Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển và xu hướng hội nhập toàn cầu NHTM đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ, khẳng định vị thế trong nền kinh tế thị trường Mục tiêu dài hạn của các ngân hàng vẫn là tối đa hóa lợi nhuận, tuy nhiên, sau giai đoạn phát triển nóng và khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, khả năng sinh lời của các ngân hàng đã có nhiều biến động, đặc biệt là sau quá trình tái cơ cấu từ 2012-2016.
Từ năm 2012 đến nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã gặp phải nhiều vấn đề nghiêm trọng, bao gồm khả năng thanh khoản yếu, tỷ lệ nợ xấu cao và đặc biệt là sự suy giảm lợi nhuận cũng như khả năng sinh lời.
Từ năm 2012 đến 2015, ROA và ROE bình quân của ngành ngân hàng có xu hướng giảm, nhưng đã tăng nhẹ vào năm 2016 Hệ số NIM cũng giảm từ 4% vào năm 2011 xuống gần 2% vào cuối năm 2015 Trước tình hình khó khăn này, ngành ngân hàng đang cần thiết phải nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại, nhằm đưa ra các biện pháp cải thiện hiệu quả kinh doanh.
Nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại (NHTM) đã được thực hiện đa dạng ở nhiều quốc gia, với trọng tâm là phân tích tác động của các yếu tố nội bộ và vĩ mô, cùng với môi trường pháp lý Các nghiên cứu tiêu biểu như của Ongore và Kusa (2012), Syafri (2012), và Pasiouras và Kosmidou (2007) đã chỉ ra rằng những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định khả năng sinh lời của ngân hàng.
Mặc dù có nhiều nghiên cứu toàn cầu về tác động đến khả năng sinh lời, nhưng các nghiên cứu liên quan đến Ngân hàng Thương mại (NHTM) Việt Nam vẫn còn hạn chế Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào xem xét ảnh hưởng của chi phí tài chính và hiệu quả nhân sự đến khả năng sinh lời của các NHTM Trong giai đoạn 2012-2016, cơ cấu đội ngũ nhân viên đã có những biến động đáng kể, cùng với sự dao động mạnh của lãi suất tiền vay, điều này càng làm nổi bật sự cần thiết phải nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.
Nghiên cứu “Các nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Việt Nam” được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng khả năng sinh lời của hệ thống NHTM Việt Nam, xác định các nhân tố ảnh hưởng và mức độ tác động của chúng Từ đó, nghiên cứu đưa ra giải pháp giúp các NHTM phát triển ổn định và bền vững, nâng cao khả năng cạnh tranh và sinh lời trong bối cảnh hiện nay.
Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định và đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố nội tại và ngoại tại đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2012-2016.
Mục tiêu cụ thể nhƣ sau:
Mục tiêu 1: Nhận diện tác động của các nhân tố nội tại đến khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam
Mục tiêu 2: Nhận diện tác động của các nhân tố ngoại tại đến khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam
Mục tiêu 3: Xác định mức độ tác động của từng nhân tố đến khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam
Dựa trên 3 mục tiêu này, luận văn đƣa ra 3 câu hỏi nghiên cứu cụ thể sau đây:
Câu hỏi 1: Những nhân tố nào đã tác động đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Câu hỏi 2: Mức độ tác động của các nhân tố ấy nhƣ thế nào?
Câu hỏi 3: Khuyến nghị nào để nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Việt Nam ?
Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu sẽ phân tích các yếu tố nội tại của ngân hàng cùng với các yếu tố vĩ mô tác động đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Phạm vi nghiên cứu sẽ được xác định rõ ràng để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong việc thu thập dữ liệu.
Nghiên cứu này sẽ sử dụng ROA và NIM làm đại diện cho khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại, đồng thời chúng cũng là biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu.
Giai đoạn 2012-2016 chứng kiến sự biến động lớn trong ngành ngân hàng, khi ngành này bắt đầu quá trình tái cơ cấu sau những tác động mạnh mẽ từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
Nghiên cứu này tập trung vào hiệu quả tài chính trong hoạt động kinh doanh của 27 ngân hàng thương mại Việt Nam, do 4 ngân hàng chưa cung cấp đầy đủ số liệu tính đến ngày 1/6/2017.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung vào các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2012-2016 Trong bối cảnh hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam trải qua nhiều thay đổi lớn, việc tiếp cận một cách toàn diện, có hệ thống và tổng hợp là cần thiết để hiểu rõ hơn về những yếu tố này.
Để tiếp cận và kế thừa tri thức cùng kinh nghiệm từ các nghiên cứu đã có tại Việt Nam, tôi đã chọn lọc dữ liệu với sự tôn trọng đối với công sức và trí tuệ của những người đi trước Nghiên cứu áp dụng và tổng hợp các lý thuyết nổi tiếng về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại (NHTM) Quá trình này bao gồm việc thu thập và xử lý dữ liệu từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2012-2016.
Sử dụng thống kê mô tả để phân tích khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại (NHTM) và các yếu tố tác động đến hiệu quả sinh lời trong giai đoạn hiện tại.
Nghiên cứu áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời Mô hình FEM và REM được sử dụng kết hợp với kiểm định Hausman trên dữ liệu bảng để phân tích hiệu quả.
Bố cục đề tài
Đề tài có bố cục 4 chương như sau:
TỔNG THUẬT
KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Trên thế giới cũng nhƣ tại Việt Nam, có rất nhiều khái niệm khác nhau về ngân hàng thương mại
Theo Rose (2002) mỗi quốc gia khác nhau sẽ có các khái niệm khác nhau về NHTM của quốc gia mình Cụ thể:
Ngân hàng thương mại (NHTM) là những tổ chức tài chính nhận tiền từ công chúng thông qua các hình thức như ký thác Số tiền này được NHTM sử dụng cho các hoạt động như chiết khấu, tín dụng và cung cấp dịch vụ tài chính.
Ngân hàng thương mại (NHTM) tại Mỹ là một công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính, chuyên cung cấp dịch vụ tiền tệ và các sản phẩm tài chính Trong khi đó, tại Ấn Độ, NHTM được xem là cơ sở tiếp nhận các khoản tiền gửi để thực hiện cho vay và tài trợ đầu tư.
Tại Việt Nam, ngân hàng thương mại được định nghĩa trong Điều 4, Chương I của Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 là loại hình ngân hàng thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật nhằm mục tiêu lợi nhuận Hoạt động ngân hàng bao gồm việc kinh doanh và cung ứng thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ như nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Tóm lại, có thể hiểu khái niệm về NHTM nhƣ sau:
NHTM là một trung gian tài chính quan trọng, thực hiện nhiều nghiệp vụ ngân hàng, chủ yếu bao gồm nhận tiền gửi từ công chúng và cung cấp dịch vụ tín dụng, thanh toán cho doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế.
1.1.2 Khái niệm khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Đối với doanh nghiệp mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận Lợi nhuận là một chỉ tiêu tài chính tổng hợp phản ảnh hiệu quả của toàn bộ quá trình đầu tƣ, sản xuất, tiêu thụ và những giải pháp kỹ thuật, quản lý kinh tế tại doanh nghiệp Để nhận thức đúng đắn về lợi nhuận thì không phải chỉ quan tâm đến tổng mức lợi nhuận mà cần phải đặt lợi nhuận trong mối quan hệ với vốn, tài sản, nguồn lực kinh tế tài chính mà doanh nghiệp đã sử dụng để tạo ra lợi nhuận trong từng phạm vi, trách nhiệm cụ thể
Theo Rose (2002), ngân hàng thương mại (NHTM) có thể được xem như một tập đoàn kinh doanh với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trong mức độ rủi ro cho phép Khả năng sinh lời là mục tiêu lâu dài của ngân hàng, giúp bảo toàn vốn, mở rộng thị phần và thu hút đầu tư Lợi nhuận của ngân hàng được xác định bởi chênh lệch giữa thu nhập và chi phí, trong đó phần lớn thu nhập đến từ lãi suất từ các khoản cho vay cá nhân, doanh nghiệp và chứng khoán Ngoài ra, ngân hàng cũng thu được thu nhập từ các khoản phí dịch vụ Chi phí chính mà ngân hàng phải chịu là lãi suất trả cho các khoản nợ, bao gồm tiền gửi của khách hàng, vay từ ngân hàng nhà nước và tổ chức tín dụng khác, cùng với tiền từ phát hành giấy tờ có giá.
Khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại là khả năng tạo ra lợi nhuận và mối quan hệ giữa lợi nhuận với các nguồn lực tạo ra nó Lợi nhuận được xác định là phần còn lại của thu nhập sau khi đã thanh toán mọi chi phí liên quan Các ngân hàng luôn chú trọng đến khả năng sinh lời vì nó ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của ngân hàng và sự bền vững của hệ thống ngân hàng thương mại nói chung.
Có nhiều phương pháp để phân tích khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại, trong đó nghiên cứu sẽ chú trọng vào các tỉ suất lợi nhuận Đây là thước đo quan trọng giúp đánh giá khả năng tạo ra thu nhập của ngân hàng so với chi phí phát sinh.
1.1.3 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại
Để đánh giá tình hình của ngân hàng thương mại (NHTM), cần xem xét mục tiêu chính mà cổ đông và ban giám đốc đặt ra Mỗi ngân hàng có những mục tiêu khác nhau tùy thuộc vào định hướng phát triển Mục tiêu hàng đầu trong quản trị tài chính của NHTM là tối đa hóa giá thị trường cổ phiếu Nếu giá cổ phiếu giảm, nhà đầu tư có thể lo ngại, gây khó khăn trong việc huy động vốn mới cho sự phát triển Mặc dù giá trị thị trường cổ phiếu phản ánh đánh giá của thị trường về hoạt động ngân hàng, nhưng chỉ tiêu này thường không đáng tin cậy do ít giao dịch Do đó, các nhà phân tích tài chính thường dựa vào chỉ tiêu lợi nhuận thay thế Từ góc độ tạo ra giá trị, tối đa hóa lợi nhuận trở thành mục tiêu chính của ngân hàng, nhằm gia tăng giá trị tài sản của cổ đông với mức độ rủi ro chấp nhận được Để đạt được mục tiêu này, ngân hàng cần tích cực tìm kiếm cơ hội mở rộng doanh thu và nâng cao chất lượng quản lý.
Các chỉ số tài chính quan trọng để đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại bao gồm: tỉ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA), tỉ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỉ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM), tỉ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên, và hệ số thu nhập trên cổ phiếu (EPS).
Giống như các chỉ số tài chính khác, tỷ lệ đo lường khả năng sinh lời có ý nghĩa khác nhau trong từng trường hợp ROA là chỉ số quan trọng phản ánh hiệu quả quản lý của ngân hàng, cho thấy khả năng chuyển đổi tài sản thành thu nhập ròng Ngược lại, ROE đo lường tỷ lệ thu nhập mà cổ đông nhận được từ khoản đầu tư vào ngân hàng.
Tỉ lệ thu nhập hoạt động cận biên, tỉ lệ thu nhập lãi cận biên và tỉ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên là những chỉ số quan trọng để đánh giá hiệu quả và khả năng sinh lời của ngân hàng Chúng phản ánh khả năng của ban lãnh đạo và nhân viên trong việc duy trì tăng trưởng doanh thu từ cho vay, đầu tư và phí dịch vụ so với chi phí, chủ yếu là chi phí lãi suất và chi phí hoạt động Tỉ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) đo lường sự chênh lệch giữa thu nhập từ lãi và chi phí lãi, trong khi tỉ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đánh giá chênh lệch giữa thu nhập từ phí dịch vụ và chi phí ngoài lãi Mặc dù tỉ lệ thu nhập từ phí đã tăng nhanh trong những năm gần đây, chênh lệch ngoài lãi thường vẫn âm, cho thấy chi phí ngoài lãi thường vượt quá doanh thu từ phí.
Một biện pháp quan trọng để đo lường hiệu quả chi tiêu thu nhập trong ngân hàng là chênh lệch lãi suất bình quân, phản ánh sự khác biệt giữa lãi suất đầu vào và đầu ra Chỉ tiêu này không chỉ đánh giá hiệu quả hoạt động trung gian của ngân hàng trong huy động vốn và cho vay, mà còn thể hiện mức độ cạnh tranh trên thị trường ngân hàng Cạnh tranh gia tăng thường dẫn đến việc thu hẹp chênh lệch lãi suất bình quân.
Ngoài các chỉ tiêu chính, còn có nhiều chỉ tiêu quan trọng khác như thu nhập cận biên trước giao dịch đặc biệt (NRST), tỉ lệ tài sản sinh lời, tỉ lệ sinh lời hoạt động (NPM) và tỉ lệ hiệu quả sử dụng tài sản (AU) Mỗi chỉ tiêu này phản ánh một khía cạnh cụ thể, giúp các nhà quản lý áp dụng linh hoạt trong từng tình huống để đạt hiệu quả cao nhất.
1.1.4 Các nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại
Trong các nghiên cứu học thuật trước đây, khả năng sinh lời thường bị ảnh hưởng bởi hai nhóm nhân tố chính: nhân tố nội tại và nhân tố ngoại tại Nhóm nhân tố ngoại tại bao gồm các yếu tố ngành và vĩ mô Một số nghiên cứu tiêu biểu sử dụng hai nhóm nhân tố này như nghiên cứu của Althanasoglou và các cộng sự (2008) cùng với nghiên cứu của Flamini và các cộng sự.
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
XÂY DỰNG CÁC BIẾN MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1.1 Xác định biến phụ thuộc của mô hình
Lợi nhuận là mục tiêu chính của các ngân hàng thương mại, với tất cả chiến lược được thiết kế nhằm đạt được mục tiêu này Tuy nhiên, ngân hàng cũng có các mục đích khác như mục đích xã hội và giảm rủi ro Khả năng sinh lời của ngân hàng thường được đánh giá qua các chỉ tiêu như tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA), tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) và tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) (Alexandru và cộng sự, 2008).
Theo Rose (2004), giá trị thị trường của cổ phiếu là chỉ số phản ánh tình hình hoạt động kinh doanh của công ty, thể hiện sự đánh giá của thị trường Tuy nhiên, chỉ số này thường không đáng tin cậy trong lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt là đối với các ngân hàng nhỏ, do thiếu giao dịch tích cực trên cả thị trường quốc tế và trong nước.
Theo Rose (2004), khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại thường được đánh giá qua hai chỉ tiêu chính là tỉ suất sinh lời trên tài sản (ROA) và tỉ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) Tuy nhiên, ROE có nhược điểm lớn là bị ảnh hưởng bởi đòn bẩy tài chính cũng như các quy định liên quan đến đòn bẩy này.
Theo Rose (2004), trong ngành ngân hàng, ngoài các chỉ tiêu truyền thống, còn có hai chỉ tiêu quan trọng phản ánh khả năng sinh lời là tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) và tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NNIM) Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo lường sự chênh lệch giữa thu nhập từ phí dịch vụ và các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải gánh chịu Tại Việt Nam, nhiều ngân hàng thương mại thường có tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên thấp, thậm chí có trường hợp âm do chi phí ngoài lãi vượt quá nguồn thu từ phí.
Nghiên cứu này sử dụng hai chỉ số ROA và NIM để đo lường khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại, trong khi không xem xét chỉ số ROE do nó không phản ánh đầy đủ rủi ro từ đòn bẩy tài chính Bên cạnh đó, chỉ số NNIM cũng không được sử dụng vì thu nhập lãi ngoài cận biên vẫn chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng thu nhập của các ngân hàng Việt Nam, do đó chưa đủ mạnh để làm thước đo đánh giá khả năng sinh lời Tỉ suất sinh lời trên tài sản (ROA) là chỉ số chính được tập trung phân tích.
ROA (Return on Assets) là một chỉ số tài chính quan trọng dùng để đánh giá khả năng sinh lời và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Theo Rose (2002), ROA được tính bằng lợi nhuận sau thuế chia cho tổng tài sản bình quân, cho thấy mức thu nhập mà các nhà quản lý tạo ra từ tài sản ngân hàng Chỉ số này không chỉ phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản thành doanh thu mà còn cho thấy sự hiệu quả trong quản lý ROA cao cho thấy ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn và có khả năng sinh lợi tốt hơn so với các ngân hàng có ROA thấp.
Rivard và Thomas (1997) đã xác định ROA là chỉ số tốt nhất để đánh giá lợi nhuận ngân hàng, nhờ vào việc không bị ảnh hưởng bởi vốn chủ sở hữu cao ROA cũng là tiêu chí quan trọng để xác định khả năng sinh lời từ tài sản của ngân hàng Golin (2011) đã khẳng định rằng ROA là thước đo quan trọng nhất trong việc đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại.
Tỉ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) đƣợc tính theo công thức sau
ROA (%) b Tỉ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM)
Theo Trịnh Hồng Hạnh (2015), NIM (Net Interest Margin) là chỉ số quan trọng đánh giá hiệu quả và khả năng sinh lời của ngân hàng, phản ánh chênh lệch giữa thu nhập từ lãi và chi phí trả lãi Chỉ số này cho thấy hiệu quả hoạt động của ngân hàng: tỷ lệ càng nhỏ, ngân hàng càng hoạt động hiệu quả và khả năng sinh lời càng cao Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên tốt là dấu hiệu cho thấy thu nhập từ khoản cho vay ổn định, hiệu quả sử dụng tài sản và khả năng sinh lợi từ nguồn vốn.
Theo đánh giá của Standard & Poor, tỷ lệ NIM dưới 3% được coi là thấp, trong khi NIM lớn hơn 5% là quá cao NIM thường cao ở các ngân hàng bán lẻ quy mô nhỏ, ngân hàng thẻ tín dụng và các tổ chức cho vay, hơn là ở các ngân hàng bán buôn, ngân hàng đa quốc gia hay tổ chức cho vay cầm cố Tỷ lệ NIM tăng cho thấy quản trị tài sản Nợ-Có tốt, trong khi NIM thấp và bị thu hẹp phản ánh lợi nhuận ngân hàng đang giảm Chỉ tiêu NIM giúp khắc phục ảnh hưởng của các hoạt động ngoại bảng, tập trung vào tỷ lệ thu nhập lãi ròng trên tổng tài sản.
Tỉ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) đƣợc tính theo công thức sau:
NIM (%) 2.1.2 Xác định biến độc lập của mô hình
Mục này mô tả các biến sử dụng để ước tính các biến phụ thuộc Như đã nêu trong chương 1, các nghiên cứu trước đã phân chia các biến độc lập thành ba nhóm: nhân tố kinh tế vĩ mô, nhân tố ngành và nhân tố nội tại Tuy nhiên, do hạn chế về dữ liệu, nghiên cứu này chỉ xem xét các biến độc lập thuộc nhóm nhân tố nội tại và nhóm nhân tố ngoại tại, bao gồm các nhân tố vĩ mô.
Việc xác định biến độc lập cần dựa vào đặc điểm của hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng như môi trường kinh tế hiện tại để chọn lựa các biến độc lập phù hợp.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện tại là một hệ thống ngân hàng hai cấp, bao gồm Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung Ương) và các tổ chức tín dụng với nhiều hình thức sở hữu và kinh doanh khác nhau, trong đó ngân hàng thương mại chiếm phần lớn Tuy nhiên, hệ thống này đang gặp khó khăn trong việc phát triển, với đặc điểm nổi bật là vốn tự có của các ngân hàng còn hạn chế, chỉ đạt hơn một tỷ.
Ngân hàng tại Việt Nam có vốn tự có lớn nhất chỉ đạt hơn 300 triệu USD, trong khi mức trung bình của các ngân hàng ở Thái Lan là khoảng 813 triệu USD và Singapore khoảng 1 tỷ USD Hơn nữa, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu thấp hơn mức tối thiểu 8% theo quy định của Ủy ban Basle.
Khả năng thanh khoản của Việt Nam đang gia tăng nhưng vẫn thấp hơn so với các quốc gia trong khu vực như Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Trung Quốc Đặc biệt, tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong thanh toán tại Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực, ngoại trừ Trung Quốc.
Nguồn nhân lực trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam hiện đang gặp nhiều bất cập và yếu kém Một số lượng lớn cán bộ ngân hàng được đào tạo ở nước ngoài trong thời kỳ bao cấp, dẫn đến trình độ ngoại ngữ và tin học chưa đáp ứng yêu cầu của ngành Theo Ngân hàng Nhà nước, việc nghiên cứu và phát triển khoa học ngân hàng vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển của ngân hàng công thương Việt Nam.
DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
Hầu hết các nghiên cứu tại Việt Nam sử dụng dữ liệu chéo và dữ liệu bảng, áp dụng phương pháp hồi quy bội theo nguyên tắc bình phương nhỏ nhất để phân tích mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và biến độc lập Phương pháp này được coi là đáng tin cậy trong việc ước lượng mối quan hệ tuyến tính Tuy nhiên, mô hình OLS với dữ liệu chéo có những ràng buộc về không gian và thời gian, khiến các hệ số hồi quy không đổi, có thể làm giảm thiểu ảnh hưởng thực sự của biến độc lập lên biến phụ thuộc, dẫn đến kết quả không phù hợp trong thực tế.
Nghiên cứu này áp dụng dữ liệu bảng từ 27 ngân hàng thương mại trong giai đoạn 2012-2016, kết hợp với hai mô hình ước lượng: Mô hình tác động cố định (FEM) và mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) Hai mô hình này cho phép phân tích sự khác biệt giữa các ngân hàng trong việc đánh giá tác động của các yếu tố đến khả năng sinh lời Đối với các biến kinh tế vĩ mô, nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và thông tin từ trang web www.worldbank.org.
MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU TỔNG THỂ
Nghiên cứu này dựa trên kết quả từ các nghiên cứu trước đây trong và ngoài nước, tiến hành phân tích định lượng nhằm xác định mối quan hệ giữa các yếu tố và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu định lượng được áp dụng trong bài viết này, sử dụng kỹ thuật hồi quy bảng để phân tích tác động của 9 yếu tố đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam, được đo lường bằng chỉ số ROA và NIM trong giai đoạn 2012-2016.
Nhƣ vậy theo phân tích trên đây cũng nhƣ dựa trên nghiên cứu của các tác giả Ongore và Kusa (2012), Pasiouras và Kosmidou (2007)
Mô hình nghiên cứu tổng thể đƣợc đƣa ra nhƣ sau:
Mô hình hồi quy cho ROA
ROA it =α 1 + β 1 Size it + β 2 EA it + β 3 LDR it + β 4 CIR it + β 5 LAE it
+ β 6 FDC it + β 7 NII it + β 8 GDP t + e i β 9 INF it + ε it
Mô hình hồi quy cho NIM
NIM it = α 1 + β 1 Size it + β 2 EA it + β 3 LDR it + β 4 CIR it + β 5 LAE it
+ β 6 FDC it + β 7 NII it + β 8 GDP t + e i β 9 INF it + ε it
Trong đó: α1: Hệ số chặn β 1 , β 2 ,β 3 ,β 4 ,β 5 ,β 6 ,β 7 , β 8 : Tham số chƣa biết của mô hình ε it : Phần dƣ
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) của ngân hàng (i) tại thời điểm t phản ánh khả năng sinh lời từ tài sản của ngân hàng đó Trong khi đó, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) của ngân hàng (i) tại thời điểm t cho thấy hiệu quả trong việc tạo ra thu nhập từ các khoản cho vay và đầu tư Cả hai chỉ số này đều đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu suất tài chính của ngân hàng.
-SIZE it :Quy mô ngân hàng của ngân hàng (i) tại thời điểm t
-EAit : Cấu trúc vốn chủ sở hữu của ngân hàng (i) tại thời điểm t
-LDRit :Tỉ lệ thanh khoản của ngân hàng (i) tại thời điểm t
-CIRit :Ti lệ chi phí thu nhập của ngân hàng (i) tại thời điểm t
-LAEit : Tỉ lệ chi phí lương nhân viên trên tổng thu nhập của ngân hàng (i) tại thời điểm t
-FDCit: Tỉ lệ chi phí tài chính của ngân hàng (i) tại thời điểm t
-NIIit: Tỉ lệ thu nhập ngoài lãi của ngân hàng (i) tại thời điểm t
-GDPt :Tốc độ tăng trưởng GDP tại năm t
-INF t :lạm phát tại năm t