Tính cấp thiết của đề tài
Báo cáo tài chính (BCTC) là công cụ quan trọng để duy trì tính minh bạch trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt đối với công ty niêm yết và công ty đại chúng Tuy nhiên, tình trạng sai sót trong BCTC đã trở thành vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng đến niềm tin vào thị trường vốn cả ở Việt Nam và trên thế giới Nhiều vụ gian lận BCTC đã dẫn đến sự sụp đổ của các công ty lớn, với 6 trong 10 vụ bê bối tài chính lớn nhất toàn cầu liên quan đến gian lận BCTC Các vụ việc điển hình như WorldCom, Enron, và Olympus đã gây thiệt hại hàng tỷ USD Tại Việt Nam, những năm gần đây cũng ghi nhận nhiều vụ gian lận thông tin trên BCTC, như trường hợp của công ty Bông Bạch Tuyết và Công ty Cổ phần Dược Viễn Đông, cùng với các sai phạm nghiêm trọng trong ngành xăng dầu giai đoạn 2011-2014 được phát hiện bởi Kiểm Toán Nhà Nước.
1 : Ngọc Vũ (theo CNNMoney / List25) 10 vụ bê bối đình đám nhất của các doanh nghiệp trên thế giới ngày 16/10/2015
Việc phát hiện gian lận báo cáo tài chính (BCTC) là vô cùng cần thiết, dẫn đến nhiều nghiên cứu liên quan Hầu hết các nghiên cứu trước đây tập trung vào việc sử dụng thông tin tài chính và phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết để dự báo rủi ro gian lận BCTC, cũng như phân tích các yếu tố nhận diện rủi ro này Mặc dù việc xây dựng các phương pháp dự báo rủi ro gian lận rất có ý nghĩa, nhưng chúng lại gây khó khăn cho nhà đầu tư và các bên liên quan, vì tính phức tạp và yêu cầu cao về xét đoán, mà ngay cả kiểm toán viên cũng gặp khó khăn trong việc áp dụng.
Trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam đã có những triển vọng tích cực, đặc biệt sau khi ký kết Hiệp định CPTPP, giúp Việt Nam trở thành một trong những nước hưởng lợi nhiều nhất từ hiệp định này, đặc biệt là các ngành dệt may, da giày, gỗ và khu công nghiệp Tuy nhiên, để được hưởng thuế suất ưu đãi từ CPTPP, doanh nghiệp trong nước chỉ được phép sử dụng nguyên liệu trong nước hoặc nhập khẩu từ các nước thành viên CPTPP Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ và vốn hạn chế, dẫn đến việc đầu tư vào cung ứng nguyên vật liệu chưa được chú trọng Do đó, ngành nguyên vật liệu đang có tiềm năng phát triển lớn và cần được đầu tư hơn nữa Để thu hút nguồn đầu tư cho ngành này, tính minh bạch và trung thực trong thông tin là rất quan trọng, nhưng hiện tại, cơ chế phát hiện và xử lý sai sót ở Việt Nam vẫn chưa hoàn thiện, do đó, vấn đề sai sót báo cáo tài chính trong ngành nguyên vật liệu cần được quan tâm hơn.
Nghiên cứu về việc nhận diện sai sót trên báo cáo tài chính (BCTC) của các doanh nghiệp ngành nguyên vật liệu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam nhằm giúp cải thiện độ tin cậy của BCTC và hỗ trợ các nhà đầu tư trong việc đánh giá sai sót dựa trên thông tin tài chính Kết quả nghiên cứu không chỉ mang lại giải pháp giúp nhà đầu tư lựa chọn danh mục cổ phiếu hợp lý, tối đa hóa lợi ích, mà còn giúp người cho vay đưa ra quyết định chính xác Đồng thời, nghiên cứu cũng cung cấp cái nhìn sâu sắc cho các nhà quản lý thị trường và hoạch định chính sách, từ đó có thể loại bỏ doanh nghiệp gian lận, bảo vệ nhà đầu tư và thị trường chứng khoán Việt Nam Nghiên cứu sẽ áp dụng mô hình của Dechow và các cộng sự (2012) để kiểm định tính phù hợp trong bối cảnh Việt Nam, sử dụng dữ liệu từ các doanh nghiệp ngành nguyên vật liệu niêm yết trong giai đoạn 2013 đến nay.
2016 Thông qua đó cũng đưa ra những phương hướng đề xuất phù hợp giúp giảm thiểu khả năng thao túng trên các BCTC của doanh nghiệp.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn này là phát triển mô hình nghiên cứu nhằm phát hiện sai sót trong báo cáo tài chính (BCTC) của các doanh nghiệp ngành nguyên vật liệu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, dựa trên nghiên cứu của Dechow và các cộng sự (2012) Luận văn cũng đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện khả năng phát hiện sai sót trong BCTC cho các kiểm toán viên (KTV) và nhà đầu tư, góp phần nâng cao tính minh bạch và độ tin cậy của thông tin tài chính trên thị trường.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn này nghiên cứu về sai sót trong báo cáo tài chính (BCTC) của các doanh nghiệp ngành nguyên vật liệu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, tập trung vào các sai sót do gian lận và sai sót không cố ý Đặc biệt, nội dung gian lận được nhấn mạnh do sự quan trọng của việc đánh giá các thủ thuật gian lận và phương pháp phát hiện chúng Trong bối cảnh thiếu thông tin về gian lận báo cáo tài chính, luận văn sử dụng sai sót trọng yếu liên quan đến việc thổi phồng lợi nhuận như một chỉ số tương đối để đo lường gian lận.
- Về mặt nội dung: Sai sót do gian lận BCTC
- Về mặt không gian: Phạm vi nghiên cứu là các doanh nghiệp ngành nguyên vật liệu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
- Về mặt thời gian: Nghiên cứu sai sót trong BCTC của các doanh nghiệp ngành nguyên vật liệu từ năm 2013 đến 2016.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu dựa trên nguồn dữ liệu thứ cấp là các báo cáo tài chính của
73 doanh nghiệp ngành nguyên vật liệu niêm yết trên thị trường chứng khoán
Nghiên cứu tại Việt Nam áp dụng mô hình F-score của Dechow và các cộng sự (2012) nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sai sót trên báo cáo tài chính (BCTC) Phương pháp phân tích hồi quy tương quan được sử dụng để xây dựng mô hình các yếu tố tác động đến sai sót BCTC ở các doanh nghiệp ngành nguyên vật liệu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm các nội dung chính sau:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhận diện sai sót và các mô hình nhận diện trên BCTC
- Chương 2: Thiết kế nghiên cứu
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu
- Chương 4: Kết luận và hàm ý chính sách.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHẬN DIỆN SAI SÓT VÀ CÁC MÔ HÌNH NHẬN DIỆN TRÊN BCTC
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ SAI SÓT TRONG BCTC CỦA
Các sai sót trong báo cáo tài chính (BCTC) có thể do gian lận hoặc nhầm lẫn gây ra Để phân biệt, cần xem xét tính chất cố ý hay không cố ý của hành vi dẫn đến sai sót Luận văn này tập trung nghiên cứu các sai sót cố ý, cụ thể là các gian lận trong BCTC của doanh nghiệp.
1.1.1 Khái niệm sai sót và gian lận
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 240 (ISA 240), sai sót trong báo cáo tài chính có thể do gian lận hoặc nhầm lẫn Để phân biệt, cần xem xét tính chất của hành vi dẫn đến sai sót: nhầm lẫn là sai sót không cố ý, trong khi gian lận là sai sót cố ý Gian lận được nhấn mạnh trong luận văn vì tài liệu chủ yếu tập trung vào việc đánh giá các thủ thuật gian lận và phương pháp phát hiện gian lận trong báo cáo tài chính.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 240 (ISA 240), nhầm lẫn được định nghĩa là những lỗi không cố ý có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính (BCTC) Những ví dụ phổ biến về nhầm lẫn bao gồm lỗi trong thu thập và xử lý dữ liệu khi lập BCTC, sai sót trong việc thực hiện các ước tính kế toán không chính xác, và việc áp dụng không đúng các nguyên tắc kế toán.
Gian lận, theo từ điển Tiếng Việt, là hành vi dối trá và mánh khóe nhằm lừa lọc người khác Trong nghĩa rộng hơn, gian lận được hiểu là việc xuyên tạc sự thật và thực hiện các hành vi không hợp pháp để đạt được lợi ích cá nhân thông qua sự dối trá và lừa gạt.
Theo Hiệp hội các nhà điều tra gian lận Hoa Kỳ (ACFE), gian lận được định nghĩa là hành vi lạm dụng hoặc sử dụng sai tài sản và nguồn lực của doanh nghiệp một cách có chủ ý nhằm mục đích thu lợi cá nhân.
Theo Hiệp hội Kiểm toán nội bộ (IIA), gian lận là hành vi bất hợp pháp nhằm lừa gạt, che giấu hoặc lợi dụng sự tín nhiệm, không phụ thuộc vào áp lực vật chất Hành vi này có thể do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện để thu lợi về tiền, tài sản hoặc lợi ích cá nhân Uỷ ban thuộc Hội đồng Quốc gia về chống gian lận trên BCTC (Treadway Commission 1987) định nghĩa gian lận trên BCTC là hành vi cố ý hoặc thiếu thận trọng dẫn đến sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính Gian lận này có thể diễn ra dưới nhiều hình thức, bao gồm làm giả hồ sơ, xuyên tạc thông tin doanh nghiệp, bỏ sót thông tin quan trọng và áp dụng sai các nguyên tắc kế toán.
Theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA 240, gian lận được định nghĩa là hành vi cố ý của một hoặc nhiều cá nhân trong Ban quản trị, ban Giám đốc, nhân viên hoặc bên thứ ba, nhằm thực hiện các hành vi gian dối để thu lợi bất chính hoặc bất hợp pháp.
Luận văn này áp dụng thuật ngữ theo VSA 240, phân loại sai sót thành hai loại chính là gian lận và nhầm lẫn, nhằm đảm bảo tính hợp pháp tại Việt Nam Trong khi đó, các thuật ngữ tiếng Anh tương ứng lại là "misstatement", bao gồm "fraud" cho gian lận và "error" cho sai sót.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 240 (VSA 240), gian lận được định nghĩa là hành vi cố ý của một hoặc nhiều người trong Ban quản trị, Ban Giám đốc, nhân viên hoặc bên thứ ba nhằm thu lợi bất chính Để phân biệt gian lận và nhầm lẫn, cần xem xét tính chất cố ý của hành vi dẫn đến sai sót trong báo cáo tài chính Chẳng hạn, việc ghi chép sai về đơn giá hoặc số lượng hàng bán thường là nhầm lẫn, trong khi giả mạo chứng từ để ghi nhận các nghiệp vụ không xảy ra lại là hành vi gian lận.
Có hai loại gian lận quan trọng mà KTV cần chú ý là lập báo cáo tài chính gian lận và hành vi biển thủ, tham ô tài sản Cả hai hình thức gian lận này đều có thể gây thiệt hại cho người sử dụng báo cáo tài chính Lập báo cáo tài chính gian lận dẫn đến việc cung cấp thông tin không trung thực, ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người dùng Trong khi đó, hành vi tham ô và biển thủ tài sản gây thiệt hại cho chủ sở hữu, chủ nợ và các bên liên quan do mất quyền sở hữu và kiểm soát các tài sản đó.
Gian lận là hành vi khó phát hiện do con người cố ý che giấu Nghiên cứu các yếu tố liên quan giúp nhận diện khả năng gian lận trong các đơn vị Trong nhiều thập niên qua, các nhà nghiên cứu đã đóng góp vào việc hiểu biết về gian lận, đặc biệt là thông qua tam giác gian lận Tam giác này gồm ba yếu tố chính: động cơ hoặc áp lực để gian lận, cơ hội thực hiện hành vi gian lận, và việc hợp lý hóa hành vi đó Khi cả ba yếu tố này xuất hiện, nguy cơ gian lận xảy ra sẽ rất cao.
Động cơ và áp lực trong ngành kinh doanh thường xuất phát từ những khó khăn trong hoạt động và tình hình kinh tế Ban giám đốc phải đối mặt với áp lực để đáp ứng kỳ vọng của các bên thứ ba, trong khi thu nhập của họ có thể bị ảnh hưởng bởi kết quả hoạt động của doanh nghiệp, do họ có lợi ích tài chính lớn trong đơn vị.
Cơ hội cho việc lập báo cáo tài chính gian lận xuất hiện từ đặc điểm của ngành và các hoạt động của đơn vị, bao gồm giao dịch giữa các bên liên quan, nghiệp vụ có giá trị bất thường hoặc phức tạp, và các giao dịch phát sinh gần thời điểm kết thúc kỳ kế toán Việc sử dụng đơn vị kinh doanh trung gian mà không có lý do rõ ràng cũng tạo ra cơ hội cho gian lận Hơn nữa, sự thiếu hiệu quả trong giám sát hoạt động của Ban Giám đốc do sự độc quyền quản lý của một cá nhân hoặc nhóm người, cùng với việc thiếu các thủ tục kiểm soát bổ sung, làm tăng nguy cơ gian lận Cơ cấu tổ chức phức tạp hoặc không ổn định và hệ thống kiểm soát nội bộ yếu kém cũng góp phần tạo ra cơ hội cho hành vi gian lận.
Thái độ và biện minh cho hành động trong quản lý có thể xuất phát từ việc cấp quản lý không truyền đạt các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp đúng đắn Ngoài ra, Ban Giám đốc thiếu chuyên môn tài chính nhưng lại can thiệp quá mức vào các chính sách kế toán hoặc ước tính kế toán quan trọng cũng là nguyên nhân Hơn nữa, nếu Ban Giám đốc có tiền sử vi phạm pháp luật về chứng khoán hoặc các quy định khác, điều này càng làm tăng thêm sự thiếu minh bạch Cuối cùng, việc Giám đốc đồng thời là chủ sở hữu và không phân tách rõ ràng giữa giao dịch cá nhân và giao dịch kinh doanh cũng có thể dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng trong quản lý tài chính.
Gian lận được định nghĩa là hành vi bất hợp pháp nhằm lừa gạt cá nhân hoặc tổ chức để thu lợi ích Đây là một hành động không đúng đắn, vi phạm pháp luật và có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho nạn nhân.
1.1.2 Phân loại hành vi gian lận trên BCTC
CÁC LÝ THUYẾT NỀN TẢNG GIẢI THÍCH CHO HÀNH VI GIAN LẬN TRÊN BCTC
1.2.1 Lý thuyết giải thích hành vi gian lận
Hành vi gian lận trong doanh nghiệp có thể được lý giải qua lý thuyết ủy nhiệm của Jensen và Meckling (1976), nhấn mạnh mối quan hệ giữa các bên liên quan và động cơ của họ trong việc tối ưu hóa lợi ích cá nhân Lý thuyết này cho thấy rằng khi các bên có lợi ích không đồng nhất, có thể dẫn đến hành vi gian lận nhằm bảo vệ lợi ích của mình.
Lý thuyết ủy nhiệm mô tả mối quan hệ giữa người sở hữu vốn doanh nghiệp và người điều hành, người đại diện thực hiện các quyết định của doanh nghiệp Theo nghiên cứu của Jensen và Meckling, lý thuyết này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quản lý mối quan hệ giữa các bên liên quan để tối ưu hóa hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Sự phân định giữa quyền sở hữu và quyền điều hành doanh nghiệp từ năm 1976 đã tạo ra những nguy cơ làm giảm hiệu quả hoạt động, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư.
Trong mối quan hệ giữa người sở hữu và người điều hành, người điều hành thường đưa ra quyết định nhằm tối đa hóa lợi ích cá nhân thay vì giá trị doanh nghiệp Hành vi tư lợi này bao gồm việc tiêu thụ nguồn lực doanh nghiệp dưới hình thức bổng lộc và từ chối những cơ hội đầu tư có lợi do sợ rủi ro Trong khi đó, người sở hữu mong muốn tối đa hóa lợi ích thông qua việc gia tăng giá trị doanh nghiệp Mâu thuẫn lợi ích giữa hai bên là nguyên nhân chính dẫn đến hành vi tư lợi của người điều hành, bao gồm cả gian lận báo cáo tài chính, theo lý thuyết các đối tượng có liên quan của Freeman (1984).
Lý thuyết các đối tƣợng có liên quan là một lý thuyết về quản lý và đạo đức kinh doanh trong một tổ chức
Theo Freeman (1984), các đối tượng liên quan bao gồm bất kỳ nhóm hoặc cá nhân nào có khả năng ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi mục tiêu của tổ chức Lý thuyết này nhấn mạnh rằng sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người điều hành, mà còn vào mối quan hệ với các nhóm đối tượng khác như nhân viên, nhà cung cấp, khách hàng, cơ quan chính phủ, các nhóm chính trị, hiệp hội thương mại và tổ chức công đoàn.
Khi có nhiều cá nhân và nhóm người bị ảnh hưởng bởi hoạt động của doanh nghiệp, sẽ phát sinh nhiều mục tiêu lợi ích cá nhân khác nhau Vấn đề quan trọng là làm thế nào để thống nhất những mục tiêu này, đồng thời tạo ra giá trị cho doanh nghiệp mà vẫn thỏa mãn lợi ích của các bên liên quan Tuy nhiên, những mâu thuẫn lợi ích có thể dẫn đến hành vi gian lận nhằm trục lợi trong mối quan hệ với các đối tượng liên quan.
1.2.2 Lý thuyết nghiên cứu hành vi gian lận a Lý thuyết về phân loại xã hội của Edwin H Sutherland (1883-
Edwin H Sutherland là một trong những nhà tội phạm học và xã hội học nổi tiếng của Mỹ trong thế kỷ XX, được biết đến như cha đẻ của thuật ngữ "tội phạm trắng".
Thuật ngữ "white-collar" thường được sử dụng để chỉ những hành vi gian lận của các nhà quản lý cấp cao trong doanh nghiệp Edwin H Sutherland được coi là người tiên phong trong nghiên cứu về gian lận của nhà quản lý, nhờ vào những công trình nghiên cứu sâu sắc và có ảnh hưởng lớn trong lĩnh vực này.
Edwin H Sutherland đã phản bác quan điểm cho rằng tội phạm chỉ xảy ra ở các tầng lớp thấp trong xã hội, chứng minh rằng tội phạm cũng xuất hiện ở những người có địa vị cao và mối quan hệ rộng Những điều kiện xã hội thuận lợi đã tạo cơ hội cho họ thực hiện hành vi gian lận trong hoạt động nghề nghiệp Hiện nay, các nhà tội phạm học toàn cầu đã mở rộng nghiên cứu về gian lận trong quản lý, đặc biệt là tội phạm trong doanh nghiệp, được định nghĩa là hành vi vi phạm pháp luật hình sự do các thực thể kinh doanh hoặc đại lý của họ thực hiện Thêm vào đó, lý thuyết tam giác gian lận của Donald R Cressey đã góp phần làm sáng tỏ các yếu tố dẫn đến hành vi gian lận trong môi trường doanh nghiệp.
Lý thuyết tam giác gian lận do Donald R Cressey, một nhà nghiên cứu tội phạm vào những năm 1940, phát triển nhằm phân tích gian lận qua góc độ tham ô và biển thủ Sau khi khảo sát hơn 200 trường hợp tội phạm kinh tế, Cressey đã chỉ ra rằng gian lận thường xảy ra khi ba yếu tố hội tụ: áp lực hoặc động cơ, cơ hội và thái độ hoặc cá tính Mô hình này giúp nhận diện các nhân tố dẫn đến hành vi gian lận trong lĩnh vực kinh tế.
Gian lận thường phát sinh khi nhân viên, người điều hành hoặc tổ chức phải đối mặt với áp lực, như tổn thất tài chính, khó khăn kinh tế, hoặc xung đột trong mối quan hệ giữa chủ và nhân viên.
Cơ hội gian lận xuất hiện khi có áp lực hoặc động cơ thúc đẩy, và theo Cressey, hai yếu tố chính tạo ra cơ hội này là khả năng nắm bắt thông tin và kỹ năng thực hiện hành vi gian lận.
Theo nghiên cứu của Cressey, hành vi gian lận phụ thuộc vào thái độ và cá tính của mỗi cá nhân Một số người, dù phải đối mặt với áp lực và có cơ hội để gian lận, vẫn giữ vững nguyên tắc và không thực hiện hành vi sai trái.
Mô hình tam giác gian lận được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu và đánh giá rủi ro gian lận ở nhiều lĩnh vực, bao gồm cả kiểm toán Hiện nay, mô hình này đã được tích hợp vào các tiêu chuẩn VSA 240 và ISA.
240 nhằm giúp KTV trong bước thực hiện các thủ tục đánh giá rủi ro có gian lận tại các công ty đƣợc kiểm toán
Lý thuyết về bàn cân gian lận của D W Steven Albrecht
Albrecht, nhà tội phạm học tại trường đại học Brigham Young, cùng hai đồng sự đã nghiên cứu để xác định các dấu hiệu quan trọng của gian lận, giúp nhà quản lý phát hiện và ngăn chặn kịp thời Ông đã phân tích 212 trường hợp gian lận vào những năm 1980 thông qua bảng khảo sát và xây dựng danh sách 50 dấu hiệu báo động đỏ về gian lận Kết quả nghiên cứu dẫn đến việc Albrecht phát triển mô hình bàn cân gian lận nổi tiếng, bao gồm ba nhân tố: áp lực hoàn cảnh, cơ hội và tính trung thực cá nhân.
CÁC MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ GIAN LẬN TRÊN BCTC
Mô hình P-score, được phát triển bởi Igor Pustylnick vào năm 2011, là một sự bổ sung dựa trên công thức của mô hình Z-score Mặc dù công thức tính của P-score tương tự như Z-score, nhưng thay vì sử dụng thu nhập thuần và vốn lưu động, mô hình này sử dụng doanh thu và vốn chủ sở hữu.
Nghiên cứu của Igor Pustylnick (2011) không chỉ kết hợp mô hình chỉ số Z-score và P-score mà còn bổ sung thêm hai biến số quan trọng là ΔP và ΔZ.
- Tỷ số thay đổi của P (ΔP) ΔP = P (t) – P (t – 1)
- Tỷ số thay đổi của Z (ΔZ) ΔZ = Z (t) – Z (t – 1)
Igor Pustylnick (2011) đã tiến hành một nghiên cứu trên 29 doanh nghiệp có lịch sử gian lận đã được công bố Trong nghiên cứu này, ông đã tính toán các chỉ số Z, P, ΔP và ΔZ trong vòng 5 năm trước khi phát hiện gian lận trên báo cáo tài chính (BCTC) Cách quy đổi thời gian được thực hiện như sau: Năm 1 tương ứng với năm phát hiện gian lận, và các năm tiếp theo được tính tương tự cho đến năm 5 Đối với hiệu số ΔP - ΔZ, thời gian quy đổi là 4 năm.
Năm 1 là mốc để tính ΔP và ΔZ, và qua quá trình nghiên cứu, Igor Pustylnick (2011) đã xác định rằng hiệu số ΔP - ΔZ lớn hơn 0.37 là dấu hiệu của gian lận báo cáo tài chính Mô hình mới của ông đã được điều chỉnh để phản ánh thực tế hơn, dựa trên kết quả nghiên cứu năm 1998 cho thấy hơn 50% trường hợp gian lận liên quan đến thời điểm ghi nhận doanh thu và gian lận tài sản Igor Pustylnick (2011) đã linh hoạt thay đổi các chỉ số trong mô hình Zscore nhằm nâng cao khả năng phát hiện gian lận trên báo cáo tài chính.
Nghiên cứu năm 2011 chủ yếu tập trung vào phân tích xu hướng biến động tăng giảm, yêu cầu dữ liệu phải được thu thập qua nhiều năm quan sát Tuy nhiên, một hạn chế của mô hình này là việc thu thập dữ liệu cũ trong thời gian dài gặp khó khăn Hơn nữa, số mẫu nghiên cứu chỉ có 29 mẫu, chưa đủ để bao quát nhiều khía cạnh.
Mô hình F-score đƣợc phát triển bởi Dechow và các cộng sự (2012) là công cụ giúp phát hiện gian lận BCTC hiệu quả Dechow và các cộng sự
Năm 2012, một cuộc khảo sát đã được thực hiện trên 2,191 báo cáo tài chính (BCTC) của các doanh nghiệp niêm yết trong khoảng thời gian từ 1982 đến 2005 Kết quả cho thấy có 680 doanh nghiệp có dấu hiệu nghi ngờ về sai sót trong BCTC quý và BCTC năm.
Theo thống kê, hơn 55% trường hợp gian lận liên quan đến doanh thu, tiếp theo là gian lận về hàng tồn kho và giá vốn, trong khi khoảng 10% liên quan đến các khoản dự phòng.
Các bước tiến hành trong nghiên cứu của Dechow và các công sự (2012) theo thứ tự nhƣ sau:
- Thực hiện việc so sánh BCTC của các doanh nghiệp có sai sót trong năm sai sót với những năm khác
- So sánh BCTC của các doanh nghiệp có sai sót trong thời gian xảy ra sai sót với các doanh nghiệp đƣợc niêm yết khác ở cùng thời gian
- Xây dựng mô hình dự báo sai sót
Trước khi chọn các biến độc lập cho mô hình, Dechow và cộng sự (2012) đã phân tích dữ liệu doanh nghiệp trong các năm có và không có sai sót, cho thấy giá cổ phiếu thường tăng trước khi xảy ra sai sót và giảm khi sai sót được phát hiện Trong giai đoạn xảy ra sai sót, lãi gộp từ doanh thu bằng tiền mặt tăng, trong khi tỷ suất lợi nhuận giảm và các khoản trích trước tăng cao bất thường Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trong thời kỳ tài chính yếu kém, hoạt động thuê gia tăng đáng kể Nhà đầu tư thường kỳ vọng cao hơn về khả năng sinh lợi trong tương lai của các doanh nghiệp có sai sót Mẫu nghiên cứu được sử dụng để xây dựng mô hình dự báo sai sót trên báo cáo tài chính với ba mức độ khác nhau.
Mô hình bao gồm bảy biến giải thích nhƣ sau:
MISSTATEMENT = -7.893 + 0.790 RSST + 2.518 CHREC + 1.191 CHINV + 1.979 SOFTASSETS + 0.171 CHCASHSALES - 0.932 CHROA +
- RSST – Các khoản kế toán dồn tích
RSST = (∆WC + ∆NCO + ∆FIN) / Tổng tài sản bình quân
WCt: Vốn lưu động năm (t)
WC t-1: Vốn lưu động năm (t-1)
Công thức cụ thể đƣợc tính nhƣ sau:
WC = (Tài sản ngắn hạn – Tiền – Đầu tƣ ngắn hạn) – (Nợ ngắn hạn – Vay ngắn hạn)
NCOt: Tài sản hoạt động dài hạn năm (t)
NCOt-1: Tài sản hoạt động dài hạn năm (t-1)
Công thức cụ thể đƣợc tính nhƣ sau:
NCO = (Tổng tài sản – Tài sản ngắn hạn – Đầu tƣ vào công ty con, công ty liên kết) – (Nợ phải trả - Nợ ngắn hạn – Vay dài hạn)
FINt: Tài sản tài chính thuần năm (t)
FINt-1: Tài sản tài chính thuần năm (t-1)
Công thức cụ thể đƣợc tính nhƣ sau:
FIN = (Đầu tƣ ngắn hạn + Đầu tƣ dài hạn) – (Vay dài hạn + Vay ngắn hạn + Cổ phiếu ƣu đãi)
- CHREC – Thay đổi khoản phải thu trên trung bình tổng tài sản
CHREC = ∆Nợ phải thu khách hàng / Tổng tài sản bình quân
- CHINV – Thay đổi hàng tồn kho trên trung bình tổng tài sản
CHINV = ∆Hàng tồn kho / Tổng tài sản bình quân
- SOFTASSETS – Tỷ lệ tài sản có tính thanh khoản trung bình trên tổng tài sản
SOFTASSETS = (Tổng tài sản – TSCĐ hữu hình – Tiền và các khoản tương đương tiền) / Tổng tài sản
- CHCASHSALES – Thay đổi trong doanh thu bằng tiền
CHCASHSALES = [(Doanh thu thuầnt – Nợ phải thu khách hàngt) / Doanh thu thuầnt)] – [(Doanh thu thuầnt-1 – Nợ phải thu khách hàngt-1) / Doanh thu thuần t-1 )]
- CHROA – Thay đổi tỷ suất sinh lợi trên tài sản
CHROA = (Lợi nhuận sau thuết / Tổng tài sản bình quânt) - (Lợi nhuận sau thuết-1 / Tổng tài sản bình quânt-1)
- ISSUE – Phát hành cổ phiếu trong năm
ISSUE có giá trị bằng 1 nếu trong năm có phát hành cổ phiếu, ngƣợc lại có giá trị bằng 0 nếu trong năm không phát hành cổ phiếu
Mô hình F-score bao gồm bảy biến được phân chia thành ba nhóm chính: nhóm đầu tiên liên quan đến chất lượng các khoản dồn tích với các biến RSST, CHREC, CHINV và SOFTASSETS; nhóm thứ hai tập trung vào hiệu quả tài chính kinh doanh với các biến CHCASHSALES và CHROA; và nhóm cuối cùng liên quan đến thị trường chứng khoán với biến ISSUE.
Dechow và các cộng sự (2012) đã cải tiến mô hình dự báo ban đầu bằng cách tích hợp các biến phi tài chính, như sự thay đổi số lượng nhân viên, cùng với các biến đo lường hoạt động ngoài bảng, chẳng hạn như biến cho thuê hoạt động.
MISSTATEMENT = -8.252 + 0.665 RSST + 2.457 CHREC + 1.393 CHINV + 2.011 SOFTASSETS + 0.159 CHCASHSALES – 1.029 CHROA + 0.983 ISSUE – 0.15 CHEMP + 0.419 LEASEDUM + ε (Mô hình 2)
Mô hình thứ hai được mở rộng bằng cách bổ sung các biến liên quan đến thị trường, như chỉ số giá trị sổ sách so với thị trường, chỉ số giá trên lợi nhuận, chỉ số giá cổ phiếu và vay hoạt động.
MISSTATEMENT = -7.966 + 0.909 RSST + 1.731 CHREC + 1.447 CHINV + 2.265 SOFTASSETS + 0.160 CHCASHSALES – 1.455 CHCASHSALES + 0.653 ISSUE – 0.121CHEMP + 0.345 LEASEDUM + 0.082RETT + 0.098RETT-1 + ε (Mô hình 3)
Hệ số F-score được tính toán từ 680 mẫu dữ liệu thực tế thông qua một trong ba mô hình dự đoán Sau khi tính toán giá trị dự đoán, xác suất xảy ra sai sót được áp dụng vào công thức để tính toán F-score Cụ thể, F-score được xác định bằng cách chia xác suất xảy ra sai sót cho xác suất không điều kiện Nếu F-score lớn hơn 1, điều này cho thấy rủi ro sai sót trong báo cáo tài chính (BCTC) là cao; ngược lại, nếu F-score nhỏ hơn 1, rủi ro sai sót là thấp.
Kết quả thống kê cho thấy hơn 55% trường hợp gian lận liên quan đến doanh thu, tiếp theo là gian lận về hàng tồn kho và giá vốn, trong khi 10% liên quan đến các khoản dự phòng Nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng công cụ F-score đã phân loại chính xác hơn 60% các doanh nghiệp có sai sót và không sai sót Do đó, mô hình F-score được coi là một công cụ hữu ích trong việc dự báo rủi ro thông tin sai sót trên báo cáo tài chính.
Dechow và các cộng sự (2012) đã mở rộng mô hình của Benish (1999), phát hiện rằng các hành vi sai sót trên báo cáo tài chính (BCTC) không chỉ bị ảnh hưởng bởi các biến trên BCTC mà còn bởi các yếu tố thông tin phi tài chính, hoạt động ngoài bảng và dữ liệu thị trường Nghiên cứu này góp phần nâng cao độ tin cậy trong việc dự đoán rủi ro liên quan đến BCTC có sai sót.
Việc nhận diện sai sót trên báo cáo tài chính (BCTC) là một vấn đề quan trọng trong kiểm toán, với nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm cải thiện khả năng phát hiện sai sót Hầu hết các nghiên cứu trước đây đều xây dựng mô hình nhận diện dựa trên thông tin tài chính và phi tài chính Tuy nhiên, việc thu thập thông tin phi tài chính một cách đầy đủ và chính xác gặp nhiều khó khăn, đặc biệt đối với nhà đầu tư Do đó, việc xây dựng mô hình nhận diện sai sót trên BCTC dựa trên thông tin tài chính sẵn có là cần thiết cho cả kiểm toán viên và nhà đầu tư trong bối cảnh hiện nay.
CHƯƠNG 2 THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU 2.1 MÔ HÌNH VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
ĐO LƯỜNG CÁC BIẾN CỦA MÔ HÌNH
Biến phụ thuộc được xem xét để đánh giá khả năng sai sót trong báo cáo tài chính (BCTC) là MISSTATEMENT MISSTATEMENT là một biến định danh, với giá trị được xác định riêng cho hai nhóm khác nhau.
- Các mẫu có sai sót :
Là những doanh nghiệp có chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm toán lớn hơn hoặc bằng 10%, biến MISSTATEMENT có giá trị là 1
Tỷ lệ 10% được lựa chọn để thiết lập hành lang an toàn nhằm phân biệt giữa mẫu có sai sót và mẫu đối ứng Mẫu đối ứng thường là các công ty trong cùng ngành và quy mô tương tự, nhưng không phải là mẫu có sai sót Do số lượng công ty niêm yết trong một số ngành khá hạn chế, nhiều công ty trong cùng ngành có thể được phân loại là mẫu sai sót Vì vậy, nghiên cứu này chấp nhận mẫu đối ứng có thể có chênh lệch lợi nhuận, nhưng tỷ lệ chênh lệch này cần phải nhỏ hơn 5% Tỷ lệ 10% sẽ tạo ra ranh giới rõ ràng giữa mẫu có sai sót và mẫu đối ứng.
- Các mẫu không có sai sót :
Là chính những doanh nghiệp ở trên nhƣng ở những năm chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm toán nhỏ, biến MISSTATEMENT có giá trị là 0
Dựa trên các nghiên cứu tương tự trước đây và kết quả từ Chương 1 việc đo lường các biến độc lập được tóm tắt lại như Bảng 2.1
Bảng 2.1 Bảng tóm tắt các biến độc lập
Dấu kỳ vọng Đo lường biến Bài nghiên cứu sử dụng
Các biến liên quan đến chất lượng các khoản dồn tích (Accruals quality)
Các khoản kế toán dồn tích RSST
Thay đổi trong vốn lưu động thuần, tài sản hoạt động dài hạn thuần và tài sản tài chính thuần được tính toán và chia cho tổng tài sản trung bình để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản.
Thay đổi khoản phải thu trên trung bình tổng tài sản
Thay đổi khoản phải thu / Trung bình tổng tài sản
Thay đổi hàng tồn kho trên trung bình tổng tài sản
Thay đổi hàng tồn kho / Trung bình tổng tài sản
Dấu kỳ vọng Đo lường biến Bài nghiên cứu sử dụng
Tỷ lệ tài sản có tính thanh khoản trung bình trên tổng tài sản
(Tổng tài sản – Tài sản dài hạn hữu hình – Tiền và các khoản tương đương tiền) / Tổng tài sản
Các biến liên quan đến hiệu quả tài chính kinh doanh (Performance variables)
Thay đổi trong doanh thu bằng tiền
[(Doanh thu t– Nợ phải thu t)/ Doanh thu t ]- [(Doanh thu t-1– Nợ phải thu t-1 )/
Sự thay đổi tỷ suất sinh lời
(LN sau thuế t / Trung bình tổng tài sản t)- (LN sau thuế t-1/ Trung bình tổng tài sản t-1)
Biến liên quan đến thị trường chứng khoán (Maket-related incentives)
Phát hành cổ phiếu trong năm
Có giá trị 1 nếu doanh nghiệp có phát hành cổ phiếu trong năm, ngƣợc lại có giá trị 0