụ – nông nghiệp (1991-2000) và cuối cùng là công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp (2000-2003).

Về vị trí địa lý :

Quận Đống Đa, nằm ở phía Tây Nam Hà Nội, có vị trí chiến lược quan trọng trong mối quan hệ với các quận, huyện khác và các địa phương trên toàn quốc Cách trung tâm thành phố chỉ 3km, quận này giáp với quận Ba Đình ở phía Bắc, quận Hai Bà Trưng và quận Hoàng Kiếm ở phía Đông, quận Thanh Xuân ở phía Nam, và quận Cầu Giấy ở phía Tây.

Quận Đống Đa, về mặt lịch sử, phần lớn thuộc huyện Hoàng Long, tỉnh Hà Đông cũ Quốc lộ 6 Hà Nội – Hà Đông, chạy theo hướng Đông – Tây, đi qua các phố Nguyễn Lương Bằng và Tây Sơn, đóng vai trò là trục giao thông chính của quận.

Quận Đống Đa, nằm trên trục phát triển phía Tây Hà Nội, là trung tâm của các cơ sở sản xuất công nghiệp và có kết nối giao thông thuận lợi với các tỉnh như Hà Tây và Hòa Bình, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội Với tổng diện tích tự nhiên 1.008,5 ha, quận Đống Đa chiếm 1,08% diện tích toàn thành phố, bao gồm 21 phường và dân số đạt 336.008 người, mật độ dân số khoảng 35.341 người/km².

1.3 Ph-ờng Láng Th-ợng

Phường Láng Thượng, với diện tích 122,8 ha, là phường lớn nhất quận Đống Đa, nổi bật với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng Sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động thương mại và dịch vụ tại đây đã tạo nên một môi trường kinh doanh sôi động Đến năm 2007, phường đã hoàn thành phương án hoạt động, đánh dấu bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế địa phương.

Ba HTX thương mại dịch vụ đang từng bước thực hiện kế hoạch kinh doanh nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho hội viên.

Trong năm 2007, phường Láng Thượng, quận Đống Đa đã hoàn thành và vượt chỉ tiêu kinh tế được giao, đặc biệt trong công tác thu chi ngân sách được thực hiện nghiêm túc Với nguồn vốn duy tu và kết hợp, phường đã đầu tư hơn 2 tỷ đồng để sửa chữa, nạo vét hệ thống thoát nước và nâng cấp đường ngõ.

Công tác giáo dục - đào tạo:

Hội đồng giáo dục và các trường học trên địa bàn phường đã triển khai hiệu quả phong trào thi đua dạy tốt – học tốt Đặc biệt, trong năm học 2007-2008, hai trường Tiểu học Láng Thượng và THCS Láng Thượng đã được công nhận là trường chuẩn quốc gia.

Công tác xóa đói giảm nghèo:

Năm 2007, theo nghị quyết của Đảng ủy, UBND phường đã phối hợp với UBMTTQ và các ban, ngành đoàn thể để tạo điều kiện hỗ trợ, nhờ đó đã giảm được 5 hộ nghèo, hiện tại phường còn 14 hộ nghèo.

Công tác xây dựng chính quyền “ cải cách hành chính:

Năm 2007, phường Láng Thượng đã tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri tại 13 khu dân cư và thành công trong kỳ họp thứ 8 HĐND phường khóa VII Phường cũng đã tổng kết các hoạt động năm 2006 và việc thực hiện Nghị quyết 05 về giám sát cán bộ, đảng viên, công chức Trong năm này, phường tiếp nhận và giải quyết 100% hồ sơ, với 3814/3814 hồ sơ được xử lý Ban giải quyết đơn thư đã nhận 96 đơn, trong đó 95 đơn đã được giải quyết, không có đơn thư vượt cấp.

Vài nét khái quát về tình hình tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ của n-ớc ta hiện nay

đạo, quản lý của phụ nữ ở n-ớc ta hiện nay

Phụ nữ Việt Nam hiện chiếm hơn 51% dân số và 49% lực lượng lao động, tham gia đa dạng trong các lĩnh vực lao động và sản xuất, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước Sự hiện diện của phụ nữ trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và chính trị đã được cải thiện, nâng cao vị thế và vai trò của họ Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý vẫn còn hạn chế, với ít sự hiện diện trong các vị trí chủ chốt.

Theo thống kê từ các cơ quan, tình trạng hiện nay cho thấy tỷ lệ nữ lãnh đạo giảm dần theo cấp bậc, dẫn đến việc hạn chế tiếng nói và sự tham gia của nữ cán bộ trong các quyết định quản lý nhà nước.

Tình hình tham gia của phụ nữ trong các cấp ủy Đảng vẫn còn hạn chế, với tỷ lệ tăng trưởng không đáng kể trong các khóa gần đây Cụ thể, tỷ lệ phụ nữ trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng là thấp nhất, tiếp theo là Ban Chấp hành Tỉnh ủy (11,75%) và Ban Chấp hành quận/huyện ủy (14,74%) Tỷ lệ cao nhất được ghi nhận ở Ban Chấp hành Đảng bộ xã/phường (15,18%) Trung bình, tỷ lệ nữ cán bộ ở các vị trí chủ chốt như bí thư, phó bí thư, và ủy viên thường vụ chỉ đạt khoảng 10% ở mọi cấp Đáng chú ý, phần lớn nữ ủy viên thường vụ chỉ đảm nhận các công việc hành chính, ít liên quan đến nhiệm vụ chiến lược, và hiện tại không có phụ nữ nào trong Bộ Chính trị.

Hiện nay, Việt Nam tự hào có tỷ lệ đại biểu nữ cao nhất trong Quốc hội Châu Á, đứng thứ hai khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, chỉ sau New Zealand, và xếp thứ 9 trong số 135 quốc gia trên toàn thế giới Tuy nhiên, tỷ lệ này không ổn định và có sự chênh lệch qua các nhiệm kỳ khác nhau.

Hình 1: Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam qua các nhiệm kỳ

I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII

Nguồn: Văn phòng Quốc hội năm 2007

Theo Văn phòng Quốc hội, tỷ lệ phụ nữ tham gia các Uỷ ban Quốc hội khoá XI đã tăng, chủ yếu ở các lĩnh vực xã hội như Uỷ ban Các vấn đề xã hội (40,1%), Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục thiếu niên, nhi đồng (40,1%) và Hội đồng Dân tộc (43,6%) Tuy nhiên, các Uỷ ban khác như Uỷ ban Ngân sách và Kinh tế chỉ có 12,5% cán bộ nữ, Uỷ ban Đối ngoại 17,6%, và Uỷ ban Pháp luật 11,8%; đặc biệt, Uỷ ban Quốc phòng và An ninh không có cán bộ nữ nào Sự thiếu hụt này trong các lĩnh vực quan trọng dẫn đến việc hoạch định chính sách thiếu tiếng nói đại diện của phụ nữ, ảnh hưởng đến việc thực hiện bình đẳng giới.

Tỷ lệ phụ nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp vẫn tăng không đáng kể, với mức tăng không quá 3% ở các cấp tỉnh, huyện và xã Đặc biệt, trong Hội đồng nhân dân cấp tỉnh khoá 2004-2009, cả nước chỉ có 01 nữ giữ vị trí chủ chốt.

Chủ tịch và 17 Phó Chủ tịch, tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo tại Hội đồng nhân dân lại giảm dần, đặc biệt là ở cấp xã, phường, nơi mà con số này thấp nhất.

Phụ nữ trong cơ quan quản lý nhà n-ớc và tham gia lãnh đạo trong các bộ, ngành

Theo Báo cáo của 33 bộ ngành, đoàn thể, đến năm 2008, một số chức danh quan trọng có sự tham gia của nữ nh- sau:

T-ơng đ-ơng Bộ tr-ởng 11,43

T-ơng đ-ơng thứ tr-ởng 9,21

Vụ tr-ởng và t-ơng đ-ơng 20,74

Trong hơn 10 năm qua, Việt Nam luôn có nữ Phó Chủ tịch nước, nhưng tỷ lệ lãnh đạo nữ ở cấp trung ương vẫn thấp, dưới 15% Sự gia tăng chủ yếu tập trung ở các vị trí phó như Phó Giám đốc sở và tương đương Năm 2005, tỷ lệ cán bộ nữ đứng đầu hoặc cấp phó các sở, ban, ngành chỉ đạt 6% và 14% Đáng chú ý, tỷ lệ này đã giảm ở một số lĩnh vực, chẳng hạn như trong bộ máy tư pháp, với tỷ lệ cán bộ nữ tại Toà án nhân dân tối cao giảm từ 22% xuống 16% từ năm 2001 đến 2003, và tại toà án cấp tỉnh cũng giảm từ 27% xuống 24% Tại cấp huyện, tỷ lệ cán bộ nữ giảm mạnh đến 13%, từ 35% xuống 22%.

Hiện nay, tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo và quản lý có trình độ đại học trở lên tại các cơ quan Trung ương đạt 72,2%, trong khi ở cấp tỉnh/thành phố là 55,9% Tuy nhiên, ở cấp quận/huyện, tỷ lệ cán bộ có trình độ trung cấp và đại học vẫn chưa đạt 50%.

Phụ nữ tham gia lãnh đạo ủy ban nhân dân là một vấn đề quan trọng, vì ủy ban nhân dân đại diện cho chính quyền các cấp và quản lý các công việc địa phương Mặc dù tỷ lệ phụ nữ trong các cơ quan này có sự biến động theo thời gian, nhưng nhìn chung vẫn rất thấp so với năng lực và tỷ lệ phụ nữ trong lao động và dân số Việc tăng cường sự hiện diện của phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo là cần thiết để thực hiện hiệu quả các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước.

Theo số liệu thực tế, tỷ lệ nữ giữ chức Phó Chủ tịch ở cấp cơ sở chỉ đạt 8,84% Tỷ lệ nữ là Chủ tịch ở cấp tỉnh/thành trong khóa 1999-2004 chỉ đạt 1,64%, nhưng đã tăng lên 3,12% trong khóa 2004-2009 Tuy nhiên, ở cấp huyện và xã, tỷ lệ này lại có xu hướng giảm, từ 5,27% ở cả hai cấp giảm xuống còn 3,62% và 3,42%.

Sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực lãnh đạo và quản lý khoa học hiện vẫn còn hạn chế, đặc biệt là ở các bậc sau đại học Mặc dù số lượng nữ trí thức tăng lên ở bậc cử nhân, nhưng tỷ lệ nữ nhà khoa học tham gia quản lý nhà nước, đặc biệt ở cấp cao, vẫn rất thấp Tại các cơ quan nghiên cứu lớn như Viện Khoa học tự nhiên và Viện Khoa học xã hội Việt Nam, không có cán bộ nữ trong ban lãnh đạo và chỉ có rất ít phụ nữ giữ chức vụ Phó Viện trưởng Tính đến năm 2001, trong số gần 18.000 cán bộ nữ có học hàm, học vị, tỷ lệ phụ nữ chủ trì các đề tài, dự án khoa học và công nghệ, đặc biệt ở cấp nhà nước, vẫn dưới 4% Mặc dù từ năm 2000 đến nay, tỷ lệ phụ nữ chủ trì đề tài đã tăng lên 10%, nhưng vẫn chưa phản ánh đúng năng lực và khả năng đóng góp của họ trong các nhiệm vụ nghiên cứu quan trọng.

Phụ nữ hiện đã có mặt trong nhiều vị trí lãnh đạo và quản lý, thể hiện sự tiến bộ trong bình đẳng giới Mặc dù có những cải thiện đáng kể, vẫn tồn tại sự chênh lệch rõ rệt về cơ hội tham gia lãnh đạo giữa phụ nữ và nam giới Sự khác biệt này tạo ra khoảng cách lớn trong quyền quyết định các vấn đề, ngay cả những vấn đề liên quan đến chính phụ nữ.

3 Một số đặc điểm của trí thức Hà Nội trong mẫu khảo sát

Trí thức đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội, đặc biệt trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại Họ là nguồn lực thiết yếu, góp phần tạo nên sức mạnh cho mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển Do đó, việc nghiên cứu thông tin về các hộ gia đình và nhóm trí thức tại khu vực khảo sát là điều cần thiết.

Trong cơ cấu mẫu, trình độ học vấn được sử dụng làm tiêu chí phân loại hai nhóm đối tượng: trí thức và không trí thức Nhóm trí thức bao gồm những người có trình độ học vấn từ cao đẳng trở lên, trong khi nhóm không trí thức được định nghĩa là những người có trình độ học vấn dưới cao đẳng, tức từ trung cấp trở xuống.

Nhận thức của trí thức Hà Nội về vai trò tham gia lãnh đạo, quản lý Nhà n-ớc của đội ngũ cán bộ nữ hiện nay

Nhận thức về vai trò của cán bộ nữ trong lãnh đạo và quản lý nhà nước hiện nay là một vấn đề quan trọng Luận văn sẽ xem xét sâu sắc các khía cạnh liên quan đến sự tham gia của họ trong các vị trí lãnh đạo.

4 Nhận thức của trí thức Hà Nội về vai trò của cán bộ nữ trong việc tham gia lãnh đạo, quản lý Nhà n-ớc hiện nay

4.1 Nhận thức của trí thức về sự tham gia lãnh đạo, quản lý Nhà n-ớc của cán bộ nữ qua khảo sát tại địa bàn nghiên cứu

Theo khảo sát, 90% người dân cho rằng số lượng nữ tham gia vào các hoạt động sản xuất hiện nay nhiều hơn so với trước Đổi mới (1986) Trong số các trí thức, tỷ lệ này cũng cao, với 89,7% ủng hộ quan điểm trên.

Theo khảo sát, phụ nữ chủ yếu tham gia vào các lĩnh vực như sản xuất nông, lâm nghiệp (51,7%), giáo dục (60,8%), nhân viên văn phòng (34,2%), và kinh doanh, buôn bán (40,8%).

Có sự khác biệt rõ rệt giữa nhóm trí thức và không trí thức trong việc đánh giá sự tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực lao động và sản xuất Nhóm trí thức có nhận thức khác biệt về vai trò của phụ nữ trong các ngành nghề này so với nhóm không trí thức.

Bảng 3: Khác biệt về trình độ học vấn của ng-ời trả lời với nhận thức về nhóm ngành nghề của phụ nữ hiện nay

Trình độ học vấn phân loại Trí thức Không trí thức

Sè l-ợng Tỷ lệ % Số l-ợng Tỷ lệ %

Kinh doanh/buôn bán nhỏ 30 34,9 19 57,6

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong nhóm trí thức, những người có trình độ học vấn cao có cái nhìn khá đồng đều về sự tham gia của phụ nữ trong các ngành nghề Tuy nhiên, vẫn tồn tại xu hướng đánh giá thấp sự tham gia của nữ giới trong các lĩnh vực đòi hỏi chuyên môn cao như giáo viên, y tá/bác sĩ và nhân viên văn phòng Đặc biệt, tỷ lệ nữ tham gia trong lực lượng vũ trang chỉ đạt 2,3% và trong tiểu thủ công nghiệp là 3,5% Ngược lại, trong nhóm không trí thức, đánh giá về sự tham gia của nữ giới lại cao hơn trong các ngành lao động chân tay như nông lâm nghiệp, lao động tự do, và công nhân Đáng lưu ý, không có ai trong nhóm này cho rằng phụ nữ tham gia vào lực lượng vũ trang.

Trong hầu hết các ngành nghề, cả trí thức lẫn không trí thức đều nhận thấy rằng sự tham gia của phụ nữ đã tăng lên đáng kể so với trước đổi mới.

(1986) Chỉ có nữ trong lực l-ợng vũ trang và nữ trong lao động tiểu, thủ công nghiệp thì ít hơn đáng kể so với các ngành nghề khác

Có sự khác biệt rõ rệt trong nhận thức giữa hai nhóm trí thức và không trí thức về nghề nghiệp của phụ nữ hiện nay Nhóm trí thức cho rằng phụ nữ tham gia lao động nhiều hơn so với quan điểm của nhóm không trí thức Điều này cho thấy, những người có trình độ học vấn cao có cái nhìn tích cực hơn về sự tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực lao động và sản xuất so với những người có trình độ học vấn thấp.

Hình ảnh người phụ nữ đã có nhiều biến chuyển tích cực trong xã hội hiện đại Họ không chỉ tham gia vào quá trình lao động - sản xuất mà còn vượt qua khó khăn để nắm giữ các vị trí lãnh đạo và quản lý tại các cơ quan, tổ chức Nhiều phụ nữ đã phát huy năng lực trong kinh doanh, sản xuất và nghiên cứu khoa học, đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Khảo sát nhận thức của người dân Hà Nội cho thấy sự tham gia lãnh đạo và quản lý của cán bộ nữ trong các cơ quan Nhà nước còn hạn chế Cụ thể, tỷ lệ nữ tham gia cao nhất là trong ngành giáo dục (90,8%) và y tế (71,7%), tiếp theo là văn hóa - nghệ thuật (37,5%) và khoa học xã hội (57,5%) Ngược lại, nữ quản lý trong lĩnh vực thể dục - thể thao chỉ chiếm 2,5%, khoa học tự nhiên là 0,8% và lực lượng vũ trang cũng chỉ 2,5%, cho thấy sự thiếu hụt nghiêm trọng trong các lĩnh vực này.

Bảng 4: Các nhóm ngành nghề có sự tham gia của cán bộ nữ theo theo đánh giá của trí thức Hà Nội

Kết quả nghiên cứu cho thấy nhận thức của nhóm trí thức Hà Nội về sự tham gia lãnh đạo và quản lý của nữ cán bộ trong các cơ quan nhà nước khá tương đồng với dữ liệu chung Các lĩnh vực như lực lượng vũ trang, khoa học tự nhiên, và thể dục - thể thao thường có tỷ lệ tham gia của nữ giới thấp hơn so với các ngành giáo dục, y tế, văn hóa - nghệ thuật và khoa học xã hội Điều này cho thấy đặc tính riêng của từng ngành nghề đã ảnh hưởng đến mức độ tham gia của nữ cán bộ trong lãnh đạo và quản lý.

Một số nghiên cứu phỏng vấn sâu cho thấy rằng trong các lĩnh vực như quản lý khoa học tự nhiên, thể dục thể thao và lực lượng vũ trang, công việc thường yêu cầu sức mạnh và tố chất sinh lý đặc thù, dẫn đến việc phụ nữ tham gia ít hơn, đặc biệt là trong các vị trí lãnh đạo.

Phụ nữ tham gia lãnh đạo trong công an và quân đội vẫn rất hạn chế, với chỉ một nữ tướng duy nhất là bà Nguyễn Thị Định Nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt lớn giữa nam và nữ trí thức trong nhận thức về sự tham gia của nữ cán bộ trong lãnh đạo, quản lý Cả hai giới đều thống nhất rằng nữ giới chủ yếu tham gia trong các lĩnh vực như y tế, giáo dục và khoa học xã hội, trong khi thể dục thể thao, khoa học tự nhiên và lực lượng vũ trang vẫn thiếu nữ lãnh đạo Mặc dù sự hiện diện của nữ giới trong những lĩnh vực này còn hạn chế, nữ trí thức vẫn nhận thấy có một số cán bộ nữ đảm nhận vị trí lãnh đạo trong khoa học tự nhiên và lực lượng vũ trang.

Bảng 5: Khác biệt giới trong nhận thức về sự tham gia lãnh đạo, quản lý của cán bộ nữ trong các cơ quan nhà n-ớc hiện nay

Nhóm ngành nghề có sự tham gia quản lý của nữ

Số l-ợng Tỷ lệ % Số l-ợng Tỷ lệ %

Theo kết quả phỏng vấn, 98,3% người dân Hà Nội cho rằng phụ nữ nên tham gia lãnh đạo trong các cấp ủy Đảng và Chính quyền, nhưng tỷ lệ nữ cán bộ tham gia lãnh đạo vẫn thấp hơn nam giới Cụ thể, 87,5% người được hỏi nhận định rằng nữ tham gia lãnh đạo ít hơn nam Trong nhóm trí thức, tỷ lệ này là 88,5% Về vị trí công tác, 85,8% người tham gia khảo sát cho rằng chức vụ chủ yếu của nữ lãnh đạo là cấp phó, trong khi chỉ 5,7% trí thức cho rằng nữ đảm nhận chức vụ cấp trưởng.

Tại các cơ quan và tổ chức nơi người được khảo sát làm việc, cũng như tại địa bàn dân cư nơi họ sinh sống, số liệu thống kê cho thấy sự trùng khớp với quan điểm đánh giá về cấp bậc chức vụ của cán bộ nữ hiện nay.

Bảng 6: Mô hình cấp bậc quản lý tại cơ quan, tổ chức và địa bàn khảo sát Cấp bậc chức vụ Số l-ợng Tỷ lệ %

Đơn vị bộ đội thông tin của chúng tôi chủ yếu có sỹ quan và chiến sỹ nam, trong khi chỉ có một số ít nữ Đặc biệt, tất cả cán bộ lãnh đạo, bao gồm cả cấp trưởng và cấp phó, đều là nam giới.

Ngày đăng: 14/07/2021, 10:03

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w