GIỚI THIỆU
Bối cảnh nghiên cứu
Đảng và nhà nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chú trọng vào phát triển công nghiệp Quá trình này đã mang lại nhiều kết quả tích cực, giúp nhiều địa phương phát triển công nghiệp và dịch vụ Để phát triển các Khu công nghiệp dịch vụ, việc thu hồi đất của các hộ gia đình là cần thiết, tuy nhiên, điều này đã tác động đến đời sống của hàng ngàn hộ, chủ yếu là những hộ sản xuất nông nghiệp Mặc dù một số hộ đã được tạo điều kiện chuyển đổi nghề nghiệp, nhiều hộ vẫn phải đối mặt với nguy cơ mất việc làm Nhà nước cam kết đảm bảo cuộc sống của người dân sau khi tái định cư phải bằng hoặc tốt hơn so với cuộc sống trước đây.
Việc thu hồi đất không chỉ khiến nông dân mất đi tài sản quý giá mà còn ảnh hưởng đến địa vị, cơ hội và thu nhập của họ, gây ra sự xáo trộn trong cộng đồng Khi diện tích đất sản xuất nông nghiệp giảm sút, nông dân buộc phải tìm kiếm các nguồn sống mới để tồn tại.
Khi người nông dân đối mặt với khó khăn trong việc kiếm sống, họ phải chấp nhận nhiều rủi ro khác nhau Một số lao động trẻ chọn làm việc trong khu công nghiệp, trong khi những người khác tìm kiếm cơ hội việc làm tại các địa phương khác hoặc khởi nghiệp với các dịch vụ như quán nước và xây dựng nhà ở cho thuê Đồng thời, những người không bị thu hồi đất cũng chịu ảnh hưởng đến sản xuất, khi một phần lao động trong gia đình chuyển sang làm việc trong các nhà máy hoặc dịch vụ tại khu công nghiệp.
Năm 2009, Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh đã quyết định thu hồi 2.851,0 ha đất tại các xã Gia Lộc, Lộc Hưng, Đôn Thuận thuộc huyện Trảng Bàng và các xã Bàu Đồn, Phước Đông huyện Gò Dầu để thực hiện dự án Khu liên hợp Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ Phước Đông - Bời Lời Trong đó, huyện Gò Dầu chiếm 962,37 ha, với xã Bàu Đồn có diện tích 99,37 ha, trong đó có 55,51 ha đất nông nghiệp bị thu hồi, ảnh hưởng đến gần 200 hộ nông dân Mặc dù nhiều lao động được nhận vào làm việc tại các nhà máy trong Khu công nghiệp, nhưng cũng có không ít người chỉ có việc làm tạm thời hoặc rơi vào tình trạng thất nghiệp, buộc họ phải tìm kiếm công việc khác như làm thuê hoặc mở quán nước để sinh sống.
Sau khi bị thu hồi đất để xây dựng các Khu công nghiệp, đời sống người dân tại xã Bàu Đồn, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh đã có nhiều thay đổi Một số hộ gia đình đã cải thiện cuộc sống, trong khi nhiều hộ khác vẫn đang đối mặt với khó khăn Vấn đề quan trọng đặt ra là sự thay đổi trong sinh kế của những hộ dân mất đất, liệu họ có được đảm bảo cuộc sống hiện tại hay không, và mức sống của họ đã thay đổi ra sao Để ổn định đời sống và đảm bảo an sinh xã hội cho người dân, nghiên cứu về sinh kế của hộ nông dân sau thu hồi đất sản xuất nông nghiệp tại khu vực này là rất cần thiết.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu sinh kế của hộ nông dân sau khi thu hồi đất sản xuất nông nghiệp nhằm xây dựng Khu liên hợp Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ Phước Đông - Bời Lời tại xã Bàu Đồn, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh là một vấn đề quan trọng Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và thu nhập của nông dân địa phương Do đó, việc đánh giá tác động và tìm kiếm giải pháp hỗ trợ sinh kế cho các hộ dân là cần thiết để đảm bảo sự phát triển bền vững trong khu vực.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể Đánh giá sinh kế của người dân sau khi thu hồi đất để xây dựng Khu công nghiệp tại xã Bàu Đồn - huyện Gò Dầu - tỉnh Tây Ninh Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo sinh kế cho hộ nông dân sau thu hồi đất.
Câu hỏi nghiên cứu
Sinh kế của các người dân sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp tại xã Bàu Đồn hiện nay như thế nào?
Giải pháp nào để cải thiện sinh kế của người dân, đảm bảo người dân có đời sống ổn định lâu dài?
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tình hình sinh kế của hộ nông dân tại xã Bàu Đồn sau khi thu hồi đất để xây dựng Khu công nghiệp, phân tích sự thay đổi sinh kế và các yếu tố ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện và khôi phục sinh kế cho cộng đồng địa phương.
Phạm vi về không gian: Đề tài được nghiên cứu tại xã Bàu Đồn, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh
Phạm vi về thời gian: số liệu, dữ liệu nghiên cứu được thu thập qua 5 năm (2009-
1.4.2 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sinh kế của hộ nông dân sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp, các hoạt động tạo thu nhập, sự chuyển đổi nghề nghiệp sau khi mất ruộng, thu nhập và đời sống của các hộ dân xã Bàu Đồn sau thu hồi đất và các vấn đề liên quan đến chính sách thu hồi đất và tạo ra việc làm cho người dân nông thôn của chính quyền địa phương
Cấu trúc đề tài
Đề tài nghiên cứu gồm có 5 chương:
Chương 1: Trình bày những nội dung cơ bản của nghiên cứu bao gồm bối cảnh của nghiên cứu, mục đích nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chương 2: Trình bày tổng quan về cơ sở lý thuyết về sinh kế và khung phân tích sinh kế bền vững DFID, tóm tắt các nghiên cứu trước về chủ đề có liên quan từ đó mô tả khung phân tích mà tác giả sẽ sử dụng để phân tích nghiên cứu này
Chương 3:Đề cập phương pháp nghiên cứu, phương pháp chọn mẫu và phương pháp phân tích
Chương 4: Trình bày kết quả nghiên cứu dựa trên cơ sở lý thuyết của Chương 2 và dữ liệu thu được nhằm trả lời các câu hỏi nghiên cứu
Chương 5: Đưa ra các đề xuất và chính sách có thể giúp người dân bị thu hồi đất có được sinh kế bền vững trong thời gian tới từ kết quả nghiên cứu.
TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Các khái ni ệm
"Sinh kế" đề cập đến các phương tiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn hóa mà cá nhân, hộ gia đình hoặc nhóm xã hội sở hữu, giúp họ tạo ra thu nhập hoặc đáp ứng nhu cầu thông qua việc sử dụng và trao đổi.
Theo DFID (Bộ phát triển Quốc tế Anh), sinh kế được định nghĩa là sự kết hợp giữa các nguồn lực và khả năng của con người, cùng với những quyết định và hành động mà họ thực hiện để kiếm sống và đạt được mục tiêu, ước mơ của mình.
Sinh kế được hiểu là tổng hợp các hoạt động của con người nhằm đạt được mục tiêu, dựa trên những nguồn lực sẵn có như tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động và trình độ phát triển khoa học công nghệ.
Tiếp cận sinh kế là một phương pháp tư duy chiến lược nhằm xác định mục tiêu và ưu tiên cho sự phát triển, góp phần thúc đẩy tiến trình xoá nghèo Phương pháp này không chỉ tập trung vào việc nắm bắt nguyên nhân và khía cạnh của đói nghèo mà còn chú trọng đến các yếu tố quan trọng như vấn đề kinh tế và an ninh lương thực.
Phương pháp tiếp cận sinh kế nhằm mục tiêu giúp người dân đạt được thành công bền vững trong sinh kế, với các kết quả được đo lường qua những chỉ số mà chính họ tự xác lập Điều này đảm bảo rằng những thành quả này không bị áp đặt từ bên ngoài.
Sinh kế, theo định nghĩa của Theo Chambers & Conway (1991), bao gồm năng lực, tài sản và các hoạt động cần thiết để đảm bảo phương tiện sinh sống Để được coi là bền vững, sinh kế phải có khả năng đối phó và phục hồi sau các cú sốc, duy trì hoặc cải thiện năng lực và tài sản, đồng thời tạo ra cơ hội sinh kế cho các thế hệ tương lai Hơn nữa, sinh kế bền vững cần phải đóng góp lợi ích ròng cho các sinh kế khác ở cả cấp độ địa phương và toàn cầu, trong cả ngắn hạn và dài hạn.
Kh ung phân tích sinh kế bền vững
Khung sinh kế bền vững bao gồm các yếu tố chính tác động đến sinh kế của con người và mối quan hệ giữa chúng Công cụ này có thể được áp dụng để lập kế hoạch cho các hoạt động phát triển mới, đồng thời đánh giá đóng góp của các hoạt động hiện tại vào sự bền vững sinh kế.
Khung sinh kế bền vững có dạng như sau:
Nguồn: DFID, sustainable livelihoods guidance sheets, 1999
Khung sinh kế giúp sắp xếp các yếu tố cản trở và tăng cường cơ hội sinh kế, đồng thời thể hiện mối liên hệ giữa chúng Đây không phải là mô hình chính xác mà chỉ là cách tư duy về sinh kế, nhìn nhận vấn đề một cách phức tạp và sâu rộng nhưng vẫn trong khuôn khổ quản lý được Khung sinh kế luôn ở trạng thái động, phản ánh sự thay đổi liên tục trong thực tế.
Bối cảnh dễ bị tổn thương
CÁC CHIẾN LƯỢC SINH KẾ
Chính sách, cơ quan thủ tục
- Thể chế Thực hiện hưởng và Ảnh các nguồn tiếp cận
- Đời sống nâng cao -Tính bền vững cao
- An ninh lương thực đảm bảo
- Sử dụng đất lâu dài
H: Nguồn vốn con người S: Nguồn vốn xã hội N: Nguồn vốn tự nhiên P: Nguồn vốn vật chất F: Nguồn vốn tài chính điểm đầu, điểm cuối Giá trị của một khung sinh kế giúp cho người sử dụng nhìn nhận một cách bao quát và có hệ thống các tác nhân gây ra nghèo khổ và mối quan hệ giữa chúng Có thể đó là những cú sốc và các xu hướng bất lợi, các chính sách và thể chế hoạt động kém hiệu quả hoặc việc thiếu cơ bản các tài sản sinh kế
Khung sinh kế được sử dụng để khám phá cách mà con người kết hợp và sử dụng các nguồn lực cũng như khả năng của mình nhằm kiếm sống và đạt được các mục tiêu, ước nguyện Những kết quả mà con người đạt được thông qua việc sử dụng và kết hợp các nguồn lực này được gọi là kết quả sinh kế, phản ánh những điều mà họ mong muốn trong cuộc sống, cả ngắn hạn lẫn dài hạn.
Nghiên cứu kết quả sinh kế giúp hiểu động lực và ưu tiên của người dân, đồng thời phản ánh cách họ ứng phó với cơ hội và nguy cơ mới Các chỉ số sinh kế như đời sống hưng thịnh, nâng cao chất lượng sống, giảm khả năng tổn thương, củng cố an ninh lương thực và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên là rất quan trọng Do đó, cần kết hợp và khai thác hiệu quả các nguồn lực như đất đai, vốn và khoa học công nghệ.
Các thành phần của khung sinh kế bền vững:
2.2.1 Bối cảnh dễ bị tổn thương
Bối cảnh dễ bị tổn thương đề cập đến môi trường sống bên ngoài của con người, nơi mà sinh kế và tài sản của họ chịu ảnh hưởng từ những xu hướng chính, cú sốc và tính thời vụ Những yếu tố này làm cho sinh kế và tài sản trở nên hạn chế và khó kiểm soát.
Một số ví dụ về các nhân tố ảnh hưởng đến tài sản và sinh kế của con người:
Xu hướng dân số, tài nguyên, và xung đột đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến kinh tế quốc gia và quốc tế Bên cạnh đó, các xu hướng thể chế, bao gồm chính sách và công nghệ, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc định hình tương lai.
Cú sốc: cú sốc về sức khoẻ con người, thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh cây trồng vật nuôi
Tính thời vụ: biến động giá cả, sản xuất, sức khoẻ, những cơ hội làm việc
Những yếu tố cấu thành hoàn cảnh dễ bị tổn thương rất quan trọng vì chúng ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng tài sản và quyết định của con người, từ đó tạo ra cơ hội để theo đuổi các kết quả sinh kế tích cực.
Theo DFID (1999), tài sản sinh kế bao gồm năm loại tài sản cơ bản: nguồn vốn con người (H), nguồn vốn tự nhiên (N), nguồn vốn tài chính (F), nguồn vốn vật chất (P) và nguồn vốn xã hội (S), nhằm tạo ra sinh kế tích cực cho cuộc sống Hai mối quan hệ quan trọng giữa các loại tài sản này là xác định trình tự (sequencing) và thay thế (substitution) Những yếu tố này đóng vai trò thiết yếu trong khung phân tích về sinh kế bền vững.
Vốn con người bao gồm các kỹ năng, tri thức, khả năng làm việc và sức khỏe tốt, đóng vai trò quan trọng trong việc giúp con người theo đuổi các chiến lược sinh kế và đạt được mục tiêu Tại cấp độ hộ gia đình, vốn con người thể hiện qua số lượng và chất lượng lao động, khác nhau tùy thuộc vào kích cỡ hộ, trình độ giáo dục, kỹ năng nghề nghiệp, khả năng quản lý và tình trạng sức khỏe Vốn con người là yếu tố thiết yếu trong tài sản sinh kế, cần thiết để sử dụng và tạo ra các tài sản khác, và có thể được cải thiện thông qua đầu tư vào giáo dục và đào tạo kỹ năng nghề nghiệp.
Vốn xã hội là các nguồn lực mà con người khai thác để đạt được mục tiêu sinh kế, được hình thành thông qua mạng lưới và sự hợp tác giữa các thành viên trong nhóm Những mối quan hệ này dựa trên niềm tin, sự phụ thuộc lẫn nhau, và các hình thức trao đổi cũng như ảnh hưởng lẫn nhau.
Vốn xã hội bao gồm các mối quan hệ, mạng lưới xã hội, ngôn ngữ, và các giá trị văn hóa, tín ngưỡng mà con người xây dựng với gia đình và cộng đồng xung quanh Sự tham gia của con người vào xã hội và cách họ khai thác nguồn vốn này ảnh hưởng lớn đến quá trình tạo dựng sinh kế của họ Vốn xã hội không chỉ được duy trì và phát triển mà còn mang lại nhiều lợi ích, bao gồm khả năng tiếp cận và huy động nguồn lực từ các mối quan hệ, cũng như chia sẻ thông tin, kiến thức và giá trị chuẩn mực.
Vốn tự nhiên bao gồm các yếu tố từ nguồn lực tự nhiên, đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sinh kế của con người Nguồn lực này bao gồm nhiều thành phần, từ hàng hóa công vô hình như không khí và tính đa dạng sinh học, đến các tài sản có thể sử dụng trực tiếp trong sản xuất như đất đai, nguồn nước, cây trồng, vật nuôi và mùa màng.
Trong khung sinh kế bền vững, mối quan hệ giữa nguồn vốn tự nhiên và các tổn hại là rất chặt chẽ Nhiều thảm họa thiên nhiên như cháy rừng, lũ lụt và động đất đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho kế sinh nhai của người nghèo, làm suy giảm nguồn vốn tự nhiên, bao gồm hoa màu và đất nông nghiệp Bên cạnh đó, tính mùa vụ cũng ảnh hưởng đáng kể đến sự biến đổi trong năng suất và giá trị của nguồn vốn tự nhiên qua các năm.
Việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển khu công nghiệp đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của các hộ gia đình nông thôn, đặc biệt là nông dân, khi họ mất đất sản xuất và nguồn thu nhập chính Nhiều người buộc phải chuyển sang nghề khác hoặc di chuyển đến nơi khác để sinh sống, dẫn đến sự thay đổi trong việc làm và cơ cấu thu nhập Đây là tác động lớn nhất và cũng là cú sốc lớn đối với những người bị mất đất sản xuất.
Cơ sở pháp lý về bồi thường
Theo Luật Đất đai 2013, thu hồi đất là quyết định của Nhà nước về việc lấy lại quyền sử dụng đất từ người được cấp quyền hoặc từ những người vi phạm pháp luật đất đai.
Bồi thường là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng
Việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được quy định bởi nhiều văn bản pháp luật, bao gồm Luật Đất đai năm 2003 và các nghị định như Nghị định 181/2004/NĐ-CP, Nghị định 197/2004/NĐ-CP, và các thông tư liên quan Các văn bản này cụ thể hóa quy định về quyền hạn của Ban quản lý Khu kinh tế, cũng như điều chỉnh quy hoạch các khu công nghiệp, trong đó có Khu công nghiệp Phước Đông – Bời Lời tại Tây Ninh Quyết định thành lập KCN Phước Đông cũng được ban hành bởi UBND tỉnh Tây Ninh, thể hiện cam kết của chính quyền trong việc phát triển khu vực kinh tế này.
Quyết định số 2026/QĐ-UBND ngày 30/9/2009 của UBND tỉnh Tây Ninh đã phê duyệt việc thu hồi tổng thể 2.851,0 ha đất tại các xã Gia Lộc, Lộc Hưng và Đôn Thuận thuộc huyện Trảng Bàng, cùng với các xã Bàu Đồn và Phước Đông huyện.
Gò Dầu để thực hiện dự án Khu liên hợp Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ Phước Đông - Bời Lời
2.4 Các nghiên cứu trước và kinh nghiệm
Nghiên cứu của Vương Thị Bích Thủy (2012) về “Sinh kế cho người dân thu hồi đất – Khu Kinh tế Đông Nam, Nghệ An” áp dụng khung phân tích sinh kế bền vững của DFID Nghiên cứu này tập trung vào bối cảnh dễ bị tổn thương và các loại tài sản sinh kế, bao gồm vốn con người, vốn tài chính, vốn tự nhiên, vốn vật chất và vốn xã hội Qua việc phân tích chiến lược sinh kế và kết quả sinh kế, nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của việc thu hồi đất nông nghiệp đối với đời sống người nông dân, từ đó đề xuất các giải pháp đảm bảo sinh kế bền vững và an sinh xã hội.
Nghiên cứu cho thấy việc thu hồi đất nông nghiệp gây ra cú sốc lớn cho nông dân, dẫn đến tình trạng mất đất và nghề nghiệp khi họ phải chuyển đến địa điểm mới Tài sản tự nhiên của họ đã chuyển thành tài sản tài chính, được sử dụng để xây nhà, cho con học hành và kinh doanh Mặc dù cuộc sống ban đầu có cải thiện, nhưng về lâu dài, nông dân có thể đối mặt với bất ổn do mất đất nông nghiệp, nguồn sống bền vững của họ Nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Phương (2011) về khung phân tích sinh kế của người dân tộc Ê Đê cũng làm nổi bật vấn đề này.
Nghiên cứu tình huống tại xã Ea Bar, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk sử dụng cả số liệu thứ cấp và sơ cấp thông qua phỏng vấn để phân tích các thay đổi trong sinh kế của người dân Kết quả cho thấy sự khác biệt rõ rệt về nguồn vốn sinh kế, chiến lược và kết quả sinh kế giữa các hộ dân người Ê Đê tại địa phương Từ đó, nghiên cứu đề xuất các gợi ý chính sách phù hợp nhằm cải thiện sinh kế cho nhóm hộ nghèo.
Từ năm 2001 đến 2007, Hà Nội đã thực hiện hơn 2.800 dự án đầu tư liên quan đến thu hồi đất, bàn giao gần 1.300 dự án với 6.300 ha đất, chủ yếu là đất nông nghiệp, ảnh hưởng đến gần 180.000 hộ dân Trung bình mỗi năm, thành phố giải phóng gần 1.000 ha đất Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ việc làm và học nghề chưa đồng bộ và hiệu quả, dẫn đến nguy cơ thất nghiệp cao cho nông dân mất đất, đặc biệt là những người ở độ tuổi cao và có trình độ văn hóa hạn chế Nhiều nông dân bị thu hồi trên 30% diện tích đất đã rơi vào tình trạng nghèo đói, với 1.223 hộ nghèo tại 5 quận, huyện bị ảnh hưởng nhiều nhất, tương đương 4.389 nhân khẩu.
Hà Nội chỉ ra rằng hạn chế lớn trong cơ chế chính sách hỗ trợ hiện tại là việc bồi thường và hỗ trợ chủ yếu thông qua chi trả trực tiếp tiền cho người dân bị thu hồi đất, chỉ tập trung vào khía cạnh vật chất Điều này dẫn đến tình trạng người dân sử dụng tiền để tiêu xài, thay vì đầu tư vào học nghề hay chuyển đổi nghề nghiệp, từ đó không đảm bảo được cuộc sống ổn định khi Nhà nước thu hồi đất.
Hà Nội cũng đã đưa ra các chủ trương tìm cách hỗ trợ nông dân bị thu hồi đất như sau:
UBND thành phố đề xuất thành lập Quỹ hỗ trợ nhằm ổn định đời sống, phổ cập giáo dục, đào tạo nghề và tạo việc làm cho các hộ nông dân mất hơn 30% đất sản xuất nông nghiệp theo NĐ64/CP của Chính phủ Quỹ này sẽ có vốn ban đầu là
40 tỷ đồng từ ngân sách thành phố cấp, tiếp theo sẽ trích nguồn kinh phí của các nhà đầu tư khi được giao đất
Hai là, trẻ em của các gia đình bị thu hồi đất sẽ được hỗ trợ học phí phổ thông trong
Trong vòng 3 năm, người lao động có nhu cầu học nghề sẽ nhận thẻ học nghề trị giá tối đa 6 triệu đồng, với ưu tiên cho những người tham gia kinh doanh dịch vụ tại khu đô thị và khu công nghiệp Đồng thời, hỗ trợ 100% kinh phí bảo hiểm y tế cho nam trên 60 tuổi và nữ trên 55 tuổi.
UBND Thành phố đang chú trọng đến việc xây dựng quy chế ưu tiên đấu thầu cho các dịch vụ tại các khu đô thị và khu công nghiệp mới, đồng thời xã hội hóa các hoạt động dịch vụ trên đất nông nghiệp Người dân có đất bị thu hồi sẽ được khuyến khích tham gia kinh doanh, với ưu tiên cho lao động từ các hộ bị thu hồi trên 30% diện tích đất sản xuất Ngoài ra, cần có cơ chế đầu tư và xây dựng hạ tầng nông thôn tại các khu vực thu hồi nhiều đất nông nghiệp, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các dịch vụ phục vụ khu công nghiệp và khu đô thị, giải quyết việc làm tại chỗ và đảm bảo sự kết nối hạ tầng giữa khu đô thị, khu công nghiệp và vùng dân cư.
Từ thực tiễn giải quyết việc làm cho người dân mất đất tại Hà Nội ta thấy:
Chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề bằng thẻ học nghề giúp ngăn chặn việc người dân sử dụng tiền hỗ trợ cho mục đích khác ngoài học nghề Tuy nhiên, Hà Nội vẫn chưa chú trọng đến từng đối tượng cụ thể, đặc biệt là chưa có chính sách hỗ trợ cho những lao động đã qua độ tuổi lao động hoặc gần hết tuổi lao động.
Họ không có điều kiện chuyển đổi nghề mới
Thứ hai, Hà Nội đã có chính sách hỗ trợ học phí cho con em những hộ bị mất đất Lập quỹ hỗ trợ ổn định đời sống
Kinh nghiệm rút ra về vấn đề thu hồi đất, tái định cư, sinh kế hộ nông dân bị thu hồi đất là:
Việc thu hồi đất của người dân ảnh hưởng lớn đến sinh kế của họ, mặc dù có thể tạo ra cơ hội việc làm mới cho nông dân Tuy nhiên, do trình độ học vấn thấp, người dân không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu lao động chất lượng cao của các nhà máy và xí nghiệp, dẫn đến tình trạng thất nghiệp và đe dọa khả năng kiếm sống của họ.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khung phân tích sinh kế hộ nông dân sau khi bị thu hồi đất
Dựa trên khung phân tích sinh kế bền vững DFID (1999), tác giả đã xây dựng khung phân tích phù hợp với địa bàn nghiên cứu.
Thông tin dữ liệu nghiên cứu
Thông tin thứ cấp là những thông tin có sẵn được thu thập từ các nguồn sách báo, trang Web, các báo cáo tổng kết của xã Bàu Đồn…
Các văn bản của Nhà nước liên quan đến chính sách bồi thường và tái định cư, cùng với các báo cáo từ các cơ quan chức năng, đã được thực hiện nhằm hỗ trợ công tác bồi thường tái định cư cho dự án Khu liên hợp công nghiệp - đô thị - dịch vụ Phước Đông Bời Lời.
Thu thập báo cáo về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội, cùng với số liệu và tài liệu liên quan đến hiện trạng sử dụng đất và các quyết định thu hồi đất của tỉnh đối với xã Bàu Đồn Nghiên cứu tình hình biến động đất đai qua các năm tại các phòng ban của xã để có được thông tin đầy đủ về vùng nghiên cứu.
Thu thập các văn bản từ cơ quan Nhà nước trung ương và địa phương liên quan đến chính sách thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ cho người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi Đồng thời, cần tìm hiểu chính sách giải quyết việc làm cho những người có đất nông nghiệp bị ảnh hưởng bởi quyết định thu hồi từ các cơ quan Nhà nước.
Thu thập thông tin từ các nghiên cứu đã công bố, báo cáo, bài viết, tài liệu hội thảo và Internet để nắm bắt số liệu về tình hình thu hồi đất, việc làm và sinh kế của người dân.
Thông tin sơ cấp được thu thập qua khảo sát nhằm tìm hiểu sự thay đổi sinh kế của người dân Dựa trên nội dung nghiên cứu, bảng hỏi điều tra được thiết kế để nắm bắt tình hình thực tế Tiến hành phân tích sinh kế của người dân và so sánh kết quả trước và sau khi bị thu hồi đất.
Bài điều tra này tập trung vào việc thu thập thông tin chung về hộ gia đình, bao gồm tên chủ hộ, địa chỉ, số nhân khẩu, lao động, diện tích đất đai, cũng như vốn và tài sản của hộ Nội dung còn đề cập đến nguồn thu từ sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, bên cạnh thu nhập từ các ngành nghề và dịch vụ khác Bên cạnh đó, các khoản chi tiêu cho sản xuất nông nghiệp, đời sống, giáo dục, văn hóa, xã hội và chữa bệnh cũng được ghi nhận Cuối cùng, điều tra sẽ khảo sát cảm nhận của hộ về sự thay đổi cơ sở hạ tầng và sinh kế khi có khu công nghiệp, cùng với việc sử dụng khoản tiền đền bù và mối quan hệ của hộ với các đoàn thể.
Phương pháp điều tra được thực hiện thông qua phỏng vấn trực tiếp các hộ gia đình, dựa trên phiếu điều tra đã được chuẩn bị sẵn Các câu hỏi tập trung vào các vấn đề kinh tế của hộ, sinh kế và sự thay đổi sinh kế của người dân trong khu vực.
Chọn mẫu nghiên cứu
Chọn 150 hộ dân dưa trên tiêu chí phân tổ là diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi Theo tiêu chí này có 3 nhóm hộ sau:
+ Nhóm 1: Nhóm hộ bị mất nhiều đất: là hộ có diện tích đất bị thu hồi lớn trên 70% tổng diện tích đất canh tác được giao
+ Nhóm 2: Nhóm hộ bị mất ít đất: là hộ có diện tích đất bị thu hồi dưới 70% tổng diện tích đất canh tác được giao
+ Nhóm 3: Nhóm hộ không bị mất đất: là hộ không có diện tích đất đuợc giao nằm trong khu đất bị thu hồi để xây dựng khu công nghiệp
Số mẫu cụ thể cho mỗi nhóm được chia theo tỷ lệ hộ mất đất so với tổng số hộ trong ấp 4 và ấp 5
1 Tổng số hộ trong thôn 200 100 150
2 Số hộ mất trên 70% DT 110 55 82
3 Số hộ mất dưới 70% DT 50 25 38
4 Số hộ không bị mất đất 40 20 30
Chọn 3 nhóm hộ trên để xem xét bối cảnh dễ gây tổn thương đối với hộ, tình trạng và sự dịch chuyển các nguồn lực sinh kế của hộ, sự thay đổi chiến lược và mô hình sinh kế của hộ, kết quả sinh kế của từng nhóm hộ, những khó khăn về sinh kế của hộ nông dân sau khi bị thu hồi đất
Phương pháp chọn mẫu phân tầng theo tỷ lệ được áp dụng bằng cách lập danh sách toàn bộ hộ gia đình nông thôn, sau đó chia thành ba nhóm: nhóm mất trên 70% diện tích đất, dưới 70% diện tích đất và không mất đất Từ mỗi nhóm, phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên được sử dụng, cụ thể là sử dụng Excel để rút số ngẫu nhiên, nhằm lựa chọn các hộ gia đình để tiến hành điều tra.
Phương pháp phân tích số liệu
Sau khi thu thập dữ liệu từ các hộ, chúng tôi đã sử dụng chương trình Microsoft Excel để xử lý thông tin Các phương pháp phân tích dữ liệu được áp dụng nhằm đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong việc xử lý số liệu.
3.4.1 Phương pháp thống kê mô tả Được sử dụng để mô tả lại thực trạng sinh kế và thay đổi sinh kế của người dân trong xã, cũng như các hoạt động trong đời sống kinh tế của người dân trong xã thông qua thu thập tài liệu, thông qua điều tra chọn mẫu Các số liệu thống kê mô tả sự biến động cũng như xu hướng phát triển về thu nhập, chi tiêu, chi phí, cũng như mọi hoạt động của người dân
Các công cụ của phương pháp: Số trung bình, phần trăm, hay số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân
3.4.2 Phương pháp so sánh Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất nhằm thấy rõ được sự khác biệt về đời sống và sinh kế của hộ dân giữa các thời điểm hoặc giữa các nhóm hộ dân Có nhiều phương pháp so sánh: so sánh trước - sau, theo thời gian, theo không gian, so sánh giữa các mục tiêu nghiên cứu
Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh nhằm xác định sự thay đổi về:
+ Đời sống của nông hộ trước và sau khi bị thu hồi đất
+ Lao động làm nông nghiệp trước và sau khi bị thu hồi đất
Môi trường sống và văn hóa của cộng đồng thường thay đổi đáng kể trước và sau khi bị thu hồi đất, ảnh hưởng đến phong tục tập quán của người dân Sự chuyển đổi này không chỉ tác động đến đời sống xã hội mà còn làm thay đổi cơ cấu lao động, với nhiều người phải chuyển đổi ngành nghề để thích ứng với tình hình mới Những thay đổi này cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo sự phát triển bền vững cho cộng đồng.
+ Thu nhập trước và sau khi có khu công nghiệp.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tình hình thu hồi đất ở xã Bàu Đồn
Bàu Đồn là một xã đồng bằng nằm ở phía Đông Bắc huyện Gò Dầu, cách trung tâm thị trấn Gò Dầu khoảng 13km
+ Phía Đông giáp xã Đôn Thuận huyện Trảng Bàng
+ Phía Tây giáp xã Hiệp Thạnh, và xã Phước Thạnh
+ Phía Nam giáp xã Phước Thạnh và xã Phước Đông
+ Phía Bắc giáp huyện Dương Minh Châu
Diện tích tự nhiên: 3.583,63 ha, chiếm 10% diện tích tự nhiên của Huyện
Xã có tổng dân số 16.162 người với 3.982 hộ, mật độ dân số đạt 495 người/km² Dân cư trong xã được phân bố thành 7 ấp, chủ yếu tập trung dọc theo trục lộ 782-784 Ngoài ra, các tuyến đường trục xã như đường Mang Chà và đường Bàu Đồn-Phước Thạnh cũng góp phần vào sự phát triển của khu vực.
Xã có nguồn lao động dồi dào với tổng số lao động trong độ tuổi đạt 9.946 người, chiếm 63,46% dân số toàn xã Trong đó, tỷ lệ lao động có việc làm ổn định và thường xuyên là 70,55% tổng số lao động.
Trong tổng số lao động, lĩnh vực nông lâm nghiệp có 5.429 người, chiếm 54,58% Phần còn lại, 45,42%, là lao động trong các lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại, công chức, viên chức nhà nước, và các doanh nghiệp, xí nghiệp tại địa phương và vùng lân cận.
Xã Bàu Đồn hiện có 54,58% dân số làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, với đa số là lao động phổ thông chưa qua đào tạo nghề Để phát huy hiệu quả các nguồn lực trong quy hoạch và phát triển xã, cần chú trọng vào việc đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho lực lượng lao động này, khuyến khích sự cần cù, sáng tạo trong lao động và sản xuất, cũng như tạo điều kiện cho họ học tập nâng cao kiến thức.
Xã Bàu Đồn có vị trí địa lý thuận lợi, nằm tại ngã ba quan trọng giữa các tỉnh lộ, tạo điều kiện cho giao lưu, trao đổi hàng hóa và thu hút đầu tư Khu liên hợp Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ Phước Đông - Bời Lời rộng 2.851,0 ha, trong đó xã Bàu Đồn có 99,37 ha khu công nghiệp, với gần 200 hộ dân bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất nông nghiệp Sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp và dịch vụ tại đây hứa hẹn sẽ thúc đẩy kinh tế địa phương.
Theo quyết định số 2026/QĐ-UBND ngày 30/09/2009 của Uỷ ban nhân dân tỉnh
Khu liên hợp Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ Phước Đông - Bời Lời tại Tây Ninh được quy hoạch trên tổng diện tích 2.851,0ha, bao gồm 5 xã thuộc 2 huyện: Trảng Bàng và Gò Dầu Diện tích dành cho phát triển khu công nghiệp là 2.190ha, với vị trí giao thông thuận lợi cả đường thủy lẫn đường bộ.
Khu liên hợp Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ Phước Đông - Bời Lời là một khu công nghiệp đa ngành, chuyên sản xuất trong các lĩnh vực cơ khí, điện tử và hàng tiêu dùng.
- xuất khẩu và một số ngành công nghiệp khác
Khu liên hợp Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ Phước Đông - Bời Lời tại xã Bàu Đồn có tổng diện tích 99,37ha, trong đó 55,51ha là đất nông nghiệp Việc thu hồi đất sản xuất đã ảnh hưởng đến gần 200 hộ nông dân, gây tác động đáng kể đến sinh kế của họ.
* Tình hình thu hồi đất
Năm 2009, xã Bàu Đồn đã chuyển nhượng gần 99,37 ha đất, trong đó có 55,51 ha đất nông nghiệp, nhằm phục vụ cho việc xây dựng khu liên hợp Công nghiệp - Đô thị - Dịch vụ.
Phước Đông - Bời Lời Xã có 7 ấp nhưng chủ yếu diện tích đất sản xuất nông nghiệp của ấp 4 và ấp 5 là nằm trong quy hoạch của KCN.
Bảng 4.1: Tình hình thu hồi đất của xã
Chỉ tiêu ĐVT Số lượng
1 Tổng diện tích đất bị thu hồi m 2 993.668,5
2 Tổng số hộ bị thu hồi đất hộ 200
3 BQ diện tích đất bị thu hồi/hộ m 2 /hộ 4.968,443
- DT đất của hộ bị thu hồi nhiều nhất m 2 40.312,5
- DT đất của hộ bị thu hồi ít nhất m 2 50,90
Nguồn: Ban thống kê xã
Năm 2009, toàn xã có 200 hộ dân bị thu hồi đất, chiếm 7.26% tổng số hộ, với tổng diện tích đất bị thu hồi lên tới 993.668,5 m² (gần 99,37 ha), chủ yếu là đất nông nghiệp Việc thu hồi này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân trong khu vực.
Trước khi thu hồi đất, các cơ quan có thẩm quyền đã tổ chức họp với người dân để thông báo về các chủ trương và kế hoạch của nhà nước, tỉnh, huyện Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thu hồi đất và đảm bảo việc giải quyết đền bù cho người dân.
Số tiền đền bù hỗ trợ cho các hộ dân bị thu hồi đất dao động từ 43.165.800 đồng đến 2.622.437.600 đồng, với số tiền cao nhất có thể giúp nhiều gia đình đầu tư để tăng thu nhập Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu số tiền này có đủ để đảm bảo ổn định cuộc sống cho những hộ dân không còn đất sản xuất nông nghiệp hay không.
Bảng 4.2: Tình hình bồi thường sau thu hồi đất của xã Bàu Đồn
Chỉ tiêu Số lượng Giá trị (VNĐ) Đền bù đất 993.688,5 m 2 160.881.382.441 Đền bù hoa màu, tài sản trên đất
Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp 355 lao động 532.500.000
Hỗ trợ di chuyển chỗ ở 6 hộ 18.000.000
Hỗ trợ thuê nhà 6 hộ 10.800.000
Hỗ trợ tái định cư 3 hộ 27.600.000
Hỗ trợ ổn định đời sống khi không phải di chuyển chỗ ở 603 nhân khẩu 542.700.000
Hỗ trợ ổn định đời sống khi phải di chuyển chỗ ở 13 nhân khẩu 23.400.000
Nguồn: Ban thống kê xã.
Sự thay đổi nguồn lực của hộ dân sau thu hồi đất sản xuất nông nghiệp để xây dựng KCN
4.2.1 Sự thay đổi nguồn lực tự nhiên
Nguồn lực đất đai là tài sản quan trọng của các hộ nông dân, đóng vai trò quyết định trong việc sinh kế và tạo ra việc làm cho cộng đồng Đất đai không chỉ cung cấp thực phẩm thiết yếu mà còn được phân tích từ nhiều khía cạnh như quy mô, sự biến động của từng loại đất và nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp.
* Về quy mô đất đai của hộ
Bàu Đồn, giống như nhiều xã khác, vẫn phụ thuộc lớn vào sản xuất nông nghiệp như nguồn sinh kế chính cho nhiều hộ nông dân Theo khảo sát, 60% số hộ cho biết họ thiếu đất sản xuất, trong đó nhóm hộ I, những hộ mất nhiều đất, có đến 73,18% cho rằng họ không đủ đất Ngược lại, 26,82% số hộ cho rằng diện tích đất còn lại đủ cho sản xuất, chủ yếu là những hộ có sức khỏe yếu hoặc đã có công việc khác Tổng cộng, trong 150 hộ được khảo sát, có 34,67% (52 hộ) cho rằng diện tích đất nông nghiệp hiện tại là đủ, đặc biệt nhóm III, không bị mất đất, có 20/30 hộ đồng tình.
* Nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp của hộ nông dân
Bảng 4.3: Kết quả điều tra về nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp năm 2014
Chỉ tiêu Nhóm I Nhóm II Nhóm III Tổng
(%) Tổng số hộ điều tra 82 100 38 100 30 100 150 100
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra
Theo khảo sát, 5,33% hộ gia đình cho rằng họ có đất sản xuất thừa, trong đó có 3 hộ thuộc nhóm II (nhóm mất ít đất sản xuất) Những hộ này thường cho người thân canh tác hoặc cho thuê đất, vì họ có công việc với thu nhập cao hơn từ nông nghiệp Do đó, họ ít đầu tư vào diện tích đất còn lại, thậm chí có thể không làm nông nghiệp.
Hộp 4.1: Cần thêm đất để sản xuất
Gia đình tôi cần thêm đất để sản xuất nông nghiệp, vì hiện tại chỉ đủ lúa để ăn, không có lúa để nuôi heo Trước đây, chúng tôi có 5.000m² đất ruộng, mỗi năm nuôi được 5-6 con heo thịt chỉ cần mua thêm ít lúa Tuy nhiên, sau khi bị thu hồi đất, diện tích ruộng của gia đình tôi chỉ còn khoảng 1.500m², chỉ đủ điều kiện để nuôi một con heo.
Vợ ông Hải, 42 tuổi, ấp 5
Nguồn: Phỏng vấn trực tiếp của tác giả
Sau khi thu hồi đất sản xuất nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp, nguồn lực đất đai đã có sự dịch chuyển lớn Mặc dù diện tích đất nông nghiệp của hộ gia đình bị thu hẹp, nhưng việc sử dụng đất vẫn còn nhiều lãng phí, khi hộ không tận dụng diện tích còn lại để thâm canh và tăng vụ, mà vẫn giữ nguyên diện tích trồng 2 vụ lúa.
Mô hình sinh kế cho thuê nhà hiện đang có điều kiện phát triển, hứa hẹn sẽ trở thành nguồn sinh kế ổn định cho những người dân mất đất trong tương lai Việc mất đất đã dẫn đến sự giảm sút trong sản xuất và nguồn lương thực, khiến nhiều hộ gia đình phải thu hẹp quy mô chăn nuôi.
4.2.2 Sự thay đổi nguồn lực con người a Chủ hộ của các hộ điều tra
Chủ hộ đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định các vấn đề kinh tế và đời sống của gia đình Nghiên cứu về chủ hộ, bao gồm giới tính, tuổi tác và trình độ học vấn, giúp hiểu rõ hơn về khả năng ra quyết định của họ trong các tình huống khác nhau.
Theo bảng 4.4, nam giới chiếm 81,33% trong tổng số chủ hộ, gấp gần 3 lần so với nữ giới (18,67%) Tuổi bình quân của chủ hộ là 50,2 tuổi, trong đó nhóm I có tuổi bình quân cao nhất là 54 tuổi, nhóm II là 53 tuổi, và nhóm hộ không bị mất đất có tuổi bình quân 43,5 tuổi Việc nhóm chủ hộ có độ tuổi cao lại bị mất đất sẽ gây khó khăn cho họ trong việc kiếm sống lâu dài.
Bảng 4.4: Chủ hộ của các hộ điều tra năm 2014
Chỉ tiêu ĐVT Nhóm I Nhóm II Nhóm III Tổng cộng
CC (%) Tổng số hộ điều tra hộ 82 100 38 100 30 100 150 100
- Chủ hộ là nam người 64 78,05 32 84,21 26 86,67 122 81,33
- Chủ hộ là nữ người 18 21,95 6 15,79 4 13,33 28 18,67
2 Tuổi BQ của chủ hộ tuổi 54 - 53 - 43,5 - 50,2
3 Trình độ học vấn của chủ hộ
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra
Trình độ học vấn của các chủ hộ thường không cao, đặc biệt là ở những người lớn tuổi, khi mà phần lớn chỉ học hết cấp 2 hoặc thậm chí là cấp 1, và rất ít người hoàn thành chương trình cấp 3.
Trong số các hộ gia đình, chỉ có 9 người hoàn thành cấp 3, trong khi 25 người chỉ mới học xong cấp 1 Không có hộ nào có chủ hộ đạt trình độ đại học hoặc cao đẳng, và chỉ 3 chủ hộ có trình độ trung cấp, chiếm 2% tổng số.
Tỷ lệ lao động có trình độ cao hiện vẫn còn thấp, tạo ra rào cản trong việc thu hút nhân lực chất lượng vào doanh nghiệp và cơ sở tuyển dụng Trình độ học vấn hạn chế không chỉ khiến họ khó tìm việc phù hợp mà còn gặp khó khăn trong việc thích nghi với môi trường làm việc mới, dẫn đến nguy cơ thất nghiệp cao.
Chủ hộ đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định các chiến lược sinh kế của gia đình Điều tra cho thấy tuổi tác của chủ hộ thường cao, trong khi trình độ học vấn còn hạn chế Họ lo lắng về việc đảm bảo cuộc sống khi đất đai bị thu hồi để xây dựng khu công nghiệp, và việc chuyển đổi nghề nghiệp đối với các hộ này gặp nhiều khó khăn.
Nhân khẩu và lao động đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nguồn nhân lực của hộ gia đình Việc xem xét các yếu tố này giúp hiểu rõ hơn về khả năng lao động và tiềm năng phát triển của hộ.
Theo số liệu khảo sát, tổng số nhân khẩu trong 150 hộ điều tra là 554 người, trong đó có 301 nữ Mỗi hộ trung bình có 3,69 nhân khẩu, với nhóm 3 (nhóm có độ tuổi bình quân của chủ hộ thấp nhất) có 4,1 nhân khẩu/hộ, cao hơn so với hai nhóm còn lại, đặc biệt là nhóm I Bình quân mỗi hộ có 2,14 lao động, trong đó nhóm II có số lao động/hộ thấp nhất với 2 lao động/hộ và hệ số nhân khẩu/lao động cao nhất Số lao động ngoài độ tuổi cũng rất ít, chỉ có 24 lao động ngoài độ tuổi trong tổng số 150 hộ điều tra.
Bảng 4.5: Tình hình nhân khẩu và lao động của các hộ điều tra
Số hộ điều tra hộ 82 38 30 150
1 Tổng số nhân khẩu người 284 147 123 554
2 Lao động trong độ tuổi người 161 76 60 297
3 Lao động ngoài độ tuổi người 16 0 8 24
7 Trình độ của lao động
- Trung cấp, Cao đẳng người 10 10 6 26
8 Thông tin về nhân khẩu, lao động
- Khẩu nữ/hộ khẩu/hộ 1,96 2 2,2 2,02
- Lao động/hộ LĐ/hộ 1,61 2 2,26 2,14
- LĐ nữ/hộ LĐ/hộ 1,15 0,93 1,16 1,1
- Hệ số NK/LĐ khẩu/LĐ 1,61 1,93 1,81 1,73
Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra hộ
Biểu đồ 4.1: Cơ cấu lao động theo độ tuổi của các nhóm hộ
Trong nhóm I, có 76 lao động trong độ tuổi 46 – 60 (nam) và 46 – 55 (nữ), chiếm gần một nửa tổng số lao động, trong khi chỉ có 6 người ở độ tuổi 16 – 25 Nhóm II ghi nhận 40% lao động ở độ tuổi 45 đến 60 (nam) và 55 (nữ), cùng với 30,67% ở độ tuổi 36 – 45, chỉ có 3 lao động ở độ tuổi 16 – 25 Nhóm III là nhóm lao động trẻ nhất, với 46,67% lao động trong độ tuổi 36 đến 45 và chỉ 31,67% ở độ tuổi 46 – 60.
Chiến lược và mô hình sinh kế của hộ
4.3.1 Các mô hình sinh kế của hộ nông dân
Sau khi bị thu hồi đất, nhiều lao động đã chuyển đổi nghề nghiệp, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều mô hình sinh kế khác nhau, đặc biệt ở nhóm hộ I (nhóm hộ mất trên 70% đất nông nghiệp) Trong nhóm hộ I, khoảng 50% số hộ vẫn duy trì hoạt động trồng trọt, trong khi chỉ có 34% hộ tham gia chăn nuôi và 55% hộ làm thuê Việc chăn nuôi giảm sút là do nhiều hộ đã ngừng hoạt động này vì không còn đất trồng lúa để cung cấp thức ăn cho gia súc, gia cầm Ngược lại, ở nhóm hộ II, 88% số hộ vẫn tiếp tục trồng trọt, 65% có hoạt động chăn nuôi, và 73% hộ tham gia làm thuê, bên cạnh đó còn có các hoạt động buôn bán và làm việc tại cơ quan nhà nước.
Hoạt động chăn nuôi chủ yếu ở nhóm I và II tập trung vào gia cầm phục vụ nhu cầu sinh hoạt gia đình Nhóm III có số hộ chăn nuôi đông đảo nhất Tổng quan, mô hình kết hợp trồng trọt, chăn nuôi và làm thuê chiếm ưu thế trong cả ba nhóm.
Bảng 4.13: Các mô hình sinh kế của hộ điều tra năm 2014
Nhóm I Nhóm II Nhóm III Tổng
(%) Trồng trọt - làm thuê 3 11,54 1 6,67 2 10,53 6 10,00 Buôn bán - làm CQ nhà nước 1 3,85 - - - - 1 1,67
Làm thuê - Làm CQ nhà nước 2 7,69 - - - - 2 3,33
Buôn bán - nhà trọ - làm CQ nhà nước 1 3,85 - - - - 1 1,67
Trồng trọt - chăn nuôi - làm thuê 9 34,62 7 46,67 6 31,58 22 36,67
Trồng trọt - chăn nuôi - làm nhà nước - - 2 13,33 4 21,05 6 10,00
Trồng trọt - buôn bán - làm thuê - - 2 13,33 - - 2 3,33
Trồng trọt - chăn nuôi - làm ở
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra
Sau khi thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp tại xã, nhiều mô hình sinh kế mới đã xuất hiện, đặc biệt trong nhóm hộ bị thu hồi đất Một số hộ gia đình không tìm kiếm sinh kế mới mà quyết định đầu tư sâu hơn vào sinh kế truyền thống của mình, chẳng hạn như mở rộng hoạt động kinh doanh buôn bán.
Mặc dù mất đi tài sản sinh kế lớn là đất đai sau thu hồi, nhiều hộ gia đình đã thích nghi và phát triển sinh kế mới Một số hộ tận dụng vị trí gần KCN để buôn bán, cho thuê nhà trọ và phát triển các dịch vụ, tạo ra sinh kế bền vững cho hiện tại và tương lai khi KCN Phước Đông – Bời Lời đi vào hoạt động Làm việc tại cơ quan HCSN hoặc KCN Phước Đông – Bời Lời được xem là lựa chọn sinh kế bền vững, trong khi công việc làm thuê không đảm bảo sự ổn định lâu dài, đặc biệt khi nhiều lao động đã lớn tuổi và gặp khó khăn trong việc duy trì sức khỏe.
Bảng 4.14: Các loại sinh kế trước và sau thu hồi đất Sinh kế trước thu hồi đất Sinh kế sau thu hồi đất
Tên sinh kế % số hộ
% thu nhập Tên sinh kế % số hộ
4 Dịch vụ (cho thuê nhà trọ, xe ôm…) 11,67 2,1 4 Dịch vụ (cho thuê nhà trọ, xe ôm…) 11,67 2,5
6 Làm ở KCN Phước Đông – Bời Lời 0 6 Làm ở KCN Phước Đông – Bời Lời 3,33
7 Làm cho DN ở địa phương khác 8,33 7 Làm cho DN ở địa phương khác 10
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra
Bảng 4.15: Phân loại sinh kế
Sinh kế trước mắt Sinh kế lâu dài
- Làm ở doanh nghiệp địa phương khác
4.3.2 Hoạt động sản xuất nông nghiệp
Hoạt động trồng trọt chủ yếu của người dân là trồng lúa, tập trung vào hai vụ chính là vụ đông xuân và vụ hè thu Do việc thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp, nhiều hộ gia đình chỉ còn ít đất canh tác và lẽ ra có thể tận dụng để trồng thêm vụ 3 Tuy nhiên, do đã tìm được công việc bên ngoài với thu nhập cao hơn, họ không còn đầu tư nhiều vào sản xuất nông nghiệp Diện tích gieo trồng trung bình của hộ nhóm I chỉ còn 1.266,6 m², trong khi nhóm II là 4.628,64 m².
Bảng 4.16: Diện tích cây trồng của hộ điều tra năm 2014
Nhóm I Nhóm II Nhóm III
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra
Thu hồi đất làm cho quy mô hoạt động trồng trọt bị thu hẹp và theo đó quy mô chăn nuôi cũng giảm theo
Hộp 4.3: Không có điều kiện để nuôi nhiều nữa
Trước khi bị thu hồi đất, gia đình tôi nuôi gần chục con heo thịt, nhưng hiện tại chỉ còn một con heo nái do diện tích đất nông nghiệp hạn chế Nguyên nhân là do không còn nhiều ruộng để sản xuất và sức khỏe của tôi ngày càng yếu đi.
Nguồn: Phỏng vấn trực tiếp của tác giả
Chăn nuôi tại địa phương chủ yếu tập trung vào heo thịt và heo nái, nhưng quy mô đã giảm đáng kể sau khi thu hồi đất Cụ thể, nhóm hộ I giảm từ 6 hộ nuôi heo nái và 7 hộ nuôi heo thịt xuống còn 0 hộ nuôi heo nái và 2 hộ nuôi heo thịt Nhóm hộ II cũng chứng kiến sự giảm mạnh từ 4 hộ nuôi heo thịt xuống còn 0 Ngược lại, nhóm III có số hộ chăn nuôi tương đối ổn định do không bị ảnh hưởng nhiều từ thu hồi đất, với một số hộ chuyển từ nuôi heo thịt sang nuôi heo nái Hộ ông Đặng Văn Rức là hộ nuôi heo thịt nhiều nhất trước thu hồi với 16 con, nhưng sau đó chỉ còn 10 con/năm Hộ nuôi heo nái nhiều nhất chỉ có 5 con Mặc dù chăn nuôi gia cầm chiếm tỷ lệ cao, nhưng chủ yếu phục vụ cho nhu cầu gia đình Sau thu hồi đất, nhiều hộ ở nhóm I đã ngừng nuôi gia cầm, một phần do ảnh hưởng của dịch bệnh.
Bảng 4.17: Hoạt động chăn nuôi của hộ điều tra
Nhóm I Nhóm II Nhóm III Nhóm I Nhóm II Nhóm III
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra 4.3.3 Hoạt động thương mại dịch vụ
Hoạt động dịch vụ của hộ gia đình chủ yếu tập trung vào các hình thức buôn bán nhỏ Hiện nay, cho thuê nhà đang phát triển mạnh mẽ, trong khi hoạt động xe ôm ngày càng giảm sút.
Mặc dù các hoạt động dịch vụ như buôn bán và cho thuê nhà không phải là hình thức canh tác truyền thống, nhưng chúng đóng góp đáng kể vào thu nhập của các hộ dân, đặc biệt là những hộ mất đất canh tác Khi nguồn thu từ nông nghiệp không còn, dịch vụ cho thuê nhà trở thành một nguồn thu quan trọng, giúp đảm bảo sinh kế bền vững cho cả hộ dân mất đất và những hộ vẫn còn đất Trong tương lai, khi toàn bộ khu công nghiệp đi vào hoạt động, nghề cho thuê nhà trọ sẽ phát triển mạnh mẽ, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người lao động.
Sau khi bị thu hồi đất, nhiều lao động đã chuyển từ nông nghiệp sang làm thuê, nhưng công việc này thường không ổn định và bấp bênh, khiến họ cảm thấy cuộc sống luôn tiềm ẩn rủi ro Điều này tạo ra rào cản lớn đối với việc đồng ý thu hồi đất nông nghiệp, vì người dân mong muốn có sự đảm bảo trong cuộc sống Họ hy vọng có thể làm việc tại các nhà máy trong khu công nghiệp, nhưng hầu hết chủ hộ đều cao tuổi, trình độ học vấn thấp và không đủ sức khỏe để làm việc trong môi trường công nghiệp Do đó, họ phải đầu tư vào giáo dục cho con cái với hy vọng chúng sẽ đủ điều kiện xin việc tại các nhà máy.
Kết quả sinh kế
Kết quả sinh kế của người dân phản ánh những thành tựu đạt được sau khi sử dụng nguồn vốn và thực hiện các hoạt động sinh kế Con người vận dụng các nguồn vốn trong bối cảnh khách quan để tạo ra thu nhập cho bản thân và gia đình Mức thu nhập chính là chỉ số quan trọng nhất để đánh giá kết quả sinh kế của họ.
Mức thu nhập hộ gia đình gắn liền với việc sử dụng nguồn vốn và thực hiện các hoạt động sinh kế Hiện nay, chưa có nhiều nghiên cứu chính xác về thu nhập của từng hộ dân, do đặc thù nguồn thu nhập trong nông nghiệp thường không ổn định Ngoài ra, thu nhập của người dân còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tự nhiên và xã hội, đặc biệt là biến động giá cả thị trường.
Theo bảng số liệu, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của nhóm hộ III cao hơn nhiều so với nhóm hộ I và II Cụ thể, thu từ trồng trọt bình quân của nhóm hộ I chỉ đạt khoảng 12.552.000 đồng/năm, trong khi chăn nuôi mặc dù giảm vẫn chiếm 26,73% thu nhập Sau khi bị thu hồi đất, nhiều lao động nông nghiệp đã chuyển sang làm thuê Nhóm hộ II có thu từ sản xuất nông nghiệp bình quân 24.834.000 đồng, trong đó 82,04% là từ trồng trọt Đối với nhóm hộ III, ngoài thu nhập từ nông nghiệp, họ còn có thêm nguồn thu từ thủy sản nhờ việc chuyển đổi đất canh tác thành ao nuôi cá, với tổng thu bình quân đạt 42.305.000 đồng/hộ.
Bảng 4.18: Thu nhập từ hoạt động SX nông nghiệp của hộ điều tra năm 2014
Nhóm I Nhóm II Nhóm III
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra.
Dịch vụ cho thuê phòng trọ đang trở thành nguồn thu nhập quan trọng cho nhiều hộ gia đình, đặc biệt là những hộ có vị trí nhà ở thuận lợi Trong số các hộ điều tra, có 15 hộ gia đình đã mở nhà trọ cho thuê, với số lượng phòng từ 4 đến 6 phòng mỗi hộ, mang lại thu nhập khoảng 650.000 đồng mỗi tháng cho mỗi phòng.
Bảng 4.19: Thu nhập từ hoạt động TMDV bình quân 1 hộ điều tra năm 2014
Nhóm I Nhóm II Nhóm III
- Hàng quán (mở quán nước, ) 0,63 8,27 0 - 0 -
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra
Trong cơ cấu thu từ thương mại dịch vụ, nguồn thu từ cho thuê nhà trọ chiếm tỷ lệ cao nhất, với 46,28% ở nhóm I và 51,44% ở nhóm II Tiếp theo là nguồn thu từ buôn bán, với 45,45% ở nhóm I và 48,56% ở nhóm II Cho thuê nhà trọ không chỉ tạo ra nguồn thu lớn mà còn đảm bảo tính ổn định cho sinh kế.
Bảng 4.20: Thu nhập từ tiền công bình quân 1 hộ điều tra năm 2014
Nhóm I Nhóm II Nhóm III So sánh (lần)
SL CC SL CC SL CC
I/III II/III (tr.đ) (%) (tr.đ) (%) (tr.đ) (%)
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra
Sau khi đất đai bị thu hồi để xây dựng khu công nghiệp, nhiều lao động thuộc nhóm I và II đã chuyển sang làm thuê Do đó, thu nhập từ công việc làm thuê hiện chiếm hơn 50% trong tổng thu nhập của hộ gia đình Bình quân, thu nhập từ làm thuê của mỗi hộ trong nhóm này đang tăng lên.
Nhóm I có thu nhập bình quân 41,48 triệu đồng/hộ/năm, cao gấp 2,58 lần nhóm III, trong khi nhóm II đạt 41,44 triệu đồng/hộ/năm, cũng gấp 2,58 lần nhóm III Lương nhà nước đóng góp từ 20 đến 40% vào cơ cấu tiền công của các nhóm hộ Sau khi bị thu hồi đất, cơ cấu tiền công của nhóm I giảm xuống còn 2,28 lần nhóm III, trong khi nhóm II còn 1,89 lần nhóm III.
Thu nhập từ các công việc làm thuê vẫn chưa ổn định, phụ thuộc vào khối lượng công việc và mùa vụ Dù vậy, nó vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sinh kế cho các hộ gia đình mất đất.
Khi được hỏi về sự thay đổi thu nhập sau thu hồi đất, nhiều hộ cho biết thu nhập từ sản xuất nông nghiệp giảm, trong khi thu nhập từ ngành nghề ngoài nông nghiệp lại tăng Cụ thể, có 28 hộ nhóm I, 15 hộ nhóm II và 17 hộ nhóm III có thu nhập tăng, chiếm 40% tổng số hộ điều tra Sự gia tăng này có thể do tác động của các khu công nghiệp hoặc do đời sống của người dân ngày càng cải thiện theo thời gian Tuy nhiên, cũng có 19 hộ nhóm I và 13 hộ nhóm II có thu nhập giảm, chủ yếu là những hộ có lao động ở độ tuổi cao, không còn khả năng làm việc ngoài nữa.
Bảng 4.21: Đánh giá của hộ về thay đổi thu nhập và khả năng kiếm sống sau khi thu hồi đất
Nhóm I Nhóm II Nhóm III Tổng
SL CC SL CC SL CC SL CC
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra
Theo khảo sát, 53,66% hộ nhóm I và 60,53% hộ nhóm II cho rằng việc kiếm sống sau khi bị thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp (KCN) trở nên khó khăn hơn Nhiều gia đình gặp khó khăn trong việc duy trì thu nhập, trong khi ngay cả những hộ có thu nhập tăng cũng cảm thấy khả năng kiếm sống không thay đổi hoặc khó khăn hơn Đây mới chỉ là những năm đầu sau khi thu hồi đất, và khi KCN đi vào hoạt động, hy vọng rằng người dân sẽ có nhiều cơ hội sinh kế hơn, từ đó cải thiện khả năng kiếm sống.
Bảng 4.22: Một số khoản chi bình quân 1 hộ trong năm 2014 ĐVT: triệu đồng
Chỉ tiêu Nhóm I Nhóm II Nhóm III
Chi hiếu hỉ 3,7 2,38 1,76 Điện 2,24 1,57 1,01 Điện thoại 1,8 1,52 1,09
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra
Các hộ dân tại đây đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục, với nhóm I có mức chi bình quân lên đến 26,59 triệu đồng mỗi hộ, đặc biệt những gia đình có con học đại học chi từ 25 đến 40 triệu đồng mỗi năm Chi cho hiếu hỉ cũng chiếm tỷ lệ đáng kể trong thu nhập, với nhiều hộ chi từ 1 đến 5 triệu đồng mỗi năm Ngoài ra, các khoản chi cho điện, điện thoại và chăm sóc sức khỏe cũng không nhỏ Bên cạnh đó, chi phí cho mua sắm đồ dùng gia đình, sửa chữa nhà cửa, quần áo và lương thực thực phẩm chiếm phần lớn trong ngân sách của nhiều hộ gia đình.
Như vậy ta thấy sau 5 năm bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp để xây dựng
KCN hộ nông dân xã Bàu Đồn đã thích nghi với cuộc sống mới, tìm kiếm sinh kế phù hợp với hoàn cảnh gia đình Nhiều hộ đã ổn định cuộc sống, tuy nhiên vẫn còn nhiều hộ gặp khó khăn, đặc biệt là những lao động lớn tuổi với trình độ thấp Chính quyền địa phương cần có những biện pháp hỗ trợ để giúp các hộ này ổn định cuộc sống hơn.
* Phát triển kinh tế tại xã bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa cần được thực hiện sớm để tránh tình trạng thu hồi đất tại địa phương Trong quá trình này, việc nâng cao thu nhập cho hộ dân cũng cần được chú trọng.
+ Có thể chuyển một phần diện tích cây lúa thành vườn và ao nuôi cá hoặc trang trại chăn nuôi lợn hoặc thành vùng trồng rau sạch
Thực hiện luân canh cây trồng là giải pháp hiệu quả để đáp ứng nhu cầu lương thực – thực phẩm ngày càng tăng tại khu vực KCN Phước Đông – Bời Lời khi đi vào hoạt động Mô hình trồng rau sẽ giúp cải thiện nguồn cung thực phẩm cho cộng đồng, đặc biệt khi mật độ dân số địa phương gia tăng.
+ Đẩy mạnh chăn nuôi lợn và nuôi trồng thuỷ sản
- Duy trì và phát triển các ngành nghề vốn có ở địa phương
Khôi phục và phát triển các ngành nghề nông thôn hiện nay là giải pháp hiệu quả nhằm tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động.