TỔNG QUAN
CHƯƠNG TRÌNH QUẢN LÝ KHÁNG SINH TẠI BỆNH VIỆN 3 1 Thực trạng đề kháng kháng sinh tại Việt Nam
1.1.1 Thực trạng đề kháng kháng sinh tại Việt Nam
Kháng sinh là một thành tựu y học quan trọng của thế kỷ 20, giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do nhiễm khuẩn Tuy nhiên, việc lạm dụng kháng sinh đã dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh nghiêm trọng, trở thành vấn đề toàn cầu Mặc dù các thế hệ kháng sinh mới đang được nghiên cứu, nhưng vẫn chưa có nhiều loại được thử nghiệm lâm sàng Nhiều kháng sinh hiện tại vẫn là các loại từ thế kỷ 20, trong khi sự gia tăng các chủng vi khuẩn đa kháng đang làm cho việc điều trị nhiễm khuẩn trở nên khó khăn hơn, đặt ra nguy cơ thiếu kháng sinh trong tương lai.
Tại Việt Nam, điều kiện khí hậu thuận lợi cùng với việc kiểm soát nhiễm khuẩn và quản lý sử dụng kháng sinh chưa hiệu quả đã dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh ngày càng trầm trọng Đặc biệt, vào năm 2008 - 2009, tỷ lệ kháng erythromycin của phế cầu Streptococcus pneumoniae, nguyên nhân phổ biến gây nhiễm khuẩn hô hấp cộng đồng, đã gia tăng đáng kể.
Kết quả nghiên cứu của Phạm Hùng Vân và nhóm MIDAS cho thấy 47,3% chủng Acinetobacter baumannii phân lập đã kháng meropenem và 51,1% kháng imipenem, trong khi chỉ có 7,5% nhạy cảm với meropenem Nghiên cứu tại bệnh viện Bạch Mai và Chợ Rẫy năm 2010 cho thấy mức độ đề kháng của A baumannii đối với ceftazidim lần lượt là 77,8% và 92% Đặc biệt, tại các đơn vị điều trị tích cực (ICU), tình trạng kháng kháng sinh của vi khuẩn đang trở nên nguy hiểm và phức tạp hơn bao giờ hết, với tỷ lệ kháng cefotaxim, cefoperazon, ceftriaxon lên tới 80% trở lên.
Trung tâm DI & ADR Qu ố c gia - Tài li ệ u đư ợ c chia s ẻ mi ễ n phí t ạ i website CANHGIACDUOC.ORG.VN
4 các kháng sinh nhƣ ciprofloxacin, cefepim, ceftazidim có tỉ lệ kháng cao trên 65%
Nghiên cứu dịch tễ gần đây tại Việt Nam chỉ ra rằng tỷ lệ vi khuẩn Gram âm kháng thuốc đang gia tăng nhanh chóng Báo cáo cập nhật về kháng kháng sinh của Đoàn Mai Phương, trình bày tại Hội nghị khoa học toàn quốc của Hội hồi sức cấp cứu và chống độc Việt Nam, đã nhấn mạnh vấn đề nghiêm trọng này.
Từ năm 2017, vi khuẩn Gram âm kháng thuốc đã xuất hiện trên toàn quốc, với E.coli, K pneumoniae, A baumannii và P.aeruginosa là các chủng chính được phân lập Trong số đó, A baumannii và P aeruginosa có tỷ lệ kháng thuốc cao nhất, có nơi đạt trên 90% Các vi khuẩn này cũng mang hầu hết các gen kháng thuốc, bao gồm các gen mã hóa sinh ESBL như TEM, SHV, CTX-M, OXA, PER và các gen mã hóa sinh carbapenemase như blaKPC, OXA, NDM-1, VIM, IMP.
Tỷ lệ kháng kháng sinh đang gia tăng đáng kể theo thời gian Tại thành phố Hồ Chí Minh, trong những năm 1990, chỉ có 8% các chủng phế cầu kháng penicillin, nhưng đến năm 1999 - 2000, con số này đã tăng lên 56% Xu hướng tương tự cũng được ghi nhận tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam.
Tình trạng kháng kháng sinh ngày càng gia tăng do nhiều nguyên nhân, trong đó việc chỉ định kháng sinh không hợp lý là một yếu tố quan trọng Nghiên cứu của Trương Anh Thư năm 2012 cho thấy 67,4% bệnh nhân nội trú được chỉ định điều trị bằng kháng sinh, và khoảng 1/3 trong số đó sử dụng kháng sinh một cách không hợp lý.
Quản lý việc sử dụng kháng sinh một cách hợp lý đang trở thành một vấn đề cấp bách, yêu cầu sự tham gia của các nhà quản lý ở cả các nước phát triển và đang phát triển.
1.1.2 Nội dung chương trình quản lý kháng sinh tại bệnh viện Để hạn chế đề kháng kháng sinh, việc áp dụng các biện pháp mang tính toàn diện và lâu dài nhằm đảm bảo sử dụng kháng sinh hợp lý tại bệnh viện là rất cần thiết Đóng vai trò quan trọng trong chiến lược này là Chương trình quản lý kháng sinh (AMS) tại bệnh viện
Trung tâm DI & ADR Qu ố c gia - Tài li ệ u đư ợ c chia s ẻ mi ễ n phí t ạ i website CANHGIACDUOC.ORG.VN
Chương trình quản lý kháng sinh tại bệnh viện không chỉ mang lại lợi ích tài chính mà còn nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân Để chương trình này đạt hiệu quả tối ưu, cần xem xét nhiều yếu tố quyết định Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn và hỗ trợ thực hiện các chương trình này.
(2014) đã khuyến cáo 7 yếu tố chính cần thiết để triển khai chương trình quản lý sử dụng kháng sinh bao gồm [54]:
1 - Lãnh đạo đơn vị điều trị hỗ trợ triển khai chương trình
2- Một bác sĩ chịu trách nhiệm giải trình
3- Một dƣợc sĩ phụ trách chuyên môn dƣợc
4- Thực hiện ít nhất 1 can thiệp nhƣ “thời gian xem xét đơn kê kháng sinh” để cải thiện kê đơn
5- Theo dõi đơn kê và kiểu đề kháng
6- Báo cáo thông tin kê đơn và tình hình đề kháng
7- Đào tạo cho các nhân viên y tế
Để đảm bảo thành công cho chương trình điều trị, mỗi cơ sở cần có đội ngũ bác sĩ và dược sĩ lâm sàng được đào tạo chuyên sâu về bệnh lý nhiễm khuẩn Sự đồng thuận và hỗ trợ từ Hội đồng thuốc và điều trị cùng Hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện là rất quan trọng Bên cạnh đó, việc xây dựng cơ chế phối hợp với lãnh đạo, nhân viên y tế và các đối tác liên quan cũng cần thiết để thực hiện hiệu quả các mục tiêu đề ra.
IDSA/SHEA và Bộ Y tế Việt Nam (QĐ 772/QĐ-BYT ngày 04/3/2016) đã đưa ra những khuyến cáo quan trọng về chương trình quản lý kháng sinh trong bệnh viện, bao gồm việc xây dựng các chính sách sử dụng kháng sinh hợp lý, theo dõi và đánh giá việc sử dụng kháng sinh, cũng như đào tạo nhân viên y tế về quản lý kháng sinh.
Xây dựng hướng dẫn sử dụng kháng sinh tại bệnh viện là rất quan trọng, bao gồm việc lập danh mục kháng sinh cần hội chẩn khi kê đơn và danh mục kháng sinh cần được duyệt trước khi sử dụng Đồng thời, cần có hướng dẫn điều trị cho một số bệnh nhiễm khuẩn thường gặp tại bệnh viện và xây dựng quy trình quy định kiểm soát nhiễm khuẩn hiệu quả.
- Thực hiện các biện pháp can thiệp dựa vào các hướng dẫn đã xây dựng để cải thiện việc sử dụng kháng sinh và hiệu quả điều trị
Trung tâm DI & ADR Qu ố c gia - Tài li ệ u đư ợ c chia s ẻ mi ễ n phí t ạ i website CANHGIACDUOC.ORG.VN
Tối ưu hóa liều dùng dựa trên các thông số dược động học là phương pháp hiệu quả nhằm điều chỉnh liều lượng hoặc hướng dẫn cách sử dụng thuốc phù hợp Điều này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả diệt khuẩn mà còn giảm thiểu nguy cơ kháng thuốc, đảm bảo an toàn và hiệu quả trong điều trị.
- Đánh giá sau can thiệp và phản hồi thông tin
1.1.3 Đánh giá sử dụng kháng sinh tại bệnh viện Đánh giá sử dụng kháng sinh là một trong hai chiến lược chính của chương trình quản lý kháng sinh bệnh viện Có nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá việc sử dụng kháng sinh nhưng nhìn chung có thể phân làm hai nhóm phương pháp: đánh giá định tính và đánh giá định lƣợng
TỔNG QUAN VỀ VIÊM PHỔI BỆNH VIỆN
Viêm phổi là một bệnh lý phổ biến liên quan đến nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới Từ góc độ giải phẫu học, viêm phổi được định nghĩa là tình trạng viêm nhiễm ở nhu mô phổi do vi sinh vật gây ra Đặc trưng của bệnh lý này là sự lắng đọng bạch cầu đa nhân trung tính tại các tiểu phế quản, phế nang và tổ chức kẽ.
Theo Hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kì/Hội Lồng ngực Hoa Kì (IDSA/ATS)
Năm 2016, VPBV và VPTM được phân loại là hai nhóm bệnh riêng biệt, trong đó viêm phổi liên quan chăm sóc y tế không được coi là VPBV Tuy nhiên, nhận định của IDSA/ATS vẫn còn mới mẻ, do đó trong đề tài này, VPTM vẫn được xem là một dạng phổ biến của VPBV.
VPBV là tổn thương do nhiễm khuẩn phổi xảy ra sau 48 giờ nhập viện mà không có triệu chứng trước đó Trong khi đó, VPTM là viêm phổi xảy ra ở bệnh nhân sau 48 giờ thở máy qua ống nội khí quản.
Trung tâm DI & ADR Qu ố c gia - Tài li ệ u đư ợ c chia s ẻ mi ễ n phí t ạ i website CANHGIACDUOC.ORG.VN
9 quản hoặc canuyn mở khí khí quản), không trong thời kì ủ bệnh tại thời điểm bắt đầu thở máy [4], [53]
VPBV và VPTM là hai loại nhiễm khuẩn bệnh viện phổ biến, đứng thứ hai về tỷ lệ mắc và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong tại Hoa Kỳ Tỷ lệ mắc VPBV là 5-10/1000 ca nhập viện, trong khi VPTM có tỷ lệ mắc 2-16/1000 ngày thở máy Tử suất do VPTM dao động từ 24-50%, tăng lên 76% khi nguyên nhân do vi khuẩn đa kháng Nghiên cứu của Arabi cho thấy tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân VPBV từ 16-94%, so với 0,2%-51% ở bệnh nhân không mắc VPBV Thời gian điều trị của bệnh nhân VPBV kéo dài từ 8-24 ngày, trong khi ở bệnh nhân không mắc chỉ từ 2,5-13 ngày.
Tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu về Vật lý trị liệu và Vật lý trị liệu y tế (VPBV/VPTM) đã được tiến hành tại các cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc Tại Bệnh viện Bạch Mai, tỷ lệ VPTM/1000 ngày thở máy được ghi nhận qua hai nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quang và Hà Sơn Bình lần lượt là 46/1000 và 24,8/1000 ngày thở máy trong giai đoạn 2011 – 2015 Tại Bệnh viện Quân y 103, trong giai đoạn 2009-
Tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân chấn thương vết thương (VPTM) năm 2011 là 23,81%, trong đó 17,46% tử vong được xác định là do VPTM Tại bệnh viện 175 vào năm 2009, tỷ lệ mắc VPTM đạt 27,37%, với tỷ lệ tử vong lên tới 32,65%.
Cơ thể có cơ chế bảo vệ tự nhiên chống lại vật lạ xâm nhập, bao gồm hệ thống lông và dịch nhầy của đường dẫn khí, cơ hô hấp, và các tế bào miễn dịch như đại thực bào phế nang và bạch cầu đa nhân trung tính Tuy nhiên, khi bệnh nhân sử dụng các thiết bị xâm lấn như nội khí quản hoặc canuyn mở khí quản, cơ chế bảo vệ này bị cản trở, tạo điều kiện cho nhiễm khuẩn cơ hội phát triển Thêm vào đó, các bệnh lý kèm theo hoặc thuốc ức chế miễn dịch cũng làm gia tăng nguy cơ nhiễm khuẩn cơ hội.
Trung tâm DI & ADR Qu ố c gia - Tài li ệ u đư ợ c chia s ẻ mi ễ n phí t ạ i website CANHGIACDUOC.ORG.VN
Các vi sinh vật xâm nhập vào đường hô hấp dưới theo ba con đường phổ biến:
VPTM chủ yếu xảy ra khi bệnh nhân hít phải vi khuẩn từ dịch hầu họng, hạt khí dung hoặc qua dòng máu từ các nhiễm trùng ngoài phổi Nguyên nhân chính là do hít phải giọt nhỏ chứa vi khuẩn từ đường hô hấp trên hoặc từ đường tiêu hóa do trào ngược dịch dạ dày Tình trạng này dễ xảy ra hơn ở bệnh nhân hôn mê, rối loạn tri giác và rối loạn nhịp thở, đặc biệt khi thay đổi tư thế hoặc trong quá trình tháo bóng chèn hoặc đặt lại nội khí quản Ngoài ra, việc sử dụng thuốc trong quá trình hồi sức, như thuốc ức chế bơm proton (PPI) và kháng thụ thể H2 histamin, có thể tạo điều kiện cho vi khuẩn đường ruột phát triển, đặc biệt là K pneumoniae và các vi khuẩn gram âm gây bệnh cơ hội, do môi trường dạ dày bị thay đổi từ acid sang trung tính.
Căn nguyên gây viêm phổi bệnh viện (VPBV) và viêm phổi thở máy (VPTM) thường gặp bao gồm K.pneumoniae, A.baumannii, P.aeruginosa, E.coli và S.aureus Tỷ lệ ghi nhận các tác nhân này có sự khác biệt giữa các nghiên cứu Một tổng quan hệ thống năm 2008 về VPTM trên bệnh nhân người lớn tại các nước đang phát triển cho thấy vi khuẩn gram âm chiếm 41%-92%, trong đó P.aeruginosa chiếm 9-52%, A.baumannii từ 0-36%, và cầu khuẩn gram dương chiếm 6-58% Theo dữ liệu từ Mạng lưới An toàn Y tế Quốc gia Hoa Kỳ (NHSN), các vi khuẩn phổ biến được phân lập từ mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân VPTM là S.aureus (24%), P.aeruginosa (16%) và A.baumannii (8%).
Thời gian nằm điều trị tại khoa HSTC, loại kháng sinh đã sử dụng trước đó và bệnh lý nền có ảnh hưởng lớn đến cơ cấu vi khuẩn gây viêm phổi bệnh viện (VPBV) Đối với viêm phổi thở máy (VPTM) khởi phát sớm (dưới 5 ngày), nguyên nhân thường gặp là tụ cầu vàng nhạy cảm methicillin (MSSA), Streptococcus pneumoniae hoặc Haemophilus influenzae Ngược lại, VPTM khởi phát muộn (trên 5 ngày) có thể liên quan đến các tác nhân khác.
Trung tâm DI & ADR Qu ố c gia - Tài li ệ u đư ợ c chia s ẻ mi ễ n phí t ạ i website CANHGIACDUOC.ORG.VN
Bệnh viêm phổi bệnh viện (VPBV) thường do các tác nhân kháng thuốc như tụ cầu kháng methicillin (MRSA), A baumannii, P aeruginosa và K pneumoniae gây ra, đặc biệt ở những bệnh nhân đã sử dụng kháng sinh tĩnh mạch trước đó Gần đây, nấm cũng đã trở thành một nguyên nhân đáng chú ý gây VPBV, nhất là ở những người có hệ miễn dịch suy giảm hoặc sử dụng kháng sinh phổ rộng trong thời gian dài Mặc dù viêm phổi do virus rất hiếm gặp ở người có hệ miễn dịch bình thường, nhưng đã có báo cáo về các đợt bùng phát VPBV do virus cúm, á cúm hoặc virus sởi theo mùa.
Theo tình hình dịch tễ tại Việt Nam, vi khuẩn gram âm chiếm tỷ lệ cao (84,2%) trong các mẫu bệnh phẩm từ Trung tâm Chống độc, Bệnh viện Bạch Mai vào năm 2011 Cụ thể, A.baumannii chiếm 31,7%, P.aeruginosa 18,7%, K.pneumoniae 14,2% và E.coli 6,1% Nghiên cứu đa trung tâm của Lý Ngọc Kính tại 19 bệnh viện ở Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2009 - 2010 cũng đã chỉ ra sự xuất hiện của hai chủng vi khuẩn này.
A.baumannii và P.aeruginosa chiếm 56% trong tổng số các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện, trong đó có VPBV [19] Nghiên cứu tại khoa HSTC, Bệnh viện Chợ Rẫy, Vũ Quỳnh Nga đã ghi nhận A.baumannii là tác nhân chủ yếu gây VPTM, với tỷ lệ 55,7% [36]
- Viêm phổi bệnh viện: chẩn đoán khi viêm phổi xuất hiện sau 48 giờ nhập viện và có ít nhất một trong các triệu chứng sau: [16]
+ Sốt (>38 o C) đã loại trừ các nguyên nhân khác
+ Tăng bạch cầu (≥ 12 x 10 9 /L) hoặc giảm bạch cầu (≤ 4 x 10 9 /L)
+ Thay đổi ý thức ở bệnh nhân cao tuổi (> 70 tuổi) đã loại trừ các nguyên nhân khác và có ít nhất một trong các triệu chứng sau:
+ Thay đổi tính chất của đàm hay tăng tiết đàm hay tăng nhu cầu hút đờm
+ Ho hoặc ho tăng lên, hoặc khó thở hoặc thở nhanh
+ Khám phổi có rale bệnh lý
+ Xét nghiệm khí máu xấu đi:giảm oxy máu, tăng nhu cầu oxy hoặc thở máy
Trung tâm DI & ADR Qu ố c gia - Tài li ệ u đư ợ c chia s ẻ mi ễ n phí t ạ i website CANHGIACDUOC.ORG.VN
Tổn thương phổi trên phim chụp có thể là những tổn thương mới xuất hiện hoặc tiến triển mà không biến mất nhanh chóng Để phát hiện, có thể sử dụng phương pháp chụp X quang hoặc chụp cắt lớp vi tính phổi Các dạng tổn thương thường gặp bao gồm thâm nhiễm, đông đặc và tạo hang.
Viêm phổi thở máy xuất hiện sau 48 giờ kể từ khi đặt nội khí quản, mở khí quản hoặc thở máy, kèm theo các dấu hiệu nhận biết.
+ Sốt (>38 o C) đã loại trừ các nguyên nhân khác
+ Tăng bạch cầu (≥ 12 x 10 9 /L) hoặc giảm bạch cầu (≤ 4 x 10 9 /L)
+ Thay đổi ý thức ở bệnh nhân cao tuổi (> 70 tuổi) loại trừ các nguyên nhân khác và có ít nhất một trong các triệu chứng sau:
+ Đờm mủ hay thay đổi tính chất của đờm hay tăng tiết đờm hay tăng nhu cầu hút đờm
+ Ho hoặc ho tăng lên, hoặc khó thở hoặc thở nhanh
+ Xét nghiệm khí máu xấu đi: giảm oxy máu, tăng nhu cầu oxy
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1 Đối tƣợng nghiên cứu của mục tiêu 1
Dữ liệu về tiêu thụ kháng sinh và số ngày nằm viện của bệnh nhân tại các khoa lâm sàng và toàn viện từ năm 2015 đến 2018 được lưu trữ trong phần mềm của Khoa Dược và Phòng Kế hoạch Tổng hợp tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Điện Biên.
Số lƣợng tiêu thụ kháng sinh và số ngày nằm viện của bệnh nhân điều trị tại khoa Nhi giai đoạn 2015-2018
2.1.2 Đối tƣợng nghiên cứu của mục tiêu 2
Trong giai đoạn 2017-2018, bệnh nhân VPBV (bao gồm cả VPTM) tại khoa Điều trị tích cực-chống độc của Bệnh viện Đa khoa Tỉnh Điện Biên đã được lựa chọn dựa trên các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về chọn lọc và loại trừ.
Bệnh nhân đƣợc chẩn đoán VPBV sau thời điểm nhập khoa ĐTTC-CĐ ít nhất
Bệnh nhân xuất hiện viêm phổi bệnh viện (VPBV) sau 48 giờ nhập khoa điều trị mà không có dấu hiệu ủ bệnh nào Việc chẩn đoán VPBV được thực hiện dựa trên tiêu chuẩn của IDSA/ATS (2016), yêu cầu bệnh nhân phải có ít nhất một triệu chứng viêm phổi trong khoảng thời gian này.
+ Sốt ( > 38 o C) đã loại trừ các nguyên nhân khác
+ Tăng bạch cầu ( ≥ 12.10 9 /L) hoặc giảm bạch cầu (≤ 4.10 9 /L)
+ Thay đổi ý thức ở bệnh nhân cao tuổi ( >70 tuổi) loại trừ các nguyên nhân khác và có ít nhất một trong các triệu chứng sau:
Đờm mủ hay thay đổi tính chất của đờm hay tăng tiết hay tăng nhu cầu hút đờm
Ho hoặc ho tăng lên, hoặc khó thở hoặc thở nhanh
Trung tâm DI & ADR Qu ố c gia - Tài li ệ u đư ợ c chia s ẻ mi ễ n phí t ạ i website CANHGIACDUOC.ORG.VN
Xét nghiệm khí máu xấu đi: giảm oxy máu, tăng nhu cầu oxy hoặc cần thở máy
Tổn thương phổi trên phim X-quang có thể bao gồm các dạng như thâm nhiễm, đông đặc và tạo hang Những tổn thương này có thể là mới xuất hiện hoặc tiến triển, và không biến mất nhanh chóng Để phát hiện và chẩn đoán, có thể sử dụng X-quang phổi hoặc chụp cắt lớp vi tính phổi.
- Thời gian điều trị tại khoa ĐTTC-CĐ dưới 2 ngày
- HSBA của bệnh nhân 0 và p < 0,05, xu hướng tiêu thụ thuốc được kết luận là tăng Ngược lại, nếu S < 0 và p < 0,05, xu hướng sẽ được xác định là giảm Trong trường hợp p > 0,05, kết luận sẽ là không có xu hướng tiêu thụ thuốc.
Trong thống kê mô tả, dữ liệu được trình bày dưới dạng tỷ lệ phần trăm, trung bình ± độ lệch chuẩn (TB ± SD) khi mẫu tuân theo phân phối chuẩn Ngược lại, trong trường hợp mẫu không tuân theo phân phối chuẩn, số liệu sẽ được thể hiện bằng trung vị và tứ phân vị 25% và 75%.
Trung tâm DI & ADR Qu ố c gia - Tài li ệ u đư ợ c chia s ẻ mi ễ n phí t ạ i website CANHGIACDUOC.ORG.VN
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TIÊU THỤ KHÁNG SINH KHÁNG
3.1.1 Mức độ tiêu thụ các nhóm kháng sinh toàn viện giai đoạn 2015-2018
Tình hình tiêu thụ các nhóm kháng sinh trên toàn viện qua 4 năm đƣợc biểu diễn trong hình 3.1
Hình 3.1: Mức tiêu thụ các nhóm kháng sinh toàn viện giai đoạn 2015-2018
Trong giai đoạn 2015-2018, mức tiêu thụ các nhóm kháng sinh có xu hướng tăng dần trong 4 năm, qua đó năm 2018 có mức tiêu thụ tăng 27,6% so với năm
2015 Các kháng sinh nhóm cephalosporin (J01DB, DC, DD, DE) đƣợc sử dụng phổ biến nhất tại bệnh viện, tiếp theo đó là các kháng sinh nhóm penicillin (J01CA,
Nhóm kháng sinh chính được tiêu thụ bao gồm cephalosporin (CE, CF, CR) và fluoroquinolon (FQ), trong khi nhóm macrolid và dẫn xuất imidazol cũng chiếm tỷ lệ đáng kể Các nhóm kháng sinh khác chỉ chiếm dưới 5% tổng tiêu thụ, với cephalosporin giữ tỷ trọng ổn định, hơn 1/3 tổng tiêu thụ toàn viện Đặc biệt, mức tiêu thụ kháng sinh nhóm FQ đã tăng gấp đôi trong bốn năm, đạt đỉnh vào năm 2018, trong khi nhóm penicillin cũng ghi nhận sự tăng trưởng dần theo thời gian.
Số liều DDD/100 ngày nằm viện
Glycopeptid J01XA Aminoglycosid J01GB Carbapenem J01DH Kháng sinh khác J01 Macrolid J01FA Dẫn xuất Imidazol J01XD Fluoroquinolon J01MA
Cephalosporin J01(DB,DC,DD,DE)
Penicillin J01(CA,CE,CF,CR)
Trung tâm DI & ADR Qu ố c gia - Tài li ệ u đư ợ c chia s ẻ mi ễ n phí t ạ i website CANHGIACDUOC.ORG.VN
3.1.2 Xu hướng tiêu thụ một số nhóm kháng sinh có mức tiêu thụ cao trên toàn viện
Ba nhóm kháng sinh phổ biến nhất tại bệnh viện bao gồm cephalosporin, penicillin và fluoroquinolon Hình 3.2 trình bày mức độ sử dụng hàng tháng và kết quả kiểm định Mann-Kendall về xu hướng tiêu thụ của ba nhóm kháng sinh này trên quy mô toàn viện.
Hình 3 Mức độ và xu hướng tiêu thụ của 3 nhóm kháng sinh được sử dụng nhiều nhất trong toàn viện giai đoạn 2015-2018
Trong giai đoạn 2015-2018, tiêu thụ penicillin và nhóm fluoroquinolone (FQ) tại viện có xu hướng tăng, trong khi tiêu thụ cephalosporin giảm, với kết quả kiểm định Mann-Kendall cho thấy p