Tớnh cấp thiết của ủề tài
Khi nhà đầu tư quyết định đầu tư vào một công ty, báo cáo tài chính (BCTC) là tài liệu quan trọng đầu tiên được xem xét Từ BCTC, nhà đầu tư có thể nắm bắt thông tin về tài sản, nguồn vốn và kết quả kinh doanh của tổ chức Trong số các chỉ tiêu tài chính, lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) thường được chú ý nhất.
EPS (Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu) là chỉ tiêu tài chính quan trọng, đóng vai trò trong việc xác định tỷ suất lợi nhuận (hệ số P/E) Chỉ tiêu này giúp so sánh hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp cổ phần trong cùng một kỳ báo cáo và giữa các kỳ báo cáo của cùng một doanh nghiệp EPS cao thể hiện năng lực kinh doanh mạnh mẽ, khả năng trả cổ tức tốt và giá cổ phiếu có xu hướng tăng Theo chuẩn mực kế toán số 30 (VAS 30), việc trình bày EPS trong báo cáo tài chính của các công ty đại chúng là bắt buộc Tuy nhiên, mức công bố thông tin về chỉ tiêu này tại Việt Nam còn thấp, đặc biệt ở các công ty chưa niêm yết, do yêu cầu công bố thông tin không nghiêm ngặt Vì vậy, đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu về công bố thông tin lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu trong báo cáo tài chính của các công ty đại chúng chưa niêm yết ở Việt Nam” được chọn làm nội dung chính cho luận văn này.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá mức độ tuân thủ công bố thông tin về EPS, bao gồm EPS cơ bản và EPS suy giảm, trên báo cáo tài chính năm và báo cáo tài chính giữa niên độ của các công ty đại chúng chưa niêm yết ở Việt Nam thông qua việc đo lường mức độ công bố thông tin về EPS.
− Xỏc ủịnh cỏc nhõn tố ảnh hưởng ủến mức ủộ CBTT về EPS trờn BCTC năm và BCTC giữa niờn ủộ.
ðối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mức độ công bố thông tin (CBTT) về EPS trên báo cáo tài chính (BCTC) năm và BCTC giữa niên độ của các công ty đại chúng chưa niêm yết ở Việt Nam, cùng với các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT này.
Nghiên cứu này sẽ tập trung vào việc đo lường mức độ cũng như nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin về EPS trên báo cáo tài chính năm, báo cáo tài chính bán niên và báo cáo tài chính quý 2 cho năm tài chính kết thúc ngày 31/12/2019 của 100 công ty đại chúng chưa niêm yết đăng ký giao dịch trên Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (các công ty trên sàn UPCoM).
Phương pháp nghiên cứu
Tác giả tiến hành thu thập và tổng hợp các lý thuyết, bài báo và nghiên cứu liên quan đến đề tài nghiên cứu Sau đó, tác giả so sánh với các quy định hiện hành của Việt Nam về công bố thông tin (CBTT) liên quan đến EPS để xây dựng hệ thống chỉ mục và thang đo tương ứng nhằm đánh giá mức độ CBTT về EPS của các công ty, đặc biệt là CBTT bắt buộc Tiếp theo, tác giả thu thập dữ liệu từ 100 công ty chưa niêm yết tại Việt Nam (đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM) và tiến hành đo lường mức độ CBTT về EPS trên báo cáo tài chính năm, báo cáo tài chính bán niên và báo cáo tài chính quý 2, nhằm xác định các yếu tố cụ thể ảnh hưởng đến mức độ này.
CBTT về EPS, luận văn sẽ xây dựng các giả thuyết nghiên cứu, tiến hành kiểm ủịnh cỏc giả thuyết ủú và rỳt ra kết luận
Cuối cùng, tác giả tổng hợp đánh giá tổng thể và đưa ra các kiến nghị nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng công bố thông tin về EPS tại Việt Nam.
4.2 Ph ươ ng pháp thu th ậ p s ố li ệ u
Số liệu dựng trong Luận văn này là dữ liệu thứ cấp ủược thu thập thủ công từ các BCTC năm 2019, BCTC bán niên 2019 và BCTC quý 2 năm
2019 ủược cụng bố trờn trang thụng tin ủiện tử (website) của cỏc cụng ty ủược nghiên cứu và trên website của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
4.3 Ph ươ ng pháp x ử lý s ố li ệ u
Dựa vào dữ liệu ủó thu thập ủược, tỏc giả tiến hành ủỏnh giỏ mức ủộ CBTT về EPS dựa trờn danh mục thang ủo ủó xõy dựng
Sau quá trình ủng hộ, tác giả xây dựng mô hình nghiên cứu dựa trên các giả thuyết và kiểm định hồi quy Trong nghiên cứu, các biến độc lập được thu thập và tính toán dựa trên báo cáo tài chính của các công ty được khảo sát, trong khi biến phụ thuộc và mức độ công bố thông tin về EPS được xem xét.
Bố cục của Luận văn
Nội dung chính của luận văn bao gồm bốn chương, bên cạnh phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các từ viết tắt, danh mục các bảng và phụ lục.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về công bố thông tin lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu
Chương 2: Thiết kế nghiờn cứu ủo lường mức ủộ cụng bố thụng tin về EPS và xỏc ủịnh cỏc nhõn tố ảnh hưởng
Chương 3: Kết quả nghiờn cứu và ủỏnh giỏ
Chương 4: Hàm ý chính sách và kết luận
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN LỢI NHUẬN TRÊN MỖI CỔ PHIẾU
KHÁI QUÁT VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN LỢI NHUẬN TRÊN MỖI CỔ PHIẾU
1.1.1 Khái niệm về lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu
Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) là phần lợi nhuận mà công ty phân bổ cho mỗi cổ phiếu phổ thông đang lưu hành trên thị trường Theo chuẩn mực kế toán số 30 (VAS 30), EPS bao gồm lãi cơ bản và lãi suy giảm trên cổ phiếu Lãi cơ bản được tính bằng cách chia lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông của công ty mẹ cho số lượng bình quân gia quyền của cổ phiếu phổ thông đang lưu hành trong kỳ Lãi suy giảm được tính dựa trên lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông, cùng với các điều chỉnh do ảnh hưởng của các cổ phiếu phổ thông có tác động suy giảm.
1.1.2 Khái niệm về công bố thông tin
Theo Sổ tay Công bố thông tin dành cho Công ty niêm yết của Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội, công bố thông tin là phương thức thực hiện quy trình minh bạch của công ty, giúp cổ đông và cộng đồng đầu tư tiếp cận thông tin một cách công bằng và đồng thời Ngoài ra, công bố thông tin còn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả phân bổ các nguồn lực của xã hội, vì nó phát ra tín hiệu “đầu vào” cần thiết để nhà đầu tư đưa ra quyết định.
Công bố thông tin là quá trình thông báo cho nhà đầu tư và các bên liên quan về tình hình hoạt động kinh doanh của công ty Thông tin này cần được thực hiện theo các chuẩn mực chung để đảm bảo tính kịp thời, rõ ràng, dễ hiểu và chính xác Việc công bố thông tin diễn ra thường xuyên, liên tục, định kỳ hoặc đột xuất qua các phương tiện truyền thông nhằm đạt hiệu quả cao nhất Nguyên tắc này không chỉ bảo vệ nhà đầu tư mà còn nhấn mạnh rằng khi thông tin được cung cấp đầy đủ, kịp thời và chính xác, nhà đầu tư phải chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình.
1.1.3 Phân loại công bố thông tin
Phân loại theo yêu cầu công bố thông tin
Công bố thông tin bắt buộc là những thông tin cần được công bố theo quy định của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ Nội dung của thông tin này trên Báo cáo tài chính (BCTC) sẽ khác nhau tùy thuộc vào từng quốc gia và vùng lãnh thổ, được quy định bởi các hội nghề nghiệp hoặc cơ quan quản lý nhà nước.
Công bố thông tin tự nguyện là hành động mà các công ty thực hiện để cung cấp thêm thông tin ngoài những yêu cầu bắt buộc, nhằm đáp ứng nhu cầu của người sử dụng thông tin cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp Việc công bố nhiều thông tin tự nguyện không chỉ giúp nâng cao uy tín của doanh nghiệp mà còn mang lại nhiều lợi ích và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư Những thông tin tự nguyện này thường được bổ sung trong phần thuyết minh báo cáo tài chính, bên cạnh các thông tin bắt buộc.
Thông tin tự ý là một dạng đặc biệt của thông tin bắt buộc, phát sinh khi có yêu cầu công bố thông tin theo quy định pháp luật, nhưng chưa có văn bản pháp luật chi tiết hướng dẫn mức độ công bố Do đó, doanh nghiệp có quyền tự điều chỉnh mức độ công bố thông tin nhiều hay ít.
Phõn loại cụng bố thụng tin theo tớnh chất ủịnh kỳ hoặc bất thường
Thông tin công bố định kỳ bao gồm các báo cáo tài chính năm, báo cáo tình hình quản trị công ty và báo cáo tài chính giữa niên độ.
Thông tin công bố bất thường là những thông tin quan trọng cần được công bố, bao gồm tài khoản ngân hàng bị đóng băng, hoạt động trở lại, tạm ngừng hoặc giải thể công ty.
Thông tin công bố theo yêu cầu là các thông tin được công bố theo yêu cầu của Ủy ban chứng khoán Nhà nước và các Sở giao dịch chứng khoán Nội dung công bố cần nêu rõ sự kiện được cơ quan quản lý yêu cầu công bố, nguyên nhân và đánh giá của công ty về tính chính xác của sự kiện đó, cũng như giải pháp khắc phục nếu có, theo Thông tư 155/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính.
1.1.4 Quy ủịnh về cụng bố thụng tin về lợi nhuận trờn mỗi cổ phiếu
Hiện nay, việc CBTT về EPS trờn BCTC ủược quy ủịnh tại VAS 30 -
Doanh nghiệp cần công bố thông tin về EPS cơ bản và EPS suy giảm trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và bản thuyết minh báo cáo tài chính Thông tin này bao gồm lợi nhuận hoặc lỗ, số lượng cổ phiếu phổ thông bình quân để tính toán EPS cơ bản và EPS suy giảm (EPS pha loãng), các yếu tố có thể ảnh hưởng đến EPS trong tương lai, cùng với các giao dịch cổ phiếu phổ thông hoặc giao dịch tiềm năng có thể xảy ra sau khi kết thúc kỳ kế toán năm.
Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 27 (VAS 27) quy định rằng EPS trước và sau ngày phân phối cần được trình bày trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (KQHðKD) đầy đủ hoặc tóm lược của kỳ kế toán giữa niên độ Đồng thời, chuẩn mực này khuyến khích doanh nghiệp công bố thông tin về EPS tương tự như trong báo cáo tài chính năm Ngoài ra, chế độ kế toán Việt Nam cũng yêu cầu công bố EPS và hướng dẫn cách tính EPS cơ bản cũng như EPS suy giảm.
Các công ty niêm yết và tổ chức đăng ký giao dịch phải tuân thủ quy định về công bố thông tin theo Thông tư 155/2015/TT-BTC hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Do đó, các doanh nghiệp niêm yết cần trình bày thông tin về EPS trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và thuyết minh báo cáo tài chính.
Các doanh nghiệp cần công bố chính sách kế toán áp dụng cho việc tính toán chỉ tiêu EPS, đồng thời cung cấp thông tin bổ sung liên quan đến chỉ tiêu EPS trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
1.1.5 ðo lường mức ủộ cụng bố thụng tin
Theo các nghiên cứu trước đây, như của Phan Thị Trà Mỹ (2015) và Nguyễn Hữu Cường cùng Lờ Thựy Trang (2019), việc đo lường mức độ công bố thông tin trên báo cáo tài chính được thực hiện qua hai bước.
Bước đầu tiên là xây dựng một thang ủo với hệ thống các chỉ mục dựa trên quy định về công bố thông tin liên quan, bao gồm cả công bố thông tin bắt buộc và các nghiên cứu trước cho công bố thông tin tự nguyện và tùy ý.
CÁC LÝ THUYẾT LIÊN QUAN
1.2.1 Lý thuyết ủại diện (Agency Theory)
Lý thuyết đại diện, được phát triển bởi Jensen và Meckling vào năm 1976, nghiên cứu mối quan hệ giữa chủ sở hữu công ty và quản lý công ty, đặc biệt trong trường hợp chủ sở hữu không trực tiếp quản lý Lý thuyết này chỉ ra rằng cả hai bên đều mong muốn tối ưu hóa lợi ích của mình (Jensen & Meckling, 1976).
Lý thuyết đại diện chỉ ra rằng xung đột lợi ích xảy ra khi có sự không đồng nhất giữa quyền lợi của chủ sở hữu công ty và quản lý Hai bên thường có lợi ích khác nhau, và vấn đề này có thể được giảm thiểu thông qua việc áp dụng các cơ chế thích hợp nhằm hạn chế sự phân hóa lợi ích Điều này bao gồm việc thiết lập các cơ chế thưởng phạt hợp lý cho nhà quản trị và tạo ra các cơ chế giám sát hiệu quả để ngăn chặn những hành vi không bình thường và tư lợi của người quản lý.
Mâu thuẫn xảy ra khi nhà quản trị tìm cách tối ưu hóa lợi ích cá nhân, nhưng điều này có thể gây tổn hại đến lợi ích của nhà đầu tư và cổ đông (Healy và Palepu).
Để bảo vệ lợi ích của cổ đông, doanh nghiệp cần kiểm soát thông tin một cách hiệu quả Cộng đồng đầu tư luôn yêu cầu các công ty cung cấp thông tin chính xác, kịp thời và chi tiết về hoạt động của họ Việc công bố báo cáo tài chính, báo cáo thường niên chất lượng cao cùng với các thông tin bổ sung như báo cáo tóm tắt và thông cáo báo chí sẽ giúp nhà đầu tư và chuyên gia phân tích giám sát các công ty tốt hơn, từ đó phát hiện sớm các hành vi quản lý có thể gây tổn hại đến lợi ích của cổ đông Như vậy, vấn đề đại diện sẽ được giảm thiểu khi doanh nghiệp công bố thông tin kịp thời và đáng tin cậy.
1.2.2 Lý thuyết tín hiệu (Signaling Theory)
Lý thuyết tớn hiệu chỉ ra rằng sự bất đối xứng thông tin giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư có thể dẫn đến những lựa chọn bất lợi cho nhà đầu tư Do đó, các doanh nghiệp cần chủ động công bố thông tin ra thị trường và cung cấp các tín hiệu tích cực để thu hút nhà đầu tư (Watts và Zimmerman, 1986) Việc công bố thông tin là một công cụ quan trọng giúp doanh nghiệp tạo ra sự khác biệt về chất lượng hoạt động so với các đối thủ cạnh tranh.
Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của doanh nghiệp về công bố thông tin, trong đó khả năng sinh lời là một công cụ quan trọng Doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao (đo bằng ROA hoặc ROE) thường có xu hướng công bố nhiều thông tin hơn để quảng bá hình ảnh và thương hiệu Tình hình tài chính trong quá khứ cũng tác động lớn đến mức độ công bố thông tin Để tạo niềm tin và thu hút nhà đầu tư, các công ty có lợi nhuận cao thường công bố nhiều thông tin ra thị trường, góp phần nâng giá trị cổ phiếu.
1.2.3 Lý thuyết kinh tế thông tin (Information Economics Theory)
Theo Stiglitz (2008), lý thuyết kinh tế thông tin đã được áp dụng từ những năm 1970 để đánh giá cách mà thị trường tài chính và các tổ chức khác xử lý và truyền đạt thông tin Lý thuyết này dựa trên ba nghiên cứu kinh điển: nghiên cứu về sự lựa chọn bất lợi trên thị trường sản phẩm, nơi bên bán có thông tin nhiều hơn người mua; nghiên cứu về bất đối xứng thông tin trong thị trường lao động, liên quan đến các chủ doanh nghiệp; và nghiên cứu về bất đối xứng thông tin trên thị trường bảo hiểm, trong đó người mua bảo hiểm nắm giữ thông tin ưu thế về các rủi ro tiềm ẩn của họ so với các doanh nghiệp bảo hiểm (Nguyễn Hữu Cường, 2017).
Lý thuyết kinh tế thông tin thừa nhận sự tồn tại của bất đối xứng thông tin trong các doanh nghiệp, nơi các nhà quản trị có sự cân nhắc về chi phí và lợi ích từ việc công bố hoặc che giấu thông tin Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy chiến lược công bố thông tin của các công ty thường rất thấp đối với những thông tin quan trọng như hợp nhất kinh doanh, công cụ tài chính và thử nghiệm tổn thất tài sản Tuy nhiên, cũng có hiện tượng doanh nghiệp tự công bố thông tin tự nguyện, đặc biệt khi thông tin này giúp giảm thiểu chi phí hoặc rủi ro, mang lại lợi ích cao hơn so với chi phí đầu tư.
1.2.4 Lý thuyết chi phí sở hữu (Proprietary Cost Theory)
Chi phí sở hữu thông tin được xem là một yếu tố hạn chế quan trọng trong việc công bố thông tin Cạnh tranh có thể ảnh hưởng đến quyết định cung cấp thông tin riêng tư, và theo Darrough (1993), việc công bố thông tin nhiều hơn có thể dẫn đến phản ứng tiêu cực từ các công ty đối thủ, tùy thuộc vào tính chất cạnh tranh và nội dung thông tin Do đó, các công ty có thể chọn công bố thông tin một cách hạn chế để bảo vệ vị thế cạnh tranh của họ, mặc dù chi phí huy động vốn có thể cao hơn Hơn nữa, theo lý thuyết chi phí sở hữu, quy mô và mức sinh lời khuyến khích các công ty công bố nhiều thông tin hơn để giảm thiểu chi phí này.
1.2.5 Lý thuyết các bên liên quan (Stakeholders Theory)
Lý thuyết về các bên liên quan là một khái niệm quan trọng trong quản lý tổ chức và phát triển kinh doanh, nhấn mạnh vai trò của các bên liên quan và giá trị trong việc quản lý hiệu quả một tổ chức.
Lý thuyết này cú thể ủược sử dụng ủể giải thớch cụng bố thụng tin của Cụng ty
Lý thuyết các bên liên quan nhấn mạnh rằng mục tiêu của doanh nghiệp không chỉ là tạo ra giá trị cho cổ đông mà còn cho tất cả các bên liên quan, bao gồm khách hàng, nhà cung cấp, nhân viên và cộng đồng Các bên liên quan được định nghĩa là những cá nhân hoặc nhóm có ảnh hưởng đến sự đạt được mục tiêu của tổ chức hoặc bị ảnh hưởng bởi sự đạt được đó (Freeman và Reed, 1983).
Lý thuyết các bên liên quan được chia thành hai nhánh: nhánh đạo đức và nhánh quản lý Nhánh đạo đức nhấn mạnh rằng tất cả các cổ đông cần được đối xử bình đẳng, và người quản lý phải quản lý doanh nghiệp vì lợi ích của tất cả các bên liên quan, với công ty đóng vai trò là phương tiện phối hợp lợi ích Do đó, việc công bố thông tin cần phải đảm bảo rằng các bên liên quan nhận được thông tin một cách công bằng Nhánh quản lý giải thích hành động của quản lý công ty nhằm đáp ứng kỳ vọng của một nhóm có quyền lực, và lợi ích của tổ chức cần được nhận diện và quản lý Sự kỳ vọng của nhóm quyền lực này ảnh hưởng đến chiến lược công bố thông tin của tổ chức.
Lý thuyết này ủược sử dụng ủể nghiờn cứu, ủỏnh giỏ nhúm nhõn tố ỏp lực từ phía các bên liên quan ảnh hưởng tới CBTT.
QUY ðỊNH VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÁC CÔNG TY ðẠI CHÚNG CHƯA NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM
1.3.1 Khỏi quỏt về cụng ty ủại chỳng
Luật chứng khoỏn (Quốc hội, 2006) quy ủịnh cụng ty ủại chỳng là cụng ty cổ phần thuộc một trong ba loại hỡnh sau ủõy:
− Cụng ty ủó thực hiện chào bỏn cổ phiếu ra cụng chỳng;
− Cụng ty cú cổ phiếu ủược niờm yết tại Sở giao dịch chứng khoỏn hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán;
Công ty có cổ phiếu được sở hữu bởi ít nhất một trăm nhà đầu tư, bao gồm cả nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, với vốn điều lệ từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên.
Công ty ủy thác quy mô lớn là công ty ủy thác có vốn góp của chủ sở hữu từ 120 tỷ đồng trở lên tại báo cáo tài chính năm gần nhất đã được kiểm toán (Bộ Tài chính, 2015).
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội đã quyết định phân bảng UPCoM theo quy mô vốn nhằm hỗ trợ nhà đầu tư theo dõi các nhóm doanh nghiệp dựa trên vốn chủ sở hữu hiện có Điều này giúp nhà đầu tư dễ dàng hơn trong việc đưa ra quyết định đầu tư hiện tại và trong tương lai Các chứng khoán đăng ký giao dịch trên hệ thống UPCoM sẽ không thuộc Bảng cảnh báo, mà sẽ được phân loại và sắp xếp vào một trong ba bảng theo quy định.
- UPCoM quy mô lớn (UPCoM Large): bao gồm các chứng khoán của cỏc tổ chức ủăng ký giao dịch cú vốn chủ sở hữu từ 1.000 tỷ ủồng trở lờn;
UPCoM quy mô vừa (UPCoM Medium) là thị trường dành cho các chứng khoán của các tổ chức đăng ký giao dịch có vốn chủ sở hữu từ 300 tỷ đồng đến dưới 1.000 tỷ đồng.
UPCoM quy mô nhỏ (UPCoM Small) là thị trường chứng khoán dành cho các tổ chức có vốn chủ sở hữu từ 10 tỷ đồng trở lên.
Tất cả các doanh nghiệp trong ba bảng đều phải tuân thủ các yêu cầu về công bố thông tin (CBTT) theo quy định của Luật và các thông tư liên quan.
1.3.2 Tổng quan về hệ thống giao dịch cho chứng khoán chưa niêm yết
Vào cuối năm 2006, thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến một làn sóng mạnh mẽ khi nhiều công ty, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, đồng loạt niêm yết cổ phiếu Nguyên nhân chính cho hiện tượng này là đợt cổ phần hóa các công ty nhà nước từ 2005-2007 và quyết định của Bộ Tài chính miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho các công ty niêm yết trước ngày 31 tháng 12 năm 2006 Số lượng công ty lên sàn vào thời điểm này rất đáng kể, cùng với sự phát triển của thị trường cổ phiếu tự do (OTC), tạo ra một "bong bóng" trên thị trường niêm yết Thị trường tự do lớn gấp nhiều lần so với thị trường niêm yết chính thức, khiến Ủy ban Chứng khoán Nhà nước gặp khó khăn trong việc quản lý Để giải quyết vấn đề này, vào ngày 24 tháng 6 năm 2009, sàn UPCoM chính thức ra mắt và tổ chức phiên giao dịch đầu tiên.
Theo Thông tư 180/2015/TT-BTC và Thông tư 13/2019/TT-BTC, các quy định về đăng ký giao dịch chứng khoán chưa niêm yết trên hệ thống UPCoM đã được hướng dẫn cụ thể Các đối tượng cần thực hiện đăng ký giao dịch bao gồm các công ty cổ phần, công ty TNHH và các tổ chức phát hành khác có chứng khoán chưa niêm yết Việc tuân thủ các quy định này là cần thiết để đảm bảo tính minh bạch và hợp pháp trong giao dịch chứng khoán.
-Cụng ty ủại chỳng khụng ủủ ủiều kiện niờm yết phải ủăng ký giao dịch trên hệ thống giao dịch UPCoM;
Công ty đủ điều kiện niêm yết nhưng chưa niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán cần phải đăng ký giao dịch trên hệ thống giao dịch UPCoM.
Công ty hủy niêm yết cần phải đăng ký giao dịch trên hệ thống UPCoM nếu vẫn đáp ứng đủ điều kiện là công ty đại chúng, bao gồm cả trường hợp hủy niêm yết do công ty hình thành sau hợp nhất, sáp nhập hoặc hoàn vốn không đáp ứng điều kiện niêm yết.
Doanh nghiệp cổ phần chưa niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán phải thực hiện đăng ký giao dịch trên hệ thống UPCoM theo quy định pháp luật về cổ phần hóa.
UPCoM hiện là sàn giao dịch có số lượng công ty đăng ký lớn nhất tại Việt Nam, nhờ vào các quy định linh hoạt Nhiều công ty đủ điều kiện lựa chọn đăng ký giao dịch trên UPCoM thay vì niêm yết trực tiếp trên sàn chứng khoán Thậm chí, một số doanh nghiệp lớn còn xem UPCoM như một bước “trung chuyển” trước khi niêm yết chính thức, điều này tạo nên sự đa dạng và phức tạp cho các công ty hoạt động trên sàn này.
1.3.3 Cỏc quy ủịnh về cụng bố thụng tin ủịnh kỳ của cỏc cụng ty ủại chúng chưa niêm yết tại Việt Nam
Hiện nay, các công ty đại chúng chưa niêm yết trên sàn UPCoM phải tuân thủ các quy định về công bố thông tin theo Thông tư 155/2015/TT-BTC Các công ty này cần công bố báo cáo tài chính (BCTC) năm đã được kiểm toán, nhưng không yêu cầu bắt buộc về BCTC bán niên Tuy nhiên, các công ty có quy mô lớn phải công bố cả BCTC năm đã được kiểm toán và BCTC bán niên được soát xét bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận thực hiện kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng trong lĩnh vực chứng khoán (Bộ Tài chính, 2015).
Chương này trình bày lý luận cơ bản về công bố thông tin (CBTT) trên báo cáo tài chính (BCTC), bao gồm nội dung và quy định về CBTT liên quan đến EPS tại Việt Nam, cũng như quy định đối với các công ty chưa niêm yết Đồng thời, chương này tóm tắt các lý thuyết liên quan đến CBTT, thường được áp dụng để giải thích ảnh hưởng của các yếu tố đến mức độ CBTT trên BCTC Những quy định và lý thuyết này sẽ là cơ sở để xây dựng thang bảng và giả thuyết nghiên cứu trong chương tiếp theo.
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU ðO LƯỜNG MỨC ðỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN VỀ EPS VÀ XÁC ðỊNH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ðO LƯỜNG MỨC ðỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN VỀ EPS
Dựa trên các quy định hiện hành về công bố thông tin, cụ thể là Thông tư 200/2014/TT-BTC và Thông tư 155/2015/TT-BTC, luận văn này thiết lập Bảng chỉ mục để đo lường mức độ công bố thông tin về EPS trong BCTC của các công ty đại chúng chưa niêm yết ở Việt Nam Nghiên cứu này kế thừa các nghiên cứu trước đó và áp dụng thang đo không trọng số để đánh giá mức độ công bố thông tin về EPS, dựa trên việc xem xét sự tuân thủ của các BCTC đối với yêu cầu công bố thông tin tương ứng với từng chỉ mục.
Bảng 2 1 - ðo lường mức ủộ cụng bố thụng tin bắt buộc
STT Yêu cầu về công bố thông tin Thang ủo Tham chiếu quy ủịnh
A Chính sách kế toán áp dụng md 1
Trình bày phương pháp tính EPS cơ bản 1/0 Khoản 4.3, ðiều 115,
Trình bày phương pháp tính EPS suy giảm 1/0 Khoản 4.3, ðiều 115,
Công bố khoản lợi nhuận cơ bản trên cổ phiếu 1/0 Khoản 3.19, ðiều 113,
Lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ ủụng sở hữu cổ phiếu phổ thụng 1/0 Khoản 3.19, ðiều 113,
TT 200/2015/TT-BTC md 5 Số cổ phiếu bình quân gia quyền 1/0 Khoản 3.19, ðiều 113,
STT Yêu cầu về công bố thông tin Thang ủo Tham chiếu quy ủịnh dựng ủể tớnh EPS TT 200/2015/TT-BTC
C EPS suy giảm md 6 Công bố chỉ số lợi nhuận suy giảm trên mỗi cổ phiếu 1/0/NA Khoản 3.20, ðiều 113,
Lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ ủụng sở hữu cổ phiếu phổ thụng dựng ủể tớnh EPS suy giảm
Số cổ phiếu bình quân gia quyền dựng ủể tớnh EPS suy giảm 1/0/NA Khoản 3.20, ðiều 113,
D Các giao dịch cổ phiếu md 9 Phát hành cổ phiếu phổ thông 1/0/NA ðiểm l, Khoản 1, ðiều
9, TT 155/2015/TT- BTC md 10 Phỏt hành cổ phiếu ưu ủói 1/0/NA ðiểm k, Khoản 1, ðiều
9, TT 155/2015/TT- BTC md 11 Mua cổ phiếu quỹ 1/0/NA ðiểm d, Khoản 1, ðiều
9, TT 155/2015/TT- BTC md 12 Bán cổ phiếu quỹ 1/0/NA ðiểm d, Khoản 1, ðiều
9, TT 155/2015/TT- BTC md 13 Tách cổ phiếu phổ thông 1/0/NA ðiểm ủ, Khoản 1, ðiều
9, TT 155/2015/TT- BTC md 14 Gộp cổ phiếu phổ thông 1/0/NA ðiểm ủ, Khoản 1, ðiều
9, TT 155/2015/TT- BTC md 15 Trả cổ tức bằng cổ phiếu 1/0/NA ðiểm ủ, Khoản 1, ðiều
STT Yêu cầu về công bố thông tin Thang ủo Tham chiếu quy ủịnh
Chuyển ủổi cổ phiếu ưu ủói sang cổ phiếu phổ thông 1/0/NA ðiểm l, Khoản 1, ðiều
Phát hành quyền chọn mua cổ phiếu 1/0/NA ðiểm d, Khoản 1, ðiều
Cổ phiếu phổ thông dự kiến phát hành 1/0/NA ðiểm k, Khoản 1, ðiều
9, TT 155/2015/TT- BTC md 19 Phỏt hành trỏi phiếu chuyển ủổi 1/0/NA ðiểm k, Khoản 1, ðiều
Chỉ số tuân thủ công bố thông tin (CBTT) của doanh nghiệp được đánh giá dựa trên 19 mục tin, trong đó mỗi mục tin được gán giá trị “1” nếu BCTC có công bố đúng yêu cầu, “0” nếu không có công bố nào và “NA” trong trường hợp mục tin không liên quan đến doanh nghiệp Mức độ CBTT về EPS được xác định qua chỉ số tổng hợp sau khi hoàn tất việc đánh giá các mục tin.
: Mức ủộ CBTT bắt buộc trờn BCTC tương ứng (BCTC năm, BCTC giữa niờn ủộ, và BCTC quý 2);
: ủiểm số tuõn thủ của mục thụng tin thứ j;
: tổng số mục không liên quan; n: số lượng mục thông tin nghiên cứu (n )
Danh mục này tương tự như danh mục được sử dụng trong nghiên cứu của Nguyễn Hữu Cường và Lê Thùy Trang (2019), phù hợp với quy định về công bố thông tin áp dụng cho các công ty niêm yết và công ty đăng ký giao dịch trên sàn UPCoM Đặc biệt, các yêu cầu về công bố thông tin cho các công ty niêm yết vẫn chưa có sự thay đổi Để minh họa cho mức độ công bố thông tin, Công ty cổ phần cấp nước Bà Rịa-Vũng Tàu (BWS) được sử dụng để đánh giá Các chỉ tiêu công bố bao gồm lợi nhuận cơ bản trên cổ phiếu, lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở hữu cổ phiếu phổ thông, và nhiều chỉ tiêu khác liên quan đến EPS cơ bản và EPS suy giảm Công ty đã công bố đầy đủ 9 chỉ tiêu, được đánh giá là "1", trong khi 2 chỉ tiêu về phương pháp tính EPS không được công bố, được đánh giá là "0" Các mục tin khác bao gồm phát hành cổ phiếu ưu đãi, mua và bán cổ phiếu quỹ, tách và gộp cổ phiếu phổ thông, cùng với các hoạt động phát hành quyền chọn cổ phiếu và cổ phiếu dự kiến phát hành.
Trong báo cáo tài chính, số cổ phiếu cuối năm 2019 của công ty không có sự thay đổi so với đầu năm, bao gồm cả cổ phiếu phát hành thêm như cổ phiếu thưởng và chia cổ tức bằng cổ phiếu Điều này cho thấy không có sự điều chỉnh nào liên quan đến tách, gộp cổ phiếu hay chuyển đổi cổ phiếu Thêm vào đó, thông tin về cổ phiếu ưu đãi không được ghi nhận, dẫn đến các chỉ tiêu này được đánh giá là "NA" Do đó, mức công bố thông tin về EPS của công ty được tính toán dựa trên những dữ liệu này.
Mức ủộ CBTT về EPS của Cụng ty cổ phần cấp nước Bà Rịa- Vũng Tàu (BWS) ủối với BCTC năm 2019 ủó ủược kiểm toỏn bằng 80%.
GIẢ THUYẾT VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ðẾN MỨC ðỘ CÔNG BỐ THÔNG TIN VỀ EPS
Dựa trên lý thuyết về công bố thông tin và các nghiên cứu thực nghiệm, bài viết nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin về EPS trên báo cáo tài chính của các công ty Tác giả xây dựng các giả thuyết nghiên cứu tập trung vào những yếu tố thuộc về đặc điểm cụng ty.
2.2.1 Giả thuyết về quy mô công ty
Theo lý thuyết đại diện và lý thuyết chi phí sở hữu, quy mô công ty ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin; các công ty có quy mô lớn thường chọn công bố thông tin nhiều hơn Điều này cũng phù hợp với lý thuyết tín hiệu, khi mức độ bất đối xứng thông tin trong các công ty lớn thường cao hơn so với các công ty nhỏ, dẫn đến yêu cầu công bố thông tin nhiều hơn.
Nhiều nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng quy mô công ty có tác động tích cực đến mức độ công bố thông tin Các nghiên cứu như của Nguyễn Hữu Cường đã chỉ ra rằng việc công bố thông tin rõ ràng và minh bạch không chỉ nâng cao uy tín của công ty mà còn tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.
Lê Thị Bảo Ngọc (2018), Nguyễn Hữu Cường và Lê Thùy Trang (2019), cùng với Ramalhinho (2017) đã chỉ ra rằng các công ty niêm yết trên sàn UPCoM, đặc biệt là những công ty có quy mô lớn (vốn góp từ 120 tỷ đồng trở lên), phải thực hiện công bố thông tin nhiều hơn so với các công ty không thuộc quy mô lớn (Bộ Tài chính, 2015) Các công ty quy mô lớn bắt buộc phải công bố cả ba loại báo cáo tài chính định kỳ hàng năm, bao gồm báo cáo tài chính quý, báo cáo tài chính bán niên đã soát xét và báo cáo tài chính cả năm đã được kiểm toán Trong khi đó, các công ty chưa niêm yết có quy mô vừa và nhỏ chỉ cần công bố báo cáo tài chính năm đã được kiểm toán Dựa trên lý thuyết đại diện và lý thuyết sở hữu, đồng thời dựa vào các bằng chứng định lượng về ảnh hưởng tích cực của quy mô doanh nghiệp đến mức độ công bố thông tin, luận văn này đưa ra giả thuyết thứ nhất (H1).
H 1 : Quy mụ cụng ty càng lớn thỡ mức ủộ cụng bố thụng tin về EPS trờn BCTC càng nhiều
2.2.2 Giả thuyết về ủũn bẩy tài chớnh
Lý thuyết ủại diện cho rằng các công ty có mức nợ cao sẽ công bố thông tin nhiều hơn để giảm chi phí ủại diện, vì chi phí này tỉ lệ thuận với mức nợ Khi công ty duy trì cấu trúc tài chính với tỷ suất nợ cao, chi phí lãi vay tăng lên, buộc nhà quản lý phải cung cấp thêm thông tin để đáp ứng yêu cầu của các chủ nợ.
Nhiều nghiên cứu trước đây đã kiểm chứng mối quan hệ giữa đòn bẩy tài chính và mức độ công bố thông tin, điển hình như nghiên cứu của Singhvi và Desai (1971) cùng với Gallery và cộng sự (2018), được trích dẫn bởi Nguyễn Hữu Cường và Lê Thị Bảo Ngọc (2018) Tuy nhiên, cũng tồn tại những nghiên cứu không xác định được ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính đối với mức độ công bố thông tin, như nghiên cứu của Nguyễn Công Phương và Nguyễn Thị Thanh Phương (2014), Nguyen (2015), và gần đây nhất là Nguyễn Hữu Cường và Lê Thụy Trang (2019).
Căn cứ vào kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hữu Cường và Lê Thụy Trang (2019), các công ty chưa niêm yết không cho thấy sự khác biệt với các công ty niêm yết về ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính đến mức độ công bố thông tin Giả thuyết thứ hai của Luận văn (H2) được phát biểu như sau:
H2: đòn bẩy tài chắnh không có ảnh hưởng ựến mức ựộ công bố thông tin về EPS trên BCTC
2.2.3 Giả thuyết về khả năng sinh lời
Theo lý thuyết đại diện, xung đột giữa nhà quản lý và cổ đông xảy ra do thông tin bất cân xứng Các nhà quản lý của công ty có khả năng sinh lời cao thường công bố thông tin nhiều hơn để chứng minh hiệu quả hoạt động của họ Khả năng sinh lời ảnh hưởng đến tỷ số P/E và giá cổ phiếu trên thị trường, vì vậy việc đánh giá khả năng sinh lời là rất quan trọng Công ty có khả năng sinh lời cao sẽ công bố nhiều thông tin để thu hút đầu tư, từ đó tăng vốn đầu tư, giá trị và uy tín doanh nghiệp trên thị trường.
Khả năng sinh lời và mức độ công bố thông tin (CBTT) có ảnh hưởng tích cực, được xác nhận bởi các nghiên cứu trước đây như của Nguyễn Hữu Cường và Lê Thùy Trang (2019) cũng như Phan Thị Trà Mỹ (2015).
Vận dụng lý thuyết đại diện và lý thuyết kinh tế thông tin, cùng với các bằng chứng định lượng, luận văn này đưa ra giả thuyết thứ ba (H3) về ảnh hưởng của mức độ sinh lời đến mức độ công bố thông tin.
H3: Mức ủộ sinh lời càng cao thỡ mức ủộ cụng bố thụng tin về EPS trờn BCTC càng cao
2.2.4 Giả thuyết về khả năng thanh toán
Giả thuyết này được phát triển dựa trên lý thuyết tín hiệu, cho thấy khả năng thanh toán phản ánh mức độ rủi ro của công ty Khi mất khả năng thanh toán, rủi ro thanh khoản sẽ gia tăng, khiến công ty không thể thực hiện nghĩa vụ nợ đối với các chủ nợ.
Cỏc nghiờn cứu trước ủõy cho rằng khả năng thanh toỏn nhanh càng cao,
Doanh nghiệp cần tích cực công bố thông tin trên báo cáo tài chính năm để chứng minh tình trạng hoạt động tốt, đồng thời tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trên thị trường nhận diện cơ hội đầu tư hiệu quả (theo nghiên cứu của Singhvi và Desai, 1971; Nguyễn Thị Phương Hồng).
2016) Tuy nhiên nghiên cứu của Nguyễn Hữu Cường và Lê Thùy Trang
(2019) ủó cho thấy khả năng thanh toỏn nhanh khụng ảnh hưởng ủến mức ủộ CBTT về EPS trờn cả BCTC năm và BCTC giữa niờn ủộ
Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa khả năng thanh toán và mức độ công bố thông tin về EPS, tuy nhiên, nghiên cứu gần đây của Nguyễn Hữu Cường và Lê Thụy Trang (2019) lại cho thấy khả năng thanh toán nhanh không ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin về EPS của các công ty niêm yết Bên cạnh đó, các công ty chưa niêm yết hiện nay cũng không có sự khác biệt với các công ty niêm yết về yếu tố này Do đó, giả thuyết thứ tư (H4) trong luận văn này được phát biểu như sau:
H4: Khả năng thanh toỏn khụng cú ảnh hưởng ủến mức ủộ cụng bố thông tin về EPS trên BCTC
2.2.5 Giả thuyết về thời gian hoạt ủộng
Theo lý thuyết tôn hiệu, các công ty hoạt động lâu dài có cơ hội cải thiện điều kiện thực tế cho quá trình báo cáo, công nghệ và chi phí cho công bố Nhiều thành tựu cũng đã được thực hiện để nâng cao danh tiếng của công ty Ngược lại, các công ty non trẻ nếu công bố thông tin quá nhiều sẽ gặp gánh nặng chi phí và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến vị thế cạnh tranh trên thị trường.
Nghiên cứu trước đây đã kiểm chứng ảnh hưởng của thời gian hoạt động đến mức độ công bố thông tin (CBTT) Chẳng hạn, Owusu-Ansah (2005) cho thấy thời gian hoạt động có mối liên hệ thuận chiều với mức độ CBTT Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại cho kết quả trái ngược về mức độ CBTT của các công ty niêm yết tại Việt Nam, như nghiên cứu của Nguyễn Hữu Cường và Lê Thị Bảo Ngọc.
MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH
Nhằm ước lượng ảnh hưởng của các nhân tố đã được dự đốn theo các giả thuyết trờn, mụ hỡnh hồi quy ủược thiết lập như sau:
MD i = b 0 + b 1 QM + b 2 DB + b 3 SL + b 4 TT + b 5 TG + b 6 KT + b 7 NN + e
− MDi: chỉ số mức ủộ cụng bố thụng tin bắt buộc về EPS;
Mô hình này được xây dựng để kiểm chứng sự ảnh hưởng của các nhân tố đối với mức độ công bố thông tin về EPS, và lần lượt được kiểm định với các biến tương ứng từ báo cáo tài chính năm (gọi là Mô hình 1a), báo cáo tài chính bán niên (gọi là Mô hình 1b) và báo cáo tài chính quý 2 (gọi là Mô hình 1c) Giá trị các biến được đo lường dựa trên các báo cáo tài chính tương ứng của các công ty đại chúng chưa niêm yết trên sàn đăng ký giao dịch UPCoM trong năm 2019 Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, báo cáo tài chính quý 2 của các công ty đại chúng sẽ không bắt buộc phải soát xét hay kiểm toán, do đó Mô hình 1c sẽ không bao gồm biến kiểm toán (KTĐL) Các biến độc lập được giải thích cụ thể ở Bảng 2.2 sau.
Bảng 2 2 Giải thớch biến ủộc lập
STT Ký hiệu biến Tên biến ðo lường biến Chiều ảnh hưởng dự báo
1 QM Quy mô công ty ðo bằng Logarith của tổng tài sản
2 đBTC đòn bẩy tài chắnh Tổng NPT/Tổng VCSH không ảnh hưởng
3 MSL Mức ủộ sinh lời Lợi nhuận/Doanh thu +
4 KNTT Khả năng thanh toán
Tài sản ngắn hạn/Nợ ngắn hạn không ảnh hưởng
5 TGHð Thời gian hoạt ủộng
Số năm công ty hoạt ủộng
6 KTðL Kiểm toỏn ủộc lập Biến giả:
1: nếu công ty kiểm toán ủộc lập thuộc nhúm Big4 0: nếu không thuộc nhóm Big4
7 TLVNN Vốn nhà nước Tỷ lệ vốn nhà nước/ vốn ủiều lệ của cụng ty
2.3.2 Mẫu nghiên cứu và thu thập dữ liệu
Trong số 903 công ty niêm yết trên sàn UPCoM, tác giả đã chọn ra 100 công ty để đo lường mức độ công bố thông tin về EPS, đồng thời kiểm chứng ảnh hưởng của các nhân tố đến mức độ công bố này Những công ty được chọn mẫu dựa trên tiêu chí là 100 công ty có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất trong danh sách.
Các BCTC quý 2, BCTC bán niên và BCTC năm 2019 của 100 công ty ủại chỳng chưa niờm yết ủược tải thủ cụng từ trang web chớnh thức của
SGDCK Hà Nội sử dụng các BTCT để đánh giá sự tuân thủ các chỉ mục CBTT, nhằm xác định mức độ CBTT về EPS Đồng thời, đây cũng là cơ sở để trích xuất dữ liệu phục vụ cho việc xác định giá trị các biến độc lập trong các mô hình hồi quy, như đã trình bày trong mục 2.3.1.
2.3.3 Phương pháp phân tích ðầu tiờn ủể ủỏnh giỏ mức ủộ CBTT về EPS, căn cứ vào thụng tin trỡnh bày trờn BCTC của cỏc cụng ty ủược chọn mẫu, tỏc giả cho ủiểm theo cỏc chỉ mục trong Bảng 2.1 ủể xỏc ủịnh mức ủộ CBTT bắt buộc Phương phỏp thống kờ mụ tả ủược sử dụng ủể ủỏnh giỏ mức ủộ CBTT về EPS ðồng thời phõn tớch phương sai một yếu tố (Anova) cũng ủược sử dụng ủể so sỏnh và ủỏnh giỏ mức ủộ CBTT về EPS giữa BCTC năm, BCTC bỏn niờn và BCTC quý 2 ðể ủỏnh giỏ cỏc nhõn tố ảnh hưởng ủến mức ủộ CBTT, tỏc giả sử dụng phõn tớch hồi quy mụ hỡnh theo phương phỏp bỡnh quõn bộ nhất (OLS) ủể kiểm ủịnh sự tồn tại của mụ hỡnh Cỏc thủ tục kiểm tra như kiểm tra hiện tượng ủa cộng tuyến giữa cỏc biến hay hiện tượng tự tương quan hay khụng cũng ủược thực hiện nhằm ủảm bảo ý nghĩ của kết quả phõn tớch hồi quy
Dựa trên các quy định về công bố thông tin tại Việt Nam và lý thuyết khung trình bày ở Chương 1, chương này xây dựng các giả thuyết nghiên cứu nhằm kiểm chứng sự ảnh hưởng của các nhân tố đến mức độ công bố thông tin về EPS trên báo cáo tài chính Mô hình hồi quy tuyến tính được thiết lập để ước lượng ảnh hưởng của bảy nhân tố tương ứng với bảy giả thuyết Các biến của mô hình, phương pháp chọn mẫu và cách thức thu thập báo cáo tài chính cũng được mô tả chi tiết Chương tiếp theo sẽ trình bày kết quả định lượng về mức độ công bố thông tin về EPS trong báo cáo tài chính của các công ty đại chúng chưa niêm yết ở Việt Nam và các nhân tố ảnh hưởng.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ ðÁNH GIÁ
HÀM Ý CHÍNH SÁCH VÀ KẾT LUẬN
HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Kết quả khảo sát cho thấy mức độ công bố thông tin về EPS trên báo cáo tài chính của các công ty chưa niêm yết tại Việt Nam còn thấp, với chỉ tiêu tổng hợp không vượt quá 75% Điều này dẫn đến tính hữu ích của thông tin về EPS bị hạn chế, đặc biệt đối với nhà đầu tư Việc nhận diện mức độ và chiều hướng ảnh hưởng của các yếu tố đến thực tế công bố thông tin về EPS là cơ sở để đưa ra khuyến nghị giúp người sử dụng và các bên liên quan có được thông tin hữu ích hơn Qua đó, nhằm minh bạch hóa và thúc đẩy sự phát triển của thị trường giao dịch Trên cơ sở những bằng chứng định lượng của nghiên cứu này, luận văn đề ra các khuyến nghị cụ thể.
4.1.1 ðối với ủơn vị cụng bố thụng tin
Kết quả thống kê cho thấy chỉ số công bố thông tin (CBTT) về EPS trên các loại báo cáo tài chính (BCTC) có sự chênh lệch lớn, với mức công bố về EPS cơ bản và EPS suy giảm rất khác biệt Điều này cho thấy các công ty chưa niêm yết trên sàn UPCoM chủ yếu tuân thủ công bố thông tin bắt buộc về EPS mà chưa chú trọng đến việc công bố chi tiết và các chỉ tiêu liên quan Hơn nữa, CBTT về EPS chỉ được chú trọng trong BCTC năm và BCTC báo cáo nửa năm, trong khi BCTC quý thường sơ sài và thiếu các chỉ tiêu liên quan đến EPS suy giảm Để cải thiện mức độ công bố thông tin về EPS, các doanh nghiệp nên xem xét và thực hiện các giải pháp phù hợp.
Các doanh nghiệp cần trình bày rõ ràng việc lập Báo cáo tài chính (BCTC) tuân thủ theo chuẩn mực kế toán VAS 30 và VAS 27 Việc không chỉ ra cụ thể các quy định tuân thủ mà chỉ đưa ra tuyên bố chung chung về việc tuân thủ chuẩn mực kế toán Việt Nam thường dẫn đến sai sót trong BCTC Điều này gây khó khăn cho người đọc báo cáo, đặc biệt là đối với những doanh nghiệp phải tuân thủ thêm các quy định riêng như ngân hàng, tổ chức tín dụng và bảo hiểm.
Khi trình bày số liệu về EPS cơ bản hoặc suy giảm trong báo cáo KQHðKD, cần phải làm rõ hơn ở phần thuyết minh BCTC Đặc biệt, khi giải trình chỉ tiêu EPS trong thuyết minh BCTC, cần phải cung cấp số liệu cụ thể từ báo cáo KQHðKD Nghiên cứu trên 100 công ty cho thấy một số công ty chỉ trình bày chỉ tiêu EPS trên báo cáo KQHðKD hoặc thuyết minh BCTC mà không đồng thời trình bày trên cả hai, đặc biệt là trong BCTC quý 2.
Vào thứ ba, liên quan đến việc công bố thông tin về EPS suy giảm, như đã phân tích ở trên, phần lớn các công ty không công bố thông tin về chỉ tiêu này Theo quy định tại VAS 30 (đoạn 65), doanh nghiệp có thể trình bày chung một số liệu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh nếu EPS cơ bản và EPS suy giảm bằng nhau, tuy nhiên cần ghi rõ là Lãi cơ bản trên cổ phiếu/Lãi suy giảm trên cổ phiếu.
Vào ngày thứ tư, trong báo cáo tài chính (BCTC) năm và BCTC quý, doanh nghiệp cần chú trọng đến việc trình bày chỉ tiêu EPS Không chỉ công bố thông tin về chỉ tiêu này, mà còn cần trình bày các chỉ tiêu liên quan, đặc biệt là các chỉ tiêu để tính EPS Điều này giúp người sử dụng hiểu rõ tình hình biến động của EPS qua từng kỳ báo cáo trong năm, cũng như nắm bắt nguyên nhân sự biến động này.
Vào thứ năm, khi công bố thông tin về EPS, doanh nghiệp không chỉ cần trình bày trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh mà còn phải nêu rõ phương pháp tính tử số và mẫu số của EPS trong phần thuyết minh báo cáo tài chính Ngoài ra, việc cung cấp thông tin so sánh cho người sử dụng báo cáo tài chính là rất cần thiết, đặc biệt là trong trường hợp một số đơn vị chỉ trình bày EPS cho số tổng hợp đầu năm mà không có số liệu cho quý 2 Điều này gây khó khăn cho nhà đầu tư và các đối tượng cần thông tin trong việc so sánh giữa các quý.
Vào thứ Hai, doanh nghiệp nên nỗ lực tăng cường số lượng thông tin được công bố, đặc biệt là các thông tin tự nguyện có khả năng ảnh hưởng đến chỉ số EPS cơ bản và EPS suy giảm Điều này bao gồm cả các thông tin dự báo, như thông tin về các quỹ phúc lợi, vì chúng có thể tác động lớn đến chỉ số EPS của đơn vị.
Quy định về công bố thông tin (CBTT) liên quan đến EPS suy giảm tại Việt Nam vẫn còn một số nội dung chưa rõ ràng, đặc biệt là trong đoạn 10 của VAS 27, nơi sử dụng khái niệm cần được làm rõ hơn.
Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu trước và sau ngày phân phối không nhất quán với thuật ngữ lợi nhuận cơ bản và suy giảm theo tiêu chuẩn IAS 34 Thông tư 20/2006/TT-BTC của Bộ Tài chính cũng không cung cấp thêm giải thích về việc trình bày chỉ tiêu lợi nhuận suy giảm trên mỗi cổ phiếu, điều này có thể ảnh hưởng đến cách thức trình bày các chỉ tiêu tài chính liên quan.
Để nâng cao mức công bố thông tin về EPS trên báo cáo tài chính (BCTC), Nhà nước và cơ quan quản lý cần hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn một cách rõ ràng, cụ thể và phù hợp với các chuẩn mực kế toán quốc tế Điều này đặc biệt quan trọng đối với quy định trình bày EPS trong BCTC quý, nhằm đảm bảo tính minh bạch và chính xác cho các công ty niêm yết.
Mặc dù các quy định hiện hành yêu cầu các công ty niêm yết phải công bố cả EPS cơ bản và EPS suy giảm trên báo cáo tài chính, nhưng nghiên cứu cho thấy mức công bố thông tin bắt buộc về EPS vẫn còn thấp, đặc biệt là đối với EPS suy giảm Nguyên nhân có thể là do chế tài xử phạt vi phạm công bố thông tin chưa được thực hiện nghiêm túc và thiếu tính răn đe Do đó, cần nâng cao hiệu quả giám sát và xử lý các sai phạm liên quan đến công bố thông tin nói chung và công bố về EPS nói riêng trên các sàn giao dịch.
SGDCK Hà Nội cần tiến hành rà soát kịp thời các báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty chưa niêm yết công bố trên sàn UPCoM Dựa vào kết quả rà soát, SGDCK yêu cầu các công ty giải trình hoặc điều chỉnh các chỉ tiêu về EPS chưa tuân thủ Sau khi rà soát, các công ty sẽ nhận thông báo bằng văn bản và bắt buộc phải nộp lại BCTC đã được chỉnh sửa kèm theo giải trình.
Hiện nay, nhiều công ty tại Việt Nam đang gặp phải sự chênh lệch thông tin giữa báo cáo tài chính quý 2 và báo cáo tài chính bán niên, đặc biệt là về mức độ công bố thông tin về EPS, với tỷ lệ lên tới 41.08% cho báo cáo quý 2 và 73.66% cho báo cáo bán niên Sự khác biệt này có thể do sai sót vô ý hoặc cố ý, đặc biệt là trong thông tin về lợi nhuận Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu chế tài xử phạt đối với các sai sót trong báo cáo tài chính tự lập, dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp lập báo cáo chỉ "cho có" hoặc lợi dụng sai sót để thu hút vốn Tình trạng này gây ra sự hỗn loạn trong thông tin thị trường và thiệt hại cho người sử dụng thông tin Để giảm thiểu tình trạng này, Việt Nam cần thiết lập chế tài nghiêm khắc đối với các lãnh đạo công ty và bộ phận kế toán, yêu cầu sự đồng thuận của kiểm toán trước khi công bố báo cáo Nhiều quốc gia như Malaysia và Hồng Kông đã áp dụng các quy định chặt chẽ để đảm bảo tính chính xác và thống nhất trong báo cáo tài chính, điều này cần được Việt Nam học hỏi để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý chất lượng báo cáo tại các sở giao dịch chứng khoán và các đơn vị liên quan là cần thiết Bằng cách xây dựng biểu mẫu chung cho doanh nghiệp, việc cập nhật thông tin báo cáo và yêu cầu nộp lên hệ thống sẽ giúp các cơ quan quản lý nhà nước dễ dàng hơn trong việc thu thập và kiểm soát thông tin Hơn nữa, việc liên kết thông tin giữa các ban ngành sẽ giảm thiểu tiêu cực, chẳng hạn như việc thống nhất biểu mẫu báo cáo với hệ thống thuế giúp Tổng cục thuế và các đơn vị thuế địa phương dễ dàng hơn trong việc quản lý thông tin và phát hiện các doanh nghiệp có dấu hiệu tiêu cực Sự giao lưu dữ liệu giữa thống kê, bảo hiểm và thuế cũng giúp phát hiện và hạn chế nhiều sai phạm, như sự không khớp giữa số liệu thuế thu nhập cá nhân và số liệu bảo hiểm.
4.1.3 Hàm ý từ sự ảnh hưởng của số năm hoạt ủộng
KẾT LUẬN
Hiện nay, tại Việt Nam, có nhiều nghiên cứu về mức độ công bố thông tin (CBTT) trên báo cáo tài chính (BCTC) của các doanh nghiệp, nhưng chủ yếu là tổng hợp và chưa có nghiên cứu riêng về mức độ CBTT về EPS trên BCTC của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Đặc biệt, đối với các công ty chưa niêm yết trên sàn UPCoM, tình hình CBTT về EPS vẫn còn hạn chế EPS là chỉ tiêu quan trọng đối với các bên liên quan, đặc biệt là nhà đầu tư Mặc dù UPCoM là sàn giao dịch còn non trẻ so với HNX và HOSE, nhưng lại có số lượng đăng ký giao dịch lớn nhất và phức tạp nhất tại Việt Nam Nghiên cứu này đi sâu vào mức độ CBTT và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT về EPS trên sàn UPCoM, cho thấy mức độ CBTT về EPS (bao gồm EPS cơ bản và EPS suy giảm) còn thấp, đặc biệt là thông tin về EPS suy giảm Nguyên nhân có thể do các công ty khảo sát ít quan tâm đến các hoạt động ảnh hưởng đến cổ phiếu, như phát hành cổ phiếu ưu đãi hay tách gộp cổ phiếu Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng số năm hoạt động là một nhân tố ảnh hưởng chung đến ba loại báo cáo, bên cạnh đó, luận văn cũng tìm ra thêm hai nhân tố khác có ảnh hưởng đến việc CBTT Từ đó, nghiên cứu cung cấp cái nhìn rõ ràng hơn về tình hình CBTT EPS trên từng loại BCTC hiện nay tại Việt Nam.
4.2.2 Hạn chế của nghiên cứu
Nghiên cứu này có những hạn chế về quy mô mẫu, với chỉ 100 công ty được nghiên cứu trên sàn UPCoM Cụ thể, nghiên cứu chỉ dựa vào 100 báo cáo tài chính năm, 100 báo cáo tài chính bán niên và 100 báo cáo tài chính quý, điều này có thể ảnh hưởng đến tính đại diện và độ tin cậy của kết quả.
Vào năm 2019, số lượng công ty đăng ký giao dịch trên sàn đã tăng lên 903 công ty vào năm 2020 Tuy nhiên, việc chọn mẫu chỉ dựa trên 100 doanh nghiệp có chỉ số vốn hóa cao nhất đã hạn chế ý nghĩa của nghiên cứu, đặc biệt là đối với sàn UPCoM, sàn giao dịch lớn nhất và phức tạp nhất tại Việt Nam Trong danh sách mẫu, 99 công ty đều thuộc các doanh nghiệp lớn, phải tuân thủ quy định giống như các công ty niêm yết, chỉ có một công ty không thuộc đối tượng này Các nghiên cứu tiếp theo nên mở rộng phạm vi bằng cách tăng cỡ mẫu và bổ sung các lựa chọn để đạt được mức độ tin cậy cao hơn.
Các chỉ tiêu để xác định mức độ công bố thông tin (CBTT) về EPS còn hạn chế, chưa đánh giá được mức độ quan trọng theo từng mục tin mà chỉ cố gắng bao quát đầy đủ các thông tin liên quan đến việc công bố EPS Thang đo chỉ mới dừng lại ở việc vận dụng phương pháp không có trọng số Do đó, các nghiên cứu sau có thể khảo sát các bên có liên quan để đánh giá được mức độ hữu ích của từng mục tin; trên cơ sở đó lựa chọn được các chỉ tiêu quan trọng để đưa vào hệ thống chỉ mục nhằm đánh giá mức độ CBTT về EPS chính xác và đáng tin cậy hơn.
Nghiên cứu về chất lượng công bố thông tin (CBTT) đã chỉ ra nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng này Trong nghiên cứu hiện tại, chỉ có bảy nhân tố được đưa ra, trong đó ba nhân tố có ảnh hưởng nhưng mức độ không cao Các nghiên cứu tiếp theo có thể mở rộng số lượng nhân tố để khảo sát và xác định những yếu tố có ảnh hưởng lớn hơn đến mức độ CBTT, đặc biệt là liên quan đến EPS.
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, việc có báo cáo tài chính minh bạch và hấp dẫn là yếu tố quan trọng để thu hút nhà đầu tư Chỉ tiêu lợi nhuận trên cổ phiếu (EPS) luôn được các nhà đầu tư dài hạn quan tâm vì nó phản ánh rõ ràng lợi ích khi đầu tư vào công ty Nghiên cứu này dựa trên số liệu của 100 công ty mẫu, nhằm giúp người đọc hiểu rõ thực trạng công bố thông tin về EPS trên báo cáo tài chính của các công ty chưa niêm yết tại Việt Nam Đồng thời, bài viết cũng đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng công bố thông tin về EPS, nhằm nâng cao chất lượng báo cáo tài chính và thu hút đầu tư, đồng thời hạn chế sai phạm trong báo cáo tài chính.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Tài chớnh (2005), “Quyết ủịnh về việc ban hành và cụng bố bốn (04) chuẩn mực kế toỏn Việt Nam (ủợt 5)”, Quyết ủịnh số 100/2005/Qð-
Bộ Tài chính đã ban hành hướng dẫn kế toán thực hiện bốn chuẩn mực kế toán theo Quyết định số 100/2005/QĐ-BTC vào ngày 28 tháng 12 năm 2005 Thông tư này cung cấp các quy định chi tiết nhằm đảm bảo sự nhất quán và chính xác trong việc áp dụng các chuẩn mực kế toán.
[3] Bộ Tài chớnh (2014), “Hướng dẫn chế ủộ kế toỏn doanh nghiệp”, Thụng tư 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014
[4] Bộ Tài chính (2015), “Hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán”, Thông tư 155/2015/TT-BTC ngày 06/10/2015
[5] Bộ Tài chớnh (2015), “Hướng dẫn về ủăng ký giao dịch chứng khoỏn trên hệ thống giao dịch cho chứng khoán chưa niêm yết”, Thông tư
[6] Bộ Tài chớnh (2019), “Sửa ủổi, bổ sung một số ủiều của Thụng tư số
Thông tư 180/2015/TT-BTC ban hành ngày 13 tháng 11 năm 2015 hướng dẫn về việc đăng ký giao dịch chứng khoán trên hệ thống giao dịch cho các chứng khoán chưa niêm yết Tiếp theo, Thông tư 13/2019/TT-BTC được ban hành ngày 15 tháng 03 năm 2019, nhằm cập nhật và bổ sung các quy định liên quan đến giao dịch chứng khoán.
Chính phủ đã ban hành Nghị định 58/2012/NĐ-CP vào ngày 20/07/2012, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán.
Nguyễn Hữu Cường (2015) trong bài viết “Công bố thông tin trong báo cáo tài chính giữa niên độ của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam: Tồn tại và giải pháp” đã chỉ ra những vấn đề tồn tại trong việc công bố thông tin tài chính của các công ty niêm yết Bài viết cũng đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện tính minh bạch và hiệu quả của báo cáo tài chính, góp phần nâng cao niềm tin của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
[9] Nguyễn Hữu Cường (2017), “Lý thuyết khung áp dụng trong nghiên cứu công bố thông tin trong báo cáo tài chính”, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, số tháng 4/2017, tr 22-25
Nguyễn Hữu Cường và Trịnh Thị Ngọc Mùi (2020) đã công bố nghiên cứu về thông tin báo cáo bộ phận của các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh Bài viết được đăng tải trên Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 501 Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về việc công bố thông tin tài chính của các doanh nghiệp, từ đó góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong hoạt động của thị trường chứng khoán.
Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Cường và Lê Thị Bảo Ngọc (2018) phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin của các doanh nghiệp ngành tiêu dùng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Bài viết được đăng trên Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 479, trang 33-42, cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối liên hệ giữa các yếu tố này và sự minh bạch trong hoạt động kinh doanh.
Nguyễn Hữu Cường và Dương Ngọc Như Quỳnh (2018) đã nghiên cứu về việc công bố thông tin tự ý trong báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Nghiên cứu được đăng tải trên Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 483, trang 44-53 Kết quả cho thấy việc công bố thông tin không đầy đủ có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự minh bạch và niềm tin của nhà đầu tư.
[13] Nguyễn Hữu Cường và Lê Thùy Trang (2019), “Công bố thông tin về lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu của các công ty niêm yết ở Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, 489, 11-20
Nghiên cứu của Huỳnh Thị Anh Đào (2015) tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu của các công ty trong ngành thực phẩm niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh Luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh này được thực hiện tại Trường Đại học Đà Nẵng, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố tác động đến thị trường chứng khoán trong lĩnh vực thực phẩm.
[15] Nguyễn Thị Thu Hảo (2015), “Cỏc nhõn tố ảnh hưởng ủến mức ủộ cụng bố thông tin tự nguyện của các doanh nghiệp niêm yết trên HOSE”,
Tạp chí phát triển kinh tế, 26 (11), 99-115
Sàn ủy thác chưa niêm yết (ðCCNY) đang gặp khó khăn trong việc thu hẹp quy mô hoạt động của sàn OTC Bài viết của Bựi Hiệp (2017) trên trang chungkhoanonline.com.vn phân tích những thách thức mà các sàn này phải đối mặt và ảnh hưởng của chúng đến thị trường chứng khoán Việc hiểu rõ tình hình hiện tại của sàn ðCCNY là cần thiết để các nhà đầu tư có những quyết định đúng đắn trong bối cảnh thị trường biến động.