ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các bà mẹ và trẻ được chẩn đoán xác định nhiễm rubella, mắc rubella bẩm sinh theo tiểu chuẩn xác định ca bệnh của CSTE năm
2009 (Council of State and Territorial Epidemiologists) và CDC, Hoa Kỳ [1]:
2.1.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn a) Xác định ca mắc hội chứng rubella bẩm sinh:
- Các dấu hiệu nghi ngờ trẻ sơ sinh mắc rubella bẩm sinh khi trẻ sơ sinh có một trong những biểu hiện sau:
+ Nhóm 1, bao gồm: Đục thuỷ tinh thể; Bệnh tăng nhãn áp bẩm sinh;
Bệnh tim bẩm sinh (phổ biến là bệnh còn ống động mạch và hẹp động mạch phổi); Giảm thính lực; Bệnh sắc tố võng mạc
+ Nhóm 2, bao gồm: Ban xuất huyết da; Gan to; Vàng da; Tật đầu nhỏ;
Chậm phát triển; Viêm não, màng não; Bệnh xương thấu quang
- Trẻ có thể mắc hội chứng rubella bẩm sinh nếu biểu hiện ít nhất 2 dấu hiệu không xác định được nguyên nhân ở Nhóm 1
- Trẻ có thể mắc hội chứng rubella bẩm sinh nếu biểu hiện ít nhất 1 dấu hiệu ở Nhóm 1 và ít nhất 01 dấu hiệu ở Nhóm 2
- Xét nghiệm khẳng định mắc hội chứng rubella bẩm sinh
+ Phát hiện virus rubella từ các mẫu xét nghiệm lâm sàng
+ Dương tính với test kháng thể IgM rubella từ mẫu huyết thanh dựa trên miễn dịch enzym đặc hiệu
+ Dương tính với xét nghiệm PCR với virus rubella
Trẻ sơ sinh thường có sự hiện diện của kháng thể rubella ở mức độ cao và kéo dài hơn so với mức độ mà trẻ nhận được từ mẹ trong thời kỳ mang thai Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là trẻ đã được bảo vệ khỏi bệnh rubella Trẻ nhiễm rubella bẩm sinh (Congenital rubella infection - CRI) là một tình trạng nghiêm trọng xảy ra khi trẻ bị nhiễm rubella từ mẹ trong thời kỳ mang thai, dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng cho sức khỏe của trẻ.
Trẻ sơ sinh không có biểu hiện lâm sàng hoặc dấu hiệu về rubella nhưng có bằng chứng nhiễm rubella qua kết quả xét nghiệm:
+ Phát hiện virus rubella từ các mẫu nước bọt, nước tiểu, máu
+ Dương tính với test kháng thể IgM rubella từ mẫu huyết thanh dựa trên miễn dịch enzym đặc hiệu
Trẻ sơ sinh có thể dương tính với virus rubella qua xét nghiệm PCR từ huyết thanh, cho thấy sự hiện diện của kháng thể rubella ở mức cao và dai dẳng hơn so với lượng kháng thể nhận được từ mẹ trong thời kỳ mang thai Điều này đặc biệt quan trọng đối với các bà mẹ có con mắc hội chứng rubella bẩm sinh hoặc nhiễm rubella bẩm sinh.
+Là các bà mẹ có con mắc hội chứng rubella bẩm sinh hoặc nhiễm rubella bẩm sinh
+ Đồng ý tham gia nghiên cứu
+ Các bà mẹ không đồng ý tham gia nghiên cứu
+ Trường hợp mất liên lạc để theo dõi các chỉ số nghiên cứu
+ Không có đầy đủ thông tin về bà mẹ và bệnh nhi sau khi sinh
Nghiên cứu đã được thực hiện tại 4 bệnh viện lớn, đồng thời có sự phối hợp thêm của 3 bệnh viện chuyên khoa, cụ thể như sau:
- Nghiên cứu được tiến hành trực tiếp tại: Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương; Bệnh viện Phụ sản Trung ương; Bệnh viện Xanh Pôn; Bệnh viện Nhi Trung ương
Nghiên cứu đã tiến hành đánh giá chuyên môn phối hợp giữa ba cơ sở y tế chuyên khoa: Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Bệnh viện Mắt Trung ương và Bệnh viện Tai Mũi Họng Trung ương.
Thời gian nghiên cứu được tiến hành từ tháng 01 năm 2012 đến tháng 12 năm 2017.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả cắt ngang kết hợp với nghiên cứu thuần tập theo dõi sự phát triển của trẻ từ khi mẹ nhiễm virus rubella trong thời kỳ mang thai cho đến khi trẻ được sinh ra và phát triển trong giai đoạn đầu cho đến 48 tháng tuổi.
2.2.2 Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu nghiên cứu
(1 − ) n:là số trẻ mắc hội chứng rubella bẩm sinh tối thiểu cần nghiên cứu
Theo nghiên cứu, tỷ lệ mắc hội chứng rubella bẩm sinh tại Việt Nam dao động từ 0,1 đến 4 trẻ trên 1000 trẻ sinh ra sống, với mức trung bình ước tính khoảng 2,5 trẻ (tương đương p=0,0025) [8] Sử dụng Z1-α/2 = 1,96 cho độ tin cậy 95% và sai số tối thiểu d = 0,006, chúng tôi đã thu thập được số liệu từ 299 trẻ nhiễm rubella bẩm sinh, sau khi dự phòng 10% tỷ lệ bỏ cuộc trong quá trình nghiên cứu.
2.2.2.2 Phương pháp và cách chọn mẫu nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu đã áp dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện, dựa trên danh sách các bà mẹ nhiễm rubella trong thời kỳ mang thai Họ thu thập thông tin hàng tuần từ các bệnh viện về tình trạng của những bà mẹ mang thai, bao gồm cả những trường hợp không thể phá thai do thai quá tháng hoặc do sức khỏe của mẹ được bác sĩ chỉ định không phá thai.
Nhóm nghiên cứu đã liên hệ và giải thích cho bệnh nhân về mục đích của nghiên cứu, đồng thời mời họ tham gia Quá trình lựa chọn bệnh nhân sẽ tiếp tục cho đến khi đạt đủ kích thước mẫu cần thiết cho nghiên cứu.
Hình 2.1 Sơ đồ lựa chọn đối tượng và thiết kế nghiên cứu
Mục tiêu 2 Đánh liên quan giữa thời điểm nhiễm rubella ở mẹ theo thời kỳ mang thai với dị tật/ tình trạng nhiễm rubella ở con
20 trường hợp có Hội chứng rubella bẩm sinh (+) XN IgM