GIỚI THIỆU
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
Các phương pháp xử lý nước thải có thể được phân chia thành ba loại chính: lý học, hoá học và sinh học Một hệ thống xử lý nước thải hoàn chỉnh thường kết hợp các phương pháp này, nhưng có thể điều chỉnh tùy theo tính chất nước thải, ngân sách và yêu cầu xử lý Đề tài “Nghiên cứu xử lý nước thải thuỷ sản bằng phương pháp keo tụ điện hoá kết hợp với bể USBF” là một nghiên cứu kết hợp hai phương pháp xử lý hiệu quả.
+ Phương pháp hoá học: phương pháp keo tụ điện hoá(electrocoagulation)
+ Phương pháp sinh học: công nghệ USBF(Upflow Sludge Blanket Filtration)
Do đó, ở phần lược khảo tài liệu này, chúng tôi sẽ tập trung vào các vấn đề của hai phương pháp này.
2.1 Phương pháp xử lý hoá học
Xử lý nước thải bằng phương pháp hóa học, theo Lê Hoàng Việt (2002), là quá trình đưa hóa chất vào nước thải để tương tác với các chất ô nhiễm, từ đó tạo ra các cặn lắng hoặc chất hòa tan không độc hại.
Các phương pháp hóa học dựa trên các quá trình hóa lý giữa chất bẩn và hóa chất bổ sung, bao gồm phản ứng oxi hóa - khử, tạo thành kết tủa, và phân hủy chất độc hại.
Các phương pháp hoá học thường được sử dụng trong xử lý nước thải là: keo tụ, hấp phụ, khử trùng, trung hoà, khử Chlor,… (Lê Hoàng Việt, 2002).
Keo tụ điện hoá là một phương pháp hóa học kết hợp với phương pháp lý học, sử dụng dòng điện và các điện cực Do đó, nó có thể được xem như một phương pháp hóa - lý.
2.1.1 Giới thiệu về phương pháp keo tụ điện hóa
Keo tụ điện hoá là một phương pháp xử lý nước thải hiệu quả, trong đó dòng điện tác động lên các điện cực dương như nhôm hoặc sắt, dẫn đến sự ăn mòn và giải phóng các cation Al 3+ hoặc Fe 3+ vào nước thải Quá trình này cũng tạo ra bọt khí ở cực âm thông qua các phản ứng điện phân, góp phần nâng cao hiệu quả keo tụ.
2.1.1.2 Đặc điểm của phương pháp keo tụ điện hoá
Theo Ramesh Babu, Bhadrinarayana, Meera Sheriffa Begum Anantharaman (2006),phương pháp keo tụ điện hóa có các đặc điểm sau đây:
+ Dòng điện được sử dụng trong phương pháp keo tụ điện hóa là dòng điện một chiều.
Các điện cực dương thường được làm từ nhôm hoặc sắt, và việc xác định điện cực dương hay âm phụ thuộc vào giá trị pH cũng như đặc tính của nước thải trong từng trường hợp cụ thể.
+ Thời gian lưu nước, cường độ dòng điện, hiệu điện thế và hiệu suất vận hành của bể có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau.
+ Hệ thống điện cực được đặt ngập trong nước thải, để đảm bảo khả năng tiếp xúc giữa các bọt khí và các chất ô nhiễm là tốt nhất.
Bể keo tụ điện hoá có khả năng hoạt động hiệu quả trong hai chế độ: nạp nước thải liên tục hoặc nạp nước thải theo từng mẻ.
Theo Hold, Barton và Mitchell (2004) , keo tụ điện hóa là phương pháp giao thoa của ba quá trình: điện hoá học, tuyển nổi điện phân, keo tụ.
Phương pháp điện hoá học là kỹ thuật loại bỏ các tạp chất hòa tan hoặc phân tán trong nước thải thông qua tác động của dòng điện một chiều Quá trình này diễn ra với sự oxi hóa tại cực dương và khử tại cực âm, giúp làm sạch hiệu quả nguồn nước (Trịnh Lê Hùng, 2006).
Hình 2.1 Sơ đồ phương pháp điện hoá học
2.1.1.3.2 Nguyên lý của quá trình điện hoá học
Theo Agustin, Sengpracha và Phutdhawong (2008), khi có 2 điện cực cùng nhúng trong một dung dịch chất điện li và cho dòng điện một chiều đi qua thì:
+ Tại cực dương (anot): các ion âm sẽ cho electron, nghĩa là xảy ra phản ứng oxi hoá điện hoá.
+ Tại cực âm (catot): các ion dương sẽ nhận electron, nghĩa là xảy ra phản ứng khử.
Theo Trịnh Lê Hùng (2006), quá trình điện phân dưới tác dụng của dòng điện và electron giúp phân hủy hoàn toàn các hợp chất trong nước thải, tạo ra CO2, NH3 và nước, hoặc các chất đơn giản, không độc hại có thể tách ra bằng phương pháp khác Nghiên cứu này tập trung vào việc loại bỏ các tạp chất như xyanua, sunfoxyanua, ancol, andehyt, hợp chất nitơ (như amin, phẩm nhuộm azo), sunfit và mecaptan khỏi nguồn nước.
Các ví dụ: Theo Trịnh Lê Hùng, (2006)
+ Oxi hoá phenol nhờ oxi sinh ra trong quá trình điện phân:
Phản ứng hóa học C6H5OH + 7O2 dẫn đến sản phẩm là 6CO2 và 3H2O Đồng thời, các hợp chất halogen hữu cơ độc hại sẽ được chuyển đổi thành các hợp chất hữu cơ ít độc hại hơn khi không còn liên kết với halogen.
+ Oxi hoá ở anot của xyanat xảy ra theo phản ứng sau:
+ Hoặc oxi hoá đến mức tạo thành khí nitơ:
+ Trường hợp bổ sung thêm NaCl, thì khí Cl 2 được giải phóng ở anot sẽ oxi hoá xyanua:
CN - + 2OH - + Cl 2 → 2Cl - + H 2 O + CNO -
2CNO - + 4OH - + 3Cl 2 → 2CO 2 + N 2 + 6Cl - + 2H 2 O + Sunfoxyanua được phân huỷ theo phản ứng sau:
CNS - + 10OH - - 8e - → CNO - + SO 2- 4 + 5H 2 O + Khử Crom hoá trị VI (Cr 2 O 7 2- ):
NH 4 NO 2 → N 2 + 2 H 2 O Hiệu suất của phương pháp điện hoá học này phụ thuộc vào các yếu tố như: mật độ dòng điện, điện áp, hệ số sử dụng hữu ích điện áp, hiệu suất theo dòng, hiệu suất theo năng lượng,…
Tuyển nổi điện phân là phương pháp dựa trên quá trình điện ly nước, tạo ra các bọt khí nhỏ.
2.1.1.4.2 Cơ chế của quá trình tuyển nổi điện phân
Theo Lê Hoàng Việt (2002), phương pháp điện phân nước thải sử dụng các điện cực đặt dưới đáy bể, khi dòng điện một chiều chạy qua sẽ tạo ra bọt khí Bọt khí oxi hình thành tại điện cực dương và khí hidro ở cực âm nổi lên, bám vào các hạt chất rắn lơ lửng, tạo lực nâng chúng lên bề mặt Kết quả là hình thành lớp váng, có thể được loại bỏ dễ dàng bằng thanh gạt.
Khi dòng điện đi qua nước thải có chứa nhiều chất bẩn và điện phân, thành phần hóa học và tính chất của nước sẽ bị thay đổi Các tạp chất không tan sẽ trải qua các quá trình như điện ly, phân cực, điện chuyển và oxi hóa khử Những quá trình này có thể mang lại lợi ích cho việc xử lý nước thải, tuy nhiên, trong một số trường hợp, cần phải điều khiển chúng để tối ưu hóa hiệu suất xử lý các chất bẩn cụ thể.
Khi sử dụng điện cực bằng nhôm hoặc sắt làm cực dương, quá trình hòa tan kim loại diễn ra, dẫn đến sự hình thành các cation kim loại như Fe³⁺ hoặc Al³⁺ trong nước thải Những cation này kết hợp với nhóm hydroxyl, tạo ra các hidroxit như Al(OH)₃ và Fe(OH)₃, các chất keo tụ phổ biến trong xử lý nước thải Đồng thời, trong không gian các điện cực, các quá trình tạo bông keo tụ và bọt khí diễn ra, giúp các bọt khí bám vào bông và tăng cường hiệu suất keo tụ, hấp thụ, kết dính, cũng như nâng cao hiệu suất tuyển nổi.
Nước Điện cực vào Ống thu bùn Hình 2.2 Bể tuyển nổi điện phân (Nguồn: Trần Hiếu Nhuệ, 2001) 2.1.1.4.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tuyển nổi điện phân
Theo Trần Hiếu Nhuệ (2001), các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tuyển nổi bằng phương pháp điện phân:
PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN
3.1 Địa điểm và thời gian thực hiện Địa điểm thực hiện: đề tài được thực hiện tại Bộ môn Kỹ Thuật Môi Trường - Khoa Môi trường & Tài Nguyên Thiên Nhiên - Trường Đại học Cần Thơ.
Thời gian thực hiện: từ 01/8/2010 đến 14/11/2010.
Nguyên liệu thí nghiệm được sử dụng là nước thải từ quá trình chế biến thủy sản tại Công ty Cổ phần Thủy Sản Bình An, có địa chỉ tại Lô 2.17 Khu Công Nghiệp Trà Nóc II, Thành phố Cần Thơ Công ty chuyên sản xuất từ các loại cá như cá tra và cá basa.
Vị trí lấy mẫu nước thải được thực hiện tại cống xả của dây chuyền sản xuất 1 Nước thải tại đây có đặc điểm nổi bật với mùi tanh, màu đỏ, cùng với sự xuất hiện của nhiều váng mỡ và chất rắn lơ lửng.
Hình 3.1 Vị trí lấy mẫu nước thải làm thí nghiệm 3.3 Chuẩn bị thí nghiệm
3.3.1 Chuẩn bị thí nghiệm cho bể keo tụ điện hoá
Thí nghiệm 1: thí nghiệm định hướng để xác định loại kim loại làm cực
Tiến hành thí nghiệm định hướng thực tế trên 2 bể keo tụ điện hoá hoạt động theo mẻ với các điều kiện sau:
+ Điểm riêng: Bể 1 có cực dương làm bằng nhôm, cực âm làm bằng sắt.
Bể 2 có cực dương làm bằng sắt và cực âm làm bằng nhôm.
Hai bể chứa 24 lít nước thải, sử dụng điện áp 24V và cường độ dòng điện 1,6A, với mật độ dòng điện 160 A/m² Thời gian lưu nước trong bể là 60 phút và khoảng cách giữa hai điện cực là 2 cm Diện tích tiếp xúc của mỗi cặp điện cực là 100 cm², tạo ra tỉ số S/V là 0,4167 m²/m³ Chiều cao hữu dụng của mỗi bể là 0,94m.
S/V là tỉ số giữa tổng diện tích bảng điện cực (hoặc dương, hoặc âm) với thể tích hữu dụng của bể keo tụ điện hóa, trong đó:
- S: Tổng điện tích bảng điện cực (m 2 )
- V: Thể tích hữu dụng của bể keo tụ điện hóa (m 3 )
Tỉ số S/V đóng vai trò quan trọng trong thiết kế bể keo tụ điện hóa, vì nó cho phép tính toán chính xác tổng diện tích của bảng điện cực cần thiết cho từng bể có thể tích khác nhau.
Bể keo tụ điện hóa được sử dụng trong thí nghiệm để xác định kim loại nào, giữa sắt và nhôm, là cực tan hiệu quả hơn cho nước thải thủy sản Để tiết kiệm chi phí, thí nghiệm chỉ tập trung vào ba chỉ tiêu chính: pH, COD và SS Sau khi phân tích các chỉ tiêu này, dữ liệu sẽ được xử lý để lựa chọn kết quả tối ưu dựa trên các mục tiêu kinh tế và kỹ thuật Kết quả tốt nhất sẽ được áp dụng cho các thí nghiệm chính thức sau này.
3.3.2 Chuẩn bị thí nghiệm cho bể USBF
Bể USBF hoạt động hiệu quả trong hai điều kiện: có giá bám và không có giá bám, với nguồn nước đầu vào là nước đầu ra từ bể keo tụ điện hoá Để đảm bảo hiệu suất tối ưu, bể USBF chỉ nên được vận hành sau khi hoàn tất tất cả các thí nghiệm của bể keo tụ điện hoá Để tiết kiệm thời gian, các khâu chuẩn bị cho bể USBF cần được thực hiện trước hoặc đồng thời với quá trình thí nghiệm của bể keo tụ điện hoá.
Để thuận lợi cho thí nghiệm và ứng dụng thực tế, chúng tôi đã chọn bông lọc làm giá bám với độ rỗng 95%, đáp ứng các tiêu chí như giá thành rẻ, độ rỗng cao, diện tích bề mặt lớn và khả năng chống bào mòn tốt.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Trực (2006), khi lượng giá bám chiếm 30% thể tích bình, hiệu suất xử lý có sự khác biệt đáng kể Việc sử dụng bông lọc với độ rỗng 95% làm gá bám sẽ tạo ra sự khác biệt có ý nghĩa về hiệu suất giữa bể USBF có giá bám và bể USBF không có giá bám.
Giá bám được chọn mang về phòng thí nghiệm cắt nhỏ Sau đó rửa lại bằng nước sạch rồi cho vào thùng nuôi giá bám.
Giai đoạn nuôi bùn và tạo màng vi sinh trên giá bám:
Bùn hoạt tính được lấy từ bể bùn hoạt tính của Công ty Cổ Phần Thủy Sản Bình
An Sau đó cho vào 2 thùng 60L (1 thùng có giá bám và 1 thùng không giá bám).
Giá bám và nước thải được cho vào thùng và sục khí liên tục 24/24h.
Thùng không giá bám dùng để tạo sinh khối cần thiết khi tiến hành thí nghiệm chính thức trên bể USBF.
Thùng có giá bám để tạo màng sinh học khi tiến hành thí nghiệm trên bể USBF. Nước thải được thay định kỳ mỗi ngày 3 lần vào 6h, 14h, 22h.
Sau thời gian nuôi, quan sát thấy màng vi sinh trên giá bám khá tốt thì chúng tôi sẽ tiến hành thí nghiệm chính thức trên bể USBF.
Hình 3.3 Giá bám trước khi tạo màng và sau khi tạo màng
3.4 Phương tiện và cách bố trí thí nghiệm
3.4.1.1 Gia công bể keo tụ điện hóa
Mô hình bể keo tụ điện hoá đã được điều chỉnh từ mô hình bể lọc sinh học nhỏ giọt trước đây (Nguyễn Y Mơ, 2010) Chúng tôi đã thực hiện lắp đặt các điện cực và tiến hành chỉnh sửa mô hình để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Các dụng cụ cần thiết cho các thí nghiệm bao gồm biến điện để chuyển đổi điện xoay chiều thành dòng điện một chiều, dây dẫn, kim loại để tạo điện cực, và công tơ điện để đo lường lượng điện năng tiêu thụ trong từng thí nghiệm.
Gia công 2 mô hình bể USBF:
+ Sử dụng bản vẽ của các khóa trước để gia công 2 bể USBF có kích thước hoàn toàn giống nhau(Lê Ngọc Cẩm Vân - Nguyễn Thị Diễm, 2010).
Mô hình thí nghiệm được gia công tại xưởng Cơ khí - Đại Học Cần Thơ, bao gồm các dụng cụ nghiên cứu như bình Marriott, máy bơm bùn hoàn lưu, máy sục khí, cánh khuấy và thùng chứa nước thải.
(a) (b) Hình 3.4 Bể USBF có giá bám (a) và bể USBF không giá bám (b)
3.4.2 Cách bố trí thí nghiệm
3.4.2.1 Bố trí thí nghiệm cho bể keo tụ điện hoá Đối với bể keo tụ điện hoá hoạt động theo mẻ để giảm tải nạp cho bể USBF thì chúng tôi cần thực hiện những thí nghiệm để xác định các thông số sau đây: thời gian lưu nước trong bể, khoảng cách giữa hai điện cực, diện tích bảng điện cực (hay tỉ số S/V), hiệu điện thế - cường độ của dòng điện (hay mật độ dòng điện). Đối với các thí nghiệm để xác định một thông số chúng tôi sẽ thực hiện với cùng một loại nước thải (được lấy cùng ngày, cùng giờ và cùng địa điểm) để đảm bảo tính khách quan cho số liệu của mình Bởi vì, nước thải được thu ở những thời điểm khác nhau sẽ không giống nhau về thành phần và nồng độ các chất ô nhiễm Khi đó, điều kiện vận hành của các thí nghiệm trong cùng một nghiệm thức sẽ khác nhau và kết quả đạt được sẽ không đồng nhất nhau.
Tất cả các thí nghiệm chúng tôi đều khống chế độ mặn ở mức 1,2‰ và sử dụng
24 lít nước thải Bên cạnh đó, chiều cao hữu dụng của bể luôn là 0,94 m.
Thí nghiệm 2: Xác định thời gian lưu nước (θ)
Theo nghiên cứu của Trần Hiếu Nhuệ (2001), thời gian lưu nước tối ưu cho bể tuyển nổi điện phân là 0,75 giờ (45 phút) Do đó, chúng tôi đã quyết định thực hiện thí nghiệm với các mốc thời gian xung quanh giá trị này Cụ thể, chúng tôi chọn 8 mốc thời gian lưu, mỗi mốc cách nhau 15 phút, bắt đầu từ 15 phút và kết thúc ở 120 phút Mục tiêu của nghiên cứu là khảo sát mối quan hệ giữa hiệu suất xử lý và thời gian lưu.
Chúng tôi thực hiện thí nghiệm với 8 nghiệm thức, tương ứng với 8 mốc thời gian lưu nước là 15, 30, 45, 60, 75, 90, 105 và 120 phút, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần Đối với các thông số khác, chúng tôi chọn kim loại làm điện cực dựa trên kết quả tốt nhất từ thí nghiệm định hướng - thí nghiệm 1 Khoảng cách giữa hai điện cực được xác định là 2cm (theo Trần Hiếu Nhuệ, 2001), và diện tích bảng điện cực cũng được tính toán kỹ lưỡng.
100cm 2 (hay tỉ số S/V là 0,4167 m 2 /m 3 ) Sử dụng dòng điện có cường độ là 1.6A - hiệu điện thế là 24V (hay mật độ dòng điện là 160 A/m 2 ).
Thí nghiệm được bố trí theo sơ đồ sau:
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Kết quả thí nghiệm xác định loại kim loại làm điện cực (thí nghiệm 1)
4.1.1 Đặc điểm của nước thải đầu vào
Vào lúc 7h30 sáng, nước được thu mẫu trong điều kiện trời không mưa vào tối hôm trước Nước thải thu được có màu đỏ đậm, chứa nhiều mỡ và ít bọt, với mực nước trong kênh dẫn nơi thu mẫu khoảng 0,3m.
4.1.2 Hiện tượng xảy ra trong quá trình thí nghiệm
Với các điều kiện thí nghiệm như đã trình bày ở phần 3.3.1 - thí nghiệm 1.
Chúng tôi vận hành 2 bể keo tụ điện hóa hoạt động theo mẻ song song nhau và quan sát được các hiện tượng sau:
Bể 1 có cấu trúc với Al là cực dương và Fe là cực âm, trong đó bọt khí ở cực âm được sinh ra mạnh mẽ và liên tục trong suốt thí nghiệm Quá trình tạo bông diễn ra mạnh mẽ, tuy nhiên, lượng cặn tạo ra giảm dần về cuối thí nghiệm Màu nước chuyển từ đỏ đậm sang đỏ nhạt hơn.
Bể 2 hoạt động với Fe là cực dương và Al là cực âm, trong đó bọt khí tại cực âm sinh ra không mạnh mẽ, nhưng theo thời gian, lượng bọt khí này tăng lên Tại cực dương, bọt khí xuất hiện nhưng với số lượng ít hơn, trong khi quá trình tạo bông diễn ra yếu ớt Màu nước chuyển từ đỏ đậm sang xanh đậm, tuy nhiên, nếu nước tiếp xúc với không khí trong thời gian dài, màu xanh sẽ chuyển thành nâu sẫm.
Hình 4.1 Nước thải đầu ra của bể keo tụ điện hóa với cực dương lần lượt là Al và Fe
Sau khi thực hiện thí nghiệm và phân tích các chỉ tiêu lý hóa như đã trình bàyở phần 3.3.1, chúng tôi thu được các kết quả sau đây:
Bảng 4.1 Kết quả thí nghiệm xác định loại kim loại làm điện cực Đầu ra (60 phút) Chỉ tiêu Đơn vị Đầu vào Al (cực dương) Fe (cực dương) pH - 7,1 7,24 6,74
SS COD Đầu vào Al 3+ Fe 3+
N ốn g đ ộ S S và C O D c òn lại s au xử lý (m g/ L )
Kết quả nghiên cứu cho thấy bể keo tụ điện hóa với cực dương bằng nhôm (Al) và sắt (Fe) có hiệu quả trong việc loại bỏ chất rắn lơ lửng (SS) và nhu cầu oxy hóa học (COD) trong nước thải thủy sản.
4.1.4 Các nhận xét và giải thích
Qua quá trình thực hiện thí nghiệm định hướng này và quan sát hiện tượng chúng tôi có các nhận xét sau:
Nồng độ COD và SS trong nước thải đầu ra của bể 1 thấp hơn so với bể 2, cho thấy hiệu suất xử lý của bể 1 cao hơn bể 2.
Nguyên nhân của vấn đề này liên quan đến tính chất của kim loại làm điện cực tan Cụ thể, ở bể 1, kim loại điện cực tan là Al, và khi Al tan, nó sẽ giải phóng cation.
Trong bể 2, kim loại làm điện cực tan là Fe, khi tan sẽ giải phóng cation Fe 3+ Hiệu quả của quá trình thủy phân của cation Al 3+ và Fe 3+ tạo thành Al(OH) 3 và Fe(OH) 3 diễn ra theo hai hướng khác nhau Cation Al 3+ bị thủy phân trực tiếp thành Al(OH) 3, trong khi cation Fe 3+ phải trải qua quá trình thủy phân gián tiếp qua Fe(OH) 2 trước khi chuyển thành Fe(OH) 3 (Ramesh Babu, Bhadrinarayana, Meera Sheriffa Begum và Anantharaman, 2006) Các phản ứng thủy phân của hai ion này có sự khác biệt rõ rệt.
Al 3+ + 3H 2 O → AL(OH) + 3 + 3H + Đối với ion Fe 3+ :
Fe 3+ + 2H 2 O → Fe(OH) + 2 + 2H + 2Fe(OH) 2 + 1/2O 2 + H 2 O → 2Fe(OH) 3
Quá trình chuyển hóa từ Fe(OH)2 sang Fe(OH)3 bị ảnh hưởng bởi hàm lượng oxy hòa tan (DO) trong nước, đặc biệt trong nước thải thủy sản có DO rất thấp Tại bề mặt của bể, các váng bọt che lấp không gian, ngăn cản oxy trong không khí khuếch tán vào nước thải, làm giảm hiệu quả của quá trình chuyển hóa này.
Lượng Fe(OH) 3 tạo ra ở bể 2 thấp hơn nhiều so với lượng Al(OH) 3 ở bể 1 Khả năng keo tụ của Fe(OH) 2 cũng kém hơn so với Fe(OH) 3 và Al(OH) 3 Do đó, bể 1 có khả năng keo tụ cao hơn bể 2, dẫn đến chất lượng nước đầu ra ở bể 1 tốt hơn bể 2.
+ Nước thải đầu ra ở bể 1 có màu đỏ nhạt Trong khi đó, ở bể 2 nước thải đầu ra có màu xanh nhạt.
Màu đỏ nhạt ở bể 1 là kết quả của máu cá và các chất màu đỏ trong nước thải, đã được giảm thiểu nhờ quá trình keo tụ và tuyển nổi Trong khi đó, màu xanh ở bể 2 xuất phát từ sự hiện diện của Fe(OH) 2 Khi nước thải tiếp xúc với không khí, oxy sẽ khuếch tán vào và phản ứng với Fe(OH) 2, dẫn đến sự hình thành Fe(OH) 3, làm cho nước thải chuyển từ màu xanh sang màu nâu sẫm.
Chúng tôi đã chọn sắt làm cực âm và nhôm làm cực dương cho bể keo tụ điện hóa hoạt động theo mẻ, nhằm hiệu quả trong việc xử lý nước thải thủy sản.
Quyết định này được đưa ra dựa trên hai lý do chính Thứ nhất, pH của nước thải thủy sản thường ở mức trung tính, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thủy phân Al 3+ thành Al(OH) 3, hơn là quá trình thủy phân Fe 3+ thành Fe(OH) 3 Thứ hai, tại cùng một thời gian lưu, hiệu suất xử lý ở bể 1 cao hơn bể 2.
4.2 Kết quả thí nghiệm trên bể keo tụ điện hóa
4.2.1 Kết quả thí nghiệm xác định thời gian lưu nước (thí nghiệm 2)
Qua thí nghiệm 1, Al được xác định là cực tan tốt hơn sắt, do đó, trong thí nghiệm 2, chúng tôi đã sử dụng nhôm làm cực dương và sắt làm cực âm Các điều kiện thí nghiệm được thực hiện theo phần 3.4.2.1 Kết quả thu được từ việc vận hành bể keo tụ điện hóa theo mẻ đã cho thấy một số kết quả đáng chú ý.
4.2.1.1 Đặc điểm của nước thải đầu vào
Vào lúc 8h sáng, nước thải được thu tại khu vực có mực nước khoảng 0,4m Trước đó, vào tối đêm trước, trời không mưa, nước thải có màu đỏ đậm, ít mỡ và xuất hiện nhiều bọt.
4.2.1.2 Hiện tượng xảy ra trong quá trình thí nghiệm
Trong quá trình vận hành mô hình bể keo tụ điện hóa theo mẻ nhằm xác định thời gian lưu tối ưu, chúng tôi đã ghi nhận một số hiện tượng đáng chú ý.