Chúng ta hãy quan sát những giáo trình tiếng Việt Trung Quốc xem, tất cả đều có phần nguyên âm, phụ âm, thanh điệu, phần vần v.v… Nhưng về quan niệm ngữ âm và phương pháp giảng dạy thì l
Mục đích của đề tài
Bài viết này khảo sát tình hình trình bày ngữ âm trong giáo trình dạy tiếng Việt tại Trung Quốc giai đoạn 2000-2010, nhằm đóng góp vào nghiên cứu ngữ âm trong các cuốn giáo trình Nghiên cứu phân tích và so sánh phần ngữ âm giữa các giáo trình khác nhau, đồng thời chỉ ra những nội dung chưa chính xác và chưa thống nhất giữa hai quan niệm âm vị học và chữ quốc ngữ Bên cạnh đó, bài viết cũng nhận xét về phương pháp giảng dạy của các giáo trình, từ đó góp phần nâng cao chất lượng biên soạn, giảng dạy và học tập cho người học tiếng Việt tại Trung Quốc.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thu tập các giáo trình có phần ngữ âm đã đƣợc xuất bản ở Trung Quốc trong giai đọan 2000-2010
- Nhận diện phương pháp giảng dạy của phần ngữ âm trong các giáo trình
- Nhận xét chung về tình hình trình bày ngữ âm trong các giáo trình
- Nêu ra ý kiến của tôi về việc biên soạn giáo trình tiếng Việt.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ sử dụng thao tác của những phương pháp nghiên cứu: miêu tả, so sánh
Phương pháp miêu tả là hệ thống các thủ pháp nghiên cứu nhằm thể hiện đặc tính của hiện tượng ngôn ngữ trong một giai đoạn phát triển cụ thể Đây là phương pháp phân tích đồng đại và có ý nghĩa quan trọng trong việc học tập và giảng dạy ngôn ngữ Trong luận văn, phương pháp miêu tả được sử dụng để trình bày tình hình ngữ âm một cách rõ ràng.
Nguồn tài liệu
Nguồn tài liệu của luận văn là:
- 8 cuốn giáo trình tiếng Việt ở Trung Quốc đã đƣợc xuất bản giao đoạn 2000-2010.
Bố cục của luân văn
Trong luận văn của tôi, ngoài phần mở đầu và phần kết luận, gồm có 3 chương sau đây:
Chương I: Cơ sở lý luận của luận văn
Chương II: Mô tả trình bày tình hình ngữ âm trong các giáo trình đã xuất bản ở Trung Quốc giai đọan 2000-2010
Chương III: Nhận xét chung về nội dung ngữ âm trình bày trong các giáo trình.
Tóm tắt về ngữ âm tiếng Việt
1.1 Âm tiết trong tiếng Việt Để chuyển đạt một thông tin nào đó, nhiết thiết phải dựa vào một vật chất Qua đó, ký hiệu mới có thể phát ra, chuyển đạt và nhận đƣợc Tác dụng giao lưu của ngôn ngữ là thể hiện qua âm thanh Âm thanh này do bộ máy phát âm của con người phát ra, người ta gọi là hình thức âm thanh của ngôn ngữ Vì vậy, ngữ âm là cái vỏ vật chất của ngôn ngữ, là hình thức tồn tại của ngôn ngữ
Ngữ âm con người được chia thành nhiều mạch khác nhau, từ lớn đến nhỏ Để phân tích ngữ âm, cần xem xét từng yếu tố một cách tỉ mỉ Trong tiếng Việt, âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất, và dù lời nói có chậm đến đâu, chỉ có thể tách được đến âm tiết Ví dụ, cụm từ “Cà phê Trung Nguyên” gồm 4 âm tiết.
Trong tiếng Việt, số lượng âm tiết tương ứng với số tiếng phát âm, cho thấy tính toàn vẹn của âm tiết mà không thể tách rời Mỗi âm tiết được tạo ra từ một lần căng và chùng của cơ thịt trong bộ máy phát âm Số lần căng - chùng quyết định số lượng âm tiết Khi phát âm, cơ thịt trải qua ba giai đoạn: tăng cường độ căng, đạt đỉnh điểm căng thẳng và giảm độ căng.
Cấu trúc âm tiết tiếng Việt đầy đủ bao gồm hai bậc: bậc thứ nhất với các thành tố thanh điệu, âm đầu và phần vần; bậc thứ hai gồm âm đệm, âm chính và âm cuối.
Thanh điệu là âm vị siêu đoạn tính, giúp phân biệt âm tiết về mặt âm vực và ý nghĩa Mỗi âm tiết trong tiếng Việt mang một trong 6 thanh điệu, trong đó âm đầu do phụ âm đảm nhiệm, mở đầu cho âm tiết Âm đệm, do bán nguyên âm đảm nhận, có chức năng biến đổi âm sắc của âm tiết Âm chính, là hạt nhân của âm tiết, được quy định bởi các âm vị nguyên âm Cuối cùng, âm cuối, do phụ âm và bán nguyên âm đảm nhiệm, có chức năng kết thúc âm tiết.
Thanh điệu Âm đầu phần vần Âm đệm Âm chính Âm cuối
Khi phân tích âm tiết tiếng Việt, cần tách thành các yếu tố nhỏ như thanh điệu, âm đầu và phần vần Việc này giúp hiểu rõ hơn về chức năng của từng yếu tố trong âm tiết Các yếu tố nguyên âm, phụ âm và bán nguyên âm trở thành đối tượng nghiên cứu quan trọng trong quá trình phân tích hệ thống ngữ âm tiếng Việt.
Trong tiếng Việt hiện đại, có hai quan niệm phổ biến về hệ thống ngữ âm Quan niệm thứ nhất dựa trên âm vị học theo GS.TS Đoàn Thiện Thuật, trong khi quan niệm thứ hai lại dựa vào hình thức chữ viết, tức là chữ quốc ngữ.
1.2 Mô tả ngữ âm theo quan niệm âm vị học
Quan niệm về ngữ âm tiếng Việt được trình bày chi tiết trong cuốn "Ngữ âm tiếng Việt" của GS.TS Đòan Thiện Thuật, xuất bản lần đầu năm 1977 Sau đó, quan niệm này đã được tái hiện trong nhiều cuốn sách khác nhau về ngữ âm tiếng Việt xuất bản tại Việt Nam.
Thanh điệu là một âm vị siêu đoạn tính, thể hiện trong toàn bộ âm tiết, bao gồm âm đầu, âm đệm, âm chính và âm cuối.
Trong tiếng Việt, thanh điệu được thể hiện qua các dấu như: không dấu “a”, dấu huyền “à”, dấu sắc “á”, dấu nặng “ạ”, dấu hỏi “ả” và dấu ngã “ã” Những âm tiết không có dấu như “a” không có nghĩa là không có thanh điệu, mà là thanh điệu đó không được ghi bằng ký hiệu Theo truyền thống, ngoại trừ thanh không dấu, mỗi thanh điệu đều mang tên của dấu ghi thanh tương ứng.
Theo quan niệm của âm vị học, tiếng Việt có danh sách 22 phụ âm đầu, bao gồm: /b, m, f, v, t, t’, d, n, z, ʐ, s, ş, c, ʈ, ɲ, l, k, χ, ŋ, ɣ, h, ʔ/ Trong đó, có
Trong tiếng Việt, có một số phụ âm đặc biệt với nhiều kiểu chữ viết khác nhau Cụ thể, phụ âm /ʔ/ có kiểu viết zêrô, trong khi ba phụ âm /ŋ/, /z/, /ɣ/ có hai kiểu chữ viết là ng/ngh, d/gi, g/gh Phụ âm /k/ có ba kiểu viết khác nhau: c/k/q Ngoài ra, còn lại 17 phụ âm chỉ có một kiểu chữ viết duy nhất, bao gồm b, m, ph, t, th, đ, n, r, ch, tr, l, h, s, x, kh, nh, v Âm đầu trong tiếng Việt do các phụ âm đảm nhiệm, và âm vị [p] không được xem là âm vị phụ âm đầu, mà chỉ đảm nhiệm trong các âm tiết "từ ngoài lai" như "piano".
Trong tiếng Việt, âm tiết "pizza" không có âm đầu là [p], vì âm vị [p] không xuất hiện trong danh sách các phụ âm đầu của ngôn ngữ này.
Sau đây là sơ đồ của phụ âm đầu theo quan niệm âm vị học:
Phụ âm Chữ Âm vị Ví dụ
1 âm không có chữ viết zêrô / ʔ / anh, em, eo, y
1 âm có 3 chữ viết c, k, q / k / các, kể, qua, quy
3 âm có 2 kiểu chữ viết ng, ngh / ŋ / ngủ, ngô, nghi, nghê g, gh
/ ɣ / gà, góc, ghi, ghết d/gi / z / gian, gió, giữ, da, dắt
Trong tiếng Việt, có 17 âm chính được phân loại theo các chữ cái và ví dụ cụ thể Âm t bao gồm các từ như "ta," "tích," "tê," "tổ." Âm b có các từ "bá," "bảng," "băn," "bỉa." Âm đ với các từ "đã," "đích," "đan," "đó." Âm m chứa "mỏi," "mặc," "mệt," "mất." Âm n có "nào," "nách," "nặng," "nổ." Âm x với "xuôi," "xét," "xu," "xếp." Âm s bao gồm "sản," "sơ," "sổ," "súp." Âm h có "hôn," "hảo," "hƣ," "hơi." Âm v với "vô," "với," "vƣợt," "vét." Âm r chứa "rất," "rõ," "rạp," "rời." Âm l có "lũ," "lãng," "lạc," "lợi." Âm th với "thƣ," "thợ," "thoái," "thà." Âm tr chứa "trao," "trôi," "trẻ," "trúc." Âm ch có "cháo," "chẳn," "chứ," "chơi." Âm nh với "nhờ," "nhanh," "nhán." Cuối cùng, âm ph có các từ "phẳng," "phớt," "phụ," và âm kh với "khoảng," "khó," "khơi."
Theo cấu trúc âm tiết tiếng Việt, vần bao gồm 3 thành tố: âm đệm, âm chính và âm cuối
+ âm đệm Âm đệm của tiếng Việt do bán nguyên âm /-w-/ đảm niệm, đƣợc thể hiện bằng hai chữ viết là “u” và “o”, chẳng hạn trong “ quả”, “toán”, “loại”
Chữ viết Âm vị Vídụ u và o / w / quả, tuấn, toán, hoàn
Trong tiếng Việt, âm chính của mỗi âm tiết luôn do nguyên âm đảm nhiệm Tất cả 16 nguyên âm trong tiếng Việt đều có khả năng làm âm chính, tức là số lượng âm chính tương ứng với số lượng nguyên âm.
Theo âm vị học, tiếng Việt bao gồm 16 nguyên âm, trong đó có 9 nguyên âm đơn (gồm 4 nguyên âm ngắn và dài đối lập) và 3 nguyên âm đôi.
Nguyên âm Chữ viết Âm vị Ví dụ
Tình hình xuất bản sách dạy tiếng Việt ở TQ từ năm 2000-2010
Tài liệu này phục vụ như một nguồn tham khảo cho người học tiếng Việt Đề tài nghiên cứu của tôi là “Khảo sát tình hình trình bày ngữ âm trong giáo trình dạy tiếng Việt ở Trung Quốc giai đoạn 2000-2010”, do đó, các cuốn sách không có phần ngữ âm và có thời gian xuất bản vượt quá 10 năm sẽ không được đưa vào phạm vi nghiên cứu của tôi.
Từ năm 2000 đến 2010, có 8 cuốn sách về ngữ âm tiếng Việt được xuất bản và hiện đang được sử dụng tại các trường đại học Trung Quốc.
"Thực dụng tiếng Việt" là bộ giáo trình do Sái Kiệt biên soạn, được Nhà xuất bản Đại học Trùng Khánh phát hành vào năm 2008 Bộ sách này hướng đến đối tượng sinh viên cao đẳng và là cuốn giáo trình đầu tiên và duy nhất dành cho sinh viên cao đẳng trong nước từ năm 2000 đến 2010 Nội dung cuốn sách bao quát nhiều khía cạnh của đời sống như phong tục tập quán, giao tiếp xã hội, kinh tế thương mại và du lịch.
Giáo trình này bao gồm khoảng 4000 từ vựng và được chia thành bốn tập “Tập 1” tập trung vào ngữ âm với 15 bài, trong đó có 11 bài giảng dạy ngữ âm, 1 bài về cách đọc từ ngoại lai, và 3 bài ôn tập ngữ âm tiếng Việt “Tập 2” là tập cơ sở của tiếng Việt với 18 bài, chủ yếu giảng dạy ngữ pháp cơ bản và luyện tập khẩu ngữ, kèm theo một số bài văn ngắn để phát triển khả năng đọc của sinh viên “Tập 3” và “Tập 4” gồm 18 bài văn, mỗi bài chia thành hai phần: phần hội thoại và phần bài văn.
Giáo trình tiếng Việt, do Phó Thành Cật biên soạn và được Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh phát hành lần thứ hai vào năm 2005, dành cho sinh viên chuyên ngành tiếng Việt năm nhất và năm hai tại các trường đại học Bộ giáo trình gồm bốn tập, tương ứng với bốn học kỳ, trong đó Tập 1 có 18 bài học, chia thành hai phần với khoảng 1000 từ mới Phần I tập trung vào ngữ âm, gồm 10 bài giảng về nguyên âm, phụ âm, thanh điệu và kết câu của vần trong tiếng Việt.
Phần II của bài viết tập trung vào ngữ pháp, bao gồm các đoạn văn ngắn và hội thoại hàng ngày Trong khi đó, tập 2, 3 và 4 chứa các bài văn, mỗi tập có 15 bài với tổng khoảng 1300 từ mới Mỗi bài được cấu thành từ bốn phần: bài văn, ngữ pháp, bài tập và bài đọc thêm.
Giáo trình Tổng hợp tiếng Việt Đại học, do Tăng Thụy Liên biên soạn và xuất bản bởi Nhà xuất bản Đại học Trùng Khánh vào năm 2009, dành cho sinh viên chuyên ngành tiếng Việt năm nhất và năm hai Bộ giáo trình gồm 4 tập, sử dụng trong 4 học kỳ Tập 1 có khoảng 400 từ mới, chia thành 4 phần: ngữ âm với 14 bài, luyện khẩu ngữ với 7 bài về hội thoại hàng ngày, thành ngữ và tục ngữ dễ hiểu Tập 2 tập trung vào ngữ pháp với khoảng 1300 từ mới, bao gồm câu, ngữ pháp, bài văn và khẩu ngữ thường ngày Tập 3 có hơn 1000 từ mới với nội dung liên quan đến văn hóa, giáo dục, ẩm thực và phong tục tập quán Cuối cùng, tập 4 chứa khoảng 1200 từ mới, đề cập đến các chủ đề kinh tế, chính trị, công việc, du lịch và văn học.
"Giáo trình Hội thoại và Ngữ âm tiếng Việt" được biên soạn bởi Thạch Bảo Khiết và Tô Thái Quỳnh, do Nhà xuất bản Thế giới phát hành năm 2008, là tài liệu chính thức của Đại học Ngoại thương và Ngoại ngữ Quảng Đông Bộ giáo trình này hướng đến sinh viên học ngôn ngữ thứ hai và học viên tại các trung tâm đào tạo Gồm bốn tập, trong đó tập này có ba phần: phần I tập trung vào ngữ âm với 10 bài học, từ bài 1 đến bài 9 giảng dạy về ngữ âm và bài 10 là ôn tập Phần II và III cung cấp hội thoại về các chủ đề trong cuộc sống hàng ngày như chào hỏi, giới thiệu, thăm hỏi, du lịch và ngày lễ.
3 tập khác mỗi tập có 17 bài, mỗi bài bao gồm bài văn, từ mới, chú thích, ngữ pháp, bài tập…
"Giáo trình Cơ sở tiếng Việt" do Lữ Sĩ Thanh biên soạn và được Nhà xuất bản Đại học Vân Nam phát hành năm 2003, là tài liệu học tập dành cho sinh viên đại học lần đầu tiếp xúc với tiếng Việt Bộ giáo trình gồm 4 tập, trong đó Tập 1 tập trung vào ngữ âm tiếng Việt với 10 bài học, mỗi bài bao gồm ngữ âm, khẩu ngữ, từ mới và bài tập Ba tập còn lại là tập bài văn, cung cấp ngữ pháp, từ mới, bài đọc thêm và bài tập liên quan.
Bộ giáo trình "Tiếng Việt" do Tần Sái Nam biên soạn và xuất bản bởi Nghiên cứu và Giáo học Ngoại ngữ vào năm 2003, dành cho sinh viên chuyên ngành tiếng Việt chưa có trình độ Giáo trình gồm 2 tập: Tập 1 có 17 bài với khoảng 550 từ mới, trong đó 12 bài đầu tập trung vào ngữ âm, bao gồm ngữ âm, quy tắc ngữ âm, thanh điệu và bài tập Phần II của tập 1 là ngữ pháp (bài 13-17), mỗi bài có 5 bộ phận: ngữ pháp, câu, bài văn, từ mới và bài tập Tập 2 có 15 bài, tiếp nối từ tập 1, bổ sung luyện tập khẩu ngữ và văn hóa Việt Nam, nhằm tăng cường hứng thú cho người học tiếng Việt.
Giáo trình “Từ ABC đến Hội thoại tiếng Việt” do Hoàng Dĩ Đình và Lâm Minh Hoa biên soạn, được xuất bản bởi Nhà xuất bản Thế giới vào năm 2009, nhằm phục vụ cho sinh viên mới bắt đầu học tiếng Việt, học viên tại trung tâm đào tạo tiếng Việt, cũng như những người du lịch, công tác, lưu học và kinh doanh tại Việt Nam Giáo trình này gồm một tập duy nhất, với 12 bài học chia thành hai phần: Phần I tập trung vào ngữ âm với 7 bài, cung cấp kiến thức về ngữ âm, chữ cái, từ vựng, hội thoại hàng ngày và ngữ pháp sơ cấp; Phần II bao gồm 5 bài hội thoại thực dụng, giúp người học giao tiếp cơ bản qua các tình huống như chào hỏi và giới thiệu.
"Giáo trình Cơ sở tiếng Việt mới" được biên soạn bởi Tăng Thụy Liên và xuất bản bởi Nhà xuất bản Dân tộc vào năm 2005, nhằm phục vụ đối tượng sinh viên đại học và cao đẳng Cuốn sách chỉ có một tập với tổng cộng 21 bài, được chia thành ba phần: Phần I về ngữ âm với 14 bài học bao gồm nguyên âm, phụ âm, thanh điệu, vần mẫu và chữ cái; Phần II về hội thoại, bao gồm các tình huống giao tiếp hàng ngày như chào hỏi, mua sắm và ăn cơm; Phần III giới thiệu khoảng 700 từ mới.
Tiểu kết
Trong giai đoạn 2000-2010, có 8 cuốn sách dạy tiếng Việt phổ biến tại Trung Quốc Luận văn của tôi sẽ nghiên cứu 8 cuốn sách này, dựa trên hai quan niệm về ngữ âm tiếng Việt để phân tích, so sánh và đánh giá phần ngữ âm trong các giáo trình.
Trong các giáo trình dạy tiếng Việt, phần ngữ âm chiếm hơn một nửa tổng số bài học và thường được trình bày ở phần đầu Thời gian giảng dạy ngữ âm cũng là phần lâu nhất, cho thấy ngữ âm đóng vai trò cơ sở và là yếu tố quan trọng nhất trong quá trình học tập tiếng Việt Ở chương II, tôi sẽ mô tả tình hình ngữ âm trong 8 cuốn giáo trình này.
Mô tả tình hình trình bày ngữ âm trong các giáo trình
Mặc dù đều sử dụng 29 chữ cái Latin, quan niệm về ngữ âm tiếng Việt vẫn chưa được thống nhất trong các giáo trình dạy tiếng Việt.
Trung Quốc hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về ngữ âm, tùy thuộc vào từng người biên soạn giáo trình Các phương pháp giảng dạy cũng không giống nhau giữa các cuốn sách Dựa vào 8 cuốn giáo trình đã được trình bày trong chương I, bài viết này sẽ mô tả tình hình ngữ âm của từng cuốn một cách chi tiết.
Trong các cuốn giáo trình, phần ngữ âm được trình bày thống nhất theo hình thức chữ quốc ngữ và âm vị học, với sáu thanh điệu: ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, và nặng Do đó, tôi sẽ không đề cập đến phần thanh điệu trong mô tả tình hình ngữ âm của các cuốn giáo trình.
Trong giáo trình ngữ âm tiếng Việt, nội dung được phân chia thành 6 bộ phận chính: thanh điệu, nguyên âm đơn, phụ âm, nguyên âm đôi, nguyên âm ba và các loại vần.
Tiếng Việt có 11 nguyên âm đơn:a ă e ê i(y) o ô ơ â ư u
Trong giáo trình này, tiếng Việt có 28 nguyên âm đôi, được chia thành hai loại: tiền hưởng và hậu hưởng Tiền hưởng bao gồm 13 nguyên âm đôi, trong đó nguyên âm đứng trước phát âm mạnh và dài, như ai, ao, eo, êu, ia (ya iê), iu, oi, ôi, ơi, ui, ưi, ưa (ươ), ua (uô) Ngược lại, hậu hưởng có 12 nguyên âm đôi với nguyên âm đứng sau yếu và ngắn, bao gồm ay, au, ây, âu, oa, oe, uê, uy, ươ, ưu, oo, ôô Bảng nguyên âm đôi trong giáo trình trình bày rõ ràng các tổ hợp này, giúp người học nắm vững cách phát âm và sử dụng trong tiếng Việt.
Trong giáo trình này, tác giả định nghĩa nguyên âm ba là sự kết hợp của ba nguyên âm, với tiếng Việt có tổng cộng 12 nguyên âm ba Tương tự như nguyên âm đôi, nguyên âm ba được phân loại theo phương pháp phát âm thành hai nhóm: tiền hưởng và trung hưởng, trong đó không có nhóm hậu hưởng Cụ thể, nhóm tiền hưởng có một nguyên âm là "iêu" (yêu), trong khi nhóm trung hưởng bao gồm 11 nguyên âm: "oai", "oay", "oao", "oeo", "uây", "uôi", "uya", "uyê", "uyu", "ươi", và "ươu".
Trong giáo trình này, có 23 phụ âm: b p m n h ng l đ t th ch tr k(c q) kh x s d gi r h g v ph
Trong giáo trình, phần trình bày về kết cấu vần của âm tiết tiếng Việt cho thấy tiếng Việt có 8 phụ âm cuối: m, n, nh, ng, c, ch, p, t Sơ đồ vần trong âm tiết tiếng Việt bao gồm các loại nguyên âm: nguyên âm đơn, nguyên âm đôi/ba, nguyên âm đơn kết hợp với phụ âm cuối, nguyên âm đôi kết hợp với phụ âm cuối, và nguyên âm ba kết hợp với phụ âm cuối.
Theo cuốn sách này, tiếng Việt có 11 nguyên âm đơn, 28 nguyên âm đôi, 12 nguyên âm ba và 23 phụ âm Nguyên âm đơn được biểu thị bằng một chữ cái, nguyên âm đôi bằng hai chữ, và nguyên âm ba bằng ba chữ Cuốn sách này tập trung vào việc nhận diện âm qua chữ viết, với phương pháp giảng dạy chủ yếu dựa vào chữ thay vì âm thanh.
Tập này được chia thành hai phần: ngữ âm và ngữ pháp Phần ngữ âm bao gồm 6 thanh điệu, 11 nguyên âm đơn, 3 nguyên âm ba, 2 bán nguyên âm và 19 phụ âm.
3 nguyên âm đôi: iê (yê ia ya), ươ(ưa), uô(ua)
2 bán nguyên âm: /w/ /j/ Mỗi bán nguyên âm có 2 cách chữ viết:
19 phụ âm: p b m ph v t đ th n l s(x) d(gi r) ch (tr) nh k(c q) ng(ngh) kh h g(gh ) (em dã sửa))
Trong giảng dạy về kết cấu vần của âm tiết tiếng Việt, âm đệm do bán nguyên âm /-w-/ đảm nhiệm cùng với 8 âm cuối bao gồm 6 phụ âm /p/, /t/, /k/, /m/, /n/, /ŋ/ và hai bán nguyên âm /-j/, /-w/ Cấu trúc vần trong âm tiết tiếng Việt bao gồm: nguyên âm đơn, nguyên âm đơn cộng với phụ âm cuối, nguyên âm đơn kết hợp với bán nguyên âm âm cuối, âm đệm [-w-] cộng với nguyên âm đơn, âm đệm [-w-] với nguyên âm đôi, và âm đệm [-w-] kết hợp với nguyên âm đôi hoặc đơn cùng phụ âm cuối.
Tiếng Việt có 11 nguyên âm đơn, 3 nguyên âm ba, 2 bán nguyên âm và 19 phụ âm, theo mô tả trong cuốn sách về ngữ âm tiếng Việt Cuốn sách này không chỉ dựa trên quan niệm âm vị học mà còn căn cứ vào âm nhận diện chữ viết Phương pháp giảng dạy được áp dụng là dạy theo âm và biểu hiện bằng chữ viết.
Giáo trình này được chia thành hai phần chính: phần ngữ âm và phần hội thoại Trong phần ngữ âm, có 6 thanh điệu, 11 nguyên âm đơn, 24 phụ âm, 23 hai nguyên âm ghép, 12 ba nguyên âm ghép và cấu trúc vần.
+ nguyên âm ghép đôi (二合元音)
Có 23 nguyên âm ghép đôi Quan niệm trong giáo trình này cho rằng tiếng Việt có những nguyên âm là hai chữ cái nguyên âm tổ hợp nhau, gọi là nguyên âm ghép đôi Dựa theo đặc điểm phát âm chia thành hai loại: tiền hưởng (前响三合元音) và hậu hưởng nguyên âm ghép đôi (后响三合元音) Khi phát âm, nguyên âm đứng đầu dài và mạnh gọi là tiền hưởng, ngược lại là hậu hưởng Trong âm tiết tiếng Việt có 12 tiền hưởng nguyên âm ghép đôi: ai, ao, eo, êu, ia, iu, ơi, oi, ôi, ui, ưi, ưa.11 hậu hưởng nguyên âm ghép đôi: ay, au, ây, âu, oa, oe, ua, uê, uy, ươ, ưu
+ nguyên âm ghép ba (三合元音)
Có 12 nguyên âm ghép ba Trên cơ sở hai nguyên âm ghép, giáo trình cho rằng ngoài nguyên âm ghép đôi, tiếng Việt còn có nguyên âm ghép ba, tức là những nguyên âm do ba chữ cái nguyên âm cấu thành Căn cứ vào đặc điểm phát âm, nó được chia thành ba lọai: tiền hưởng (前响), trung hưởng (中响), hậu hưởng (后响) Trong đó có 2 tiền hưởng: yêu, iêu; 8 trung hưởng: oai, oao, oeo, uôi, uya, uyu, ươi,ươu; 2 hậu hưởng: oay, uây
24 phụ âm: p b m ph v t th đ l n c(k) kh qu g(gh) ng(ngh) nh h tr ch d gi r s r
Theo giáo trình, tiếng Việt có 8 phụ âm cuối bao gồm: m, n, nh, ng, c, ch, p, t Cấu trúc âm tiết tiếng Việt được chia thành 5 loại vần: nguyên âm đơn, nguyên âm ghép đôi/ba, nguyên âm đơn kết hợp với phụ âm cuối, nguyên âm ghép đôi kết hợp với phụ âm cuối, và nguyên âm ghép ba kết hợp với phụ âm cuối.
Nhận xét chung về tình hình ngữ âm trong các giáo trình
Trong giai đoạn 2000-2010, tình hình ngữ âm trong các giáo trình dạy tiếng Việt ở Trung Quốc cho thấy có hai phương pháp giảng dạy chính: dạy theo chữ và dạy theo âm Trong số 8 cuốn giáo trình đã được phân tích, có 4 cuốn theo phương pháp dạy chữ và 4 cuốn theo phương pháp dạy âm Mặc dù các phương pháp giảng dạy này có điểm tương đồng, nhưng nội dung giảng dạy lại thể hiện cả sự giống nhau và khác biệt.
Trong 8 cuốn giáo trình, đều trình bày tới 6 thanh điệu: ngang, huyền, hỏi, sắc, ngã, nặng
Tiếng Việt có 11 nguyên âm đơn, được thống nhất trong 8 cuốn giáo trình Trong số này, có 2 cặp nguyên âm có sự đối lập về độ dài, đó là ơ-â và a-ă.
2.3.1 Quan niệm nguyên âm đôi
Trong 8 cuốn giáo trình, đều trình bày đến nguyên âm đôi Nhƣng “cuốn 1”, “cuốn 2”, “cuốn 4”, “cuốn 5”, “cuốn 6”, “cuốn 7” gọi là nguyên âm đôi Còn lại hai cuốn, “cuốn 3” và “cuốn 8”, đặt tên cho nguyên âm đôi là “nguyên âm ghép đôi”
Trong số 8 cuốn giáo trình, có hai quan niệm khác nhau về nguyên âm đôi trong tiếng Việt Quan niệm thứ nhất, được thể hiện trong 4 giáo trình, cho rằng tiếng Việt có 3 nguyên âm đôi: /ie/, /uo/, và /ɯə/ (bao gồm "cuốn 2", "cuốn 6", "cuốn 4", và "cuốn 7").
Ba nguyên âm đôi phân biệt có những hình thức chữ viết nhƣ sau: ia uô
/ie/ iê /uo/ ua ya yê /ɯə / ƣơ ƣa
Nguyên âm đôi là những nguyên âm có âm sắc thay đổi dần dần do sự điều chỉnh vị trí của cơ quan cấu âm trong quá trình phát âm Khi phát âm, người nghe sẽ cảm nhận được sự chuyển đổi từ nguyên âm đầu tiên sang nguyên âm thứ hai, với độ mạnh yếu của hai nguyên âm này được cân bằng.
Trong bốn cuốn giáo trình này, quan niệm được trình bày theo âm vị học, nhấn mạnh rằng ba âm vị “/ie/ /uo/ /ɯə/” đều được cấu thành từ hai nguyên âm Do đó, tiếng Việt chỉ có ba nguyên âm đôi.
+ Quan niệm thứ hai, 2 giáo trình cho rằng tiếng Việt có hơn 20 nguyên âm đôi ( “cuốn 1”, “cuốn 5”)
Trong "cuốn 5", có tổng cộng 23 nguyên âm đôi trong tiếng Việt, được phân loại theo đặc điểm phát âm Có 3 toàn hưởng nguyên âm đôi chính là ia (iê), ua (uô) và ưa (ươ) Ngoài ra, còn có 15 tiền hưởng gồm ai, ơi, oi, ôi, ui, ưi, ay, ây, ao, eo, êu, iu, ưu, au, âu và 5 hậu hưởng là oa (ua), uơ, oe (ue), uê, uy.
Trong "cuốn 1", có 25 nguyên âm đôi được phân loại thành 13 tiền hưởng và 12 hậu hưởng Các tiền hưởng nguyên âm đôi bao gồm: ai, ao, eo, êu, ia (ya iê), iu, oi, ôi, ơi, ui, ưi, ưa (ươ), và ua (uô) Trong khi đó, 12 hậu hưởng nguyên âm đôi là: ay, au, ây, âu, oa, oe, uê, uy, ƣơ, ƣu, oo, và ôô.
So sánh hai cuốn sách, về số lƣợng, cuốn 5 chỉ có 23, nhƣng cuốn sau có
25 Ngoài những nguyên âm đôi mà cuốn 5 đã trình bày, cuốn 1 còn trình bày thêm 2 nguyên âm đôi khác: oo và ôô
Trong hai cuốn giáo trình, nguyên âm đôi được định nghĩa là tổ hợp gồm hai chữ viết nguyên âm Khi phát âm, đặc điểm của nguyên âm đôi là âm thanh được phát ra từ chữ viết đầu tiên đến chữ viết thứ hai.
2.3.2 Quan niệm nguyên âm ghép đôi
Trong 8 cuốn giáo trình, còn lại 2 cuốn không gọi là nguyên âm ghép đôi,
Hai cuốn "cuốn 8" và "cuốn 3" giới thiệu khái niệm mới về "nguyên âm ghép đôi" Theo giáo trình, nguyên âm ghép đôi được định nghĩa là "Những nguyên âm có hai nguyên âm cấu thành một tổ hộp cố định trong âm tiết tiếng Việt".
Theo hai giáo trình, tiếng Việt có tổng cộng 23 nguyên âm ghép đôi, bao gồm 12 tiền hưởng như ai, ao, eo, êu, ia, iu, ơi, oi, ôi, ui, ưi, ưa và 11 hậu hưởng như ay, au, ây, âu, oa, oe, ua, uê, uy, ươ, ưu.
Theo đinh nghĩa và phân lọai của nguyên âm ghép đôi, nó giống khái niệm nguyên âm đôi trong cuốn 1 và cuốn 5
Theo 4 cuốn giáo trình sau, tiếng Việt có hơn 20 nguyên âm đôi (hoặc gọi là nguyên âm ghép đôi) nguyên âm đôi là những tổ hợp có hai chữ viết nguyên âm, khi phát âm, đặc điểm của nó là từ chữ viết trước đi đến chữ viết sau
Về nguyên âm ba, cũng giống nguyên âm đôi, trong những giáo trình này có hai cách gọi: nguyên âm ba và nguyên âm ghép ba
+ Quan niệm nguyên âm ba
Trong 8 cuốn giáo trình, có hai cuốn có trình bày đến nguyên âm ba:
Nguyên âm ba được định nghĩa là những nguyên âm được cấu thành từ ba chữ cái tạo thành một tổ hợp cố định trong âm tiết tiếng Việt.
Trong "cuốn 1", có tổng cộng 12 nguyên âm ba, được phân loại dựa trên cách phát âm thành ba nhóm: tiền hưởng, trung hưởng và không có hậu hưởng Trong đó, có 1 nguyên âm tiền hưởng là "iêu" và 11 nguyên âm trung hưởng bao gồm: "oai", "oay", "oao", "oeo", "uây", "uôi", "uya", "uyê", "uyu", "ươi" và "ươu".
Trong "cuốn 5," có tổng cộng 13 nguyên âm ba, được phân loại thành tiền hưởng, trung hưởng và hậu hưởng dựa trên đặc điểm phát âm Cụ thể, có 4 nguyên âm thuộc nhóm tiền hưởng: iêu, uôi, ươi, ươu; 8 nguyên âm thuộc nhóm trung hưởng: oai (uai), oao (uao), oay (uay), oau (uau), uây, oeo (ueo), uêu, uiu (uyu); và 1 nguyên âm thuộc nhóm hậu hưởng là uya.
+ Quan niệm nguyên âm ghép ba
Nguyên âm
Trong cả 8 cuốn sách, có sự thống nhất về 11 nguyên âm đơn bao gồm: a, ă, e, ê, i(y), o, ô, ơ, â, ư, u Theo quan niệm chữ quốc ngữ, có 9 nguyên âm đơn, trong đó chỉ có 2 nguyên âm đơn thể hiện sự đối lập dài - ngắn, đó là “ă-a” và “ơ-â”.
1.2 Nguyên âm đôi hay nguyên âm ghép đôi
+ nguyên âm đôi theo quan niệm âm vị học
Trong 8 cuốn giáo trình, có ba quan niệm khác nhau về nguyên âm đôi trong tiếng Việt Bốn cuốn sách, cụ thể là cuốn 2, cuốn 4, cuốn 6 và cuốn 7, dựa trên quan niệm âm vị học, cho rằng tiếng Việt chỉ có 3 nguyên âm đôi.
Theo quan niệm âm vị học và chữ quốc ngữ, tiếng Việt chỉ có ba nguyên âm đôi phân biệt, bao gồm các hình thức viết là ia và uô.
Nguyên âm đôi, theo 4 cuốn giáo trình, là một loại nguyên âm mà âm sắc của nó thay đổi dần dần do sự điều chỉnh vị trí của cơ quan cấu âm trong quá trình phát âm Kết quả là, người nghe cảm nhận được sự chuyển đổi từ một nguyên âm này sang một nguyên âm khác.
+ Quan niệm nguyên âm đôi không theo cả hai quan niệm về ngữ âm tiếng Việt
Hai cuốn sách (cuốn 1 và cuốn 5) cho rằng tiếng Việt có hơn 20 nguyên âm đôi, trong khi hai cuốn khác (cuốn 3 và cuốn 8) lại cho rằng tiếng Việt không có nguyên âm đôi, mà thay vào đó là khái niệm nguyên âm ghép đôi.
音) Cũng giống nhƣ hai cuốn trên, hai giáo trình này cho rằng tiếng Việt có hơn 20 nguyên âm ghép đôi
Trong các giáo trình hiện có, các tác giả đã xác định có từ 23 đến 24 nguyên âm đôi hoặc nguyên âm ghép đôi Họ đưa ra định nghĩa cho nguyên âm đôi như sau:
Nguyên âm ghép đôi, hay còn gọi là nguyên âm đôi, là hiện tượng phát âm khi người nói chuyển từ một nguyên âm này sang một nguyên âm khác.
Trong các giáo trình, các tổ hợp hai chữ viết nguyên âm như ai, ao, eo, êu, ia, iu, ơi, oi, ôi, ui, ưi, ưa, ay, au, ây, âu, oa, oe, ua, uê, uy, ươ, và ưu được gọi là nguyên âm đôi hay nguyên âm ghép đôi.
Trong các giáo trình khác, có hơn 20 nguyên âm đôi, thường được gọi là nguyên âm ghép đôi Điều này cho thấy sự lẫn lộn giữa hai khái niệm trong việc phân loại âm vị học.
“nguyên âm” và “chữ viết nguyên âm”
Chúng tôi phân tích theo ngữ âm cho những tổ hợp chữ viết nguyên âm này (nguyên âm đôi hoặc nguyên âm ghép đôi trong giáo trình) nhƣ sau:
Chữ viết và phát âm trong tiếng Việt bao gồm các cặp như: ai /aj/, ao /aw/, eo /ɛ w/, êu /ew/, ia /ie/, iu /iw/, ơi / əj/, oi /ɔj/, ôi /oj/, ui /uj/, ƣi /ɯj/, ƣa /ɯə/, ay /ăj/, au /ăw/, ây /ɤ̆j/, âu /ɤ̆w/, oa /wa/, oe /wɛ/, ua /uo/, uê /we/, uy /wi/, ƣơ /ɯə/, và ƣu /ɯw/.
Tổ hợp hai chữ viết nguyên âm không nhất thiết là nguyên âm đôi, như ví dụ “ai” được phân tích thành [aj] với nguyên âm đơn dài [a] và bán nguyên âm [j] Tương tự, tổ hợp “ay” phân tích thành [ăj] với nguyên âm đơn ngắn [ă] và bán nguyên âm [j] Chỉ có bốn tổ hợp chữ viết: ia, ƣa, ƣơ, ua là nguyên âm đôi, trong khi các tổ hợp khác chỉ có thể gọi là “hai chữ viết nguyên âm” Hai khái niệm này trong giáo trình là sai lầm, không phân biệt rõ âm và chữ.
Trong tiếng Việt, có hai nguyên âm đôi “oo” và “ôô” Theo âm vị học, tiếng Việt có 9 nguyên âm đơn, trong đó 4 nguyên âm có đối lập dài - ngắn Tổ hợp “oo” đại diện cho nguyên âm đơn dài [ɔ], trong khi “ôô” không phải là chữ viết của nguyên âm dài [o] vì nguyên âm [o] không có đối lập dài ngắn Do đó, giáo trình coi hai tổ hợp này là nguyên âm đôi là một sự nhầm lẫn giữa âm và chữ Thực tế, tiếng Việt chỉ có 3 nguyên âm đôi: /ie/, /uo/, và /ɯə/ Các khái niệm về hơn 3 nguyên âm đôi là sai lầm và không phân biệt rõ giữa âm và chữ, vì vậy những tổ hợp này chỉ có thể được gọi là tổ hợp hai chữ nguyên âm.
1.3.1 Quan niệm nguyên âm ba
Trong 8 cuốn giáo trình, có 2 cuốn (cuốn 1 và cuốn 5) trình bày tới quan niệm nguyên âm ba; ngòai ra, còn có 2 cuốn (cuốn 3, cuốn 8) có khái niệm
"Nguyên âm ghép ba" được hiểu tương tự như khái niệm nguyên âm ba trong các cuốn 1 và 5 Tuy nhiên, theo hai quan niệm âm vị học và hình thức chữ quốc ngữ đã trình bày trong chương I, không tồn tại khái niệm nguyên âm ba hay nguyên âm ghép ba Do đó, bốn cuốn sách này không tuân theo cả hai quan niệm về ngữ âm tiếng Việt Tương tự như nguyên âm đôi đã được phân tích, "nguyên âm ba" thực chất là sự lẫn lộn giữa hai khái niệm "nguyên âm" và "chữ viết nguyên âm" Những tổ hợp chữ viết như "iêu, uôi, ƣơi, ƣơu, oai(uai), oao(uao), oay(uay), oau(uau), uây, oeo(ueo), uêu, uiu(uyu) uya" chỉ có thể được coi là tổ hợp "ba chữ nguyên âm" chứ không phải là nguyên âm ba Dưới đây là kết quả phân tích các tổ hợp ba chữ nguyên âm theo ngữ âm tiếng Việt.
Chữ viết và phát âm của một số âm vị trong tiếng Việt bao gồm: "iêu" phát âm là /iew/, "ƣơi" /ɯəj/, "ƣơu" /ɯəw/, "oai" (uai) /waj/, "oao" (uao) /waw/, "oay" (uay) /wăj/, "uây" /wâj/, "oeo" /wɛw/, "uêu" /wew/, "uiu" /wiw/, "uya" /wie/, "uôi" /ouj/, và "oau" (uau) /waw/.
Trong phân tích các tổ hợp âm, không có tổ hợp nào được cấu thành từ ba nguyên âm Có hai loại cấu trúc: loại thứ nhất chỉ có một nguyên âm, như tổ hợp "oai" được phân tích là [waj] với nguyên âm đơn dài [a], và "oay" được phân tích là [wăj] với nguyên âm đơn ngắn [ă] Loại thứ hai có một nguyên âm đôi, ví dụ "ơi" được phân tích là [ɯəj] và "ươu" là [ɯəw], cả hai đều có nguyên âm đôi [ɯə] Các tổ hợp "uya" và "uôi" cũng thuộc loại hình này.
Phụ âm đầu
Theo thống kế, trong tất cả giáo trình tiếng Việt ở Trung Quốc, về số lƣợng phụ âm đầu, có 4 quan điểm khác nhau là: 22, 19, 23, 24
3 cuốn cho rằng có 22 phụ âm là cuốn 4, cuốn 6 và cuốn 7 Đó là : b/b/, p/p/, v/v/, ph/f/, m/m/, n/n/, đ/d/, t/t/, th/t’/, s/ʂ/, d(gi)/z/, l/l/, ch/c/, tr/ts/, x/s/, r/ʐ/, nh/ ɲ/, ng(ngh)/ ŋ/, c(k q)/k/, kh/ x/, g(gh)/ɣ /, h/h/
Quan niệm này giống hai quan niệm âm vị học và chữ quốc ngữ, gồm có
Trong giáo trình này, có tổng cộng 22 âm vị phụ âm được ghi bằng chữ viết, trong đó 1 âm có 3 kiểu chữ viết, 3 âm có 2 kiểu chữ viết, và 19 âm chỉ có 1 kiểu chữ viết Đặc biệt, 12 âm được ghi bằng 1 con chữ, trong khi 7 âm còn lại được ghi bằng 2 con chữ Quan niệm này không bao gồm âm tắc thanh hậu [ʔ], do đó, giáo trình chỉ tập trung vào những âm vị đã được ghi bằng chữ viết, thiếu một âm vị không có chữ viết.
1 cuốn cho rằng có 19 phụ âm là cuốn 2: p b m v t đ n h l ph th kh nh s(x) d(gi r) ch(tr) k(c q) ng(ngh) g(gh)
Quan niệm này khác với âm vị học và chữ quốc ngữ, bao gồm 2 âm với 3 kiểu viết, 4 âm với 2 kiểu viết, và 13 âm với 1 kiểu viết; trong đó, 9 âm có 1 con chữ và 4 âm có 2 con chữ Nó không tính đến âm vị tắc họng [ʔ], chỉ ghi nhận các âm vị bằng chữ viết So với hai quan niệm trước, quan niệm về 19 phụ âm cho rằng c(k q) và d(gi r) là hai nhóm âm khác nhau nhưng có ba chữ cái khác nhau; trong khi ch(tr) và x(s) là một âm với hai chữ cái khác nhau Quan niệm này chủ yếu dựa trên tiếng Hà.
Nội hiện đại, không phần biệt ch và tr, d, gi vầ r, x và s
Có hai cuốn sách, cuốn 5 và cuốn 1, đều cho rằng có tổng cộng 23 phụ âm Theo cuốn 5, danh sách các phụ âm bao gồm: p, b, m, n, ph, v, h, th, t, đ, l, c(k, q), kh, g(gh), x, s, ch, tr, d(gi), ng(ngh), nh, r (không rung) và r (rung) Trong khi đó, cuốn 1 liệt kê các phụ âm là: b, p, m, n, h, ng(ngh), l, đ, t, th, ch, tr, k(c, q), kh, x, s, d, gi, r, h, g(gh) và ph.
Quan niệm về 23 phụ âm có hai cách trình bày khác nhau Cách thứ nhất coi c(k q) là một âm vi với ba cách chữ cái, trong khi x, s và ch, tr được phân biệt là hai âm vị khác nhau; còn d(gi) được xem là âm vị lưỡi Cách thứ hai lại phân biệt ch và tr, x và s là hai âm vị khác nhau, trong khi d, gi và r được xem là ba âm vị riêng biệt.
Số lượng âm vị trong tiếng Việt được xác định theo hai quan niệm khác nhau, nhưng nội dung lại không hoàn toàn giống nhau Theo một quan niệm, tiếng Việt có 22 phụ âm, 1 nguyên âm với ba kiểu chữ viết, 3 nguyên âm với hai kiểu chữ viết và 19 nguyên âm với một kiểu chữ viết Trong số đó, có 14 âm được ghi bằng một chữ cái, trong khi 5 âm còn lại sử dụng hai chữ cái Đặc biệt, chữ "r" có hai cách phát âm khác nhau là "r rung lưỡi" và "r không rung lưỡi" Một quan niệm khác được trình bày trong giáo trình "cuốn 1" cũng đề cập đến vấn đề này.
Trong hệ thống âm vị, có ba kiểu chữ viết cho một âm, hai kiểu cho hai âm, và 20 âm chỉ có một kiểu chữ viết Đặc biệt, trong số này, có 6 âm sử dụng hai con chữ, trong khi 14 âm chỉ có một con chữ Lưu ý rằng âm vị tắc họng [ʔ] không được tính đến trong phân loại này.
2 cuốn cho rằng có 24 phụ âm là cuốn 3 và cuốn 8 : p b m ph v t th đ l n c(k) kh qu g(gh) ng(ngh) nh h tr ch d gi r s x
Theo các giáo trình, quan niệm về 24 phụ âm không bao gồm âm vị tắc họng [ʔ] Trong đó, có ba âm có hai kiểu chữ viết, còn lại 21 âm chỉ có một kiểu chữ viết, với 8 âm có hai con chữ và 13 âm chỉ có một con chữ Quan niệm này khác biệt so với hai cách tiếp cận âm vị học và hình thức chữ quốc ngữ hiện nay ở Việt Nam.
Có nhiều quan niệm khác nhau về số lượng phụ âm và cách phân loại trong các tài liệu giáo trình tiếng Việt Điều này chủ yếu xuất phát từ sự chưa thống nhất trong việc nhận diện các nhóm âm như “c k q”, “ch tr”, “d gi r” và “x s” Mỗi tác giả có cách hiểu và phân loại riêng, dẫn đến sự đa dạng trong quan niệm về âm tiết tiếng Việt.
Sau đây là sơ đồ của số lƣợng phụ âm trong các cuốn giáo trình:
1 kiểu 19 âm 13 âm 21 âm 18 âm 19 âm 18 âm 18 âm 21 âm
2 kiểu 3 âm 4 âm 3 âm 3 âm 3 âm 3 âm 3 âm 3 âm
3 kiểu 1 âm 2 âm 0 1 âm 1 âm 1 âm 1 âm 0 tổng số 23 19 24 22 23 22 22 24
Theo hai quan niệm âm vị học và hình thức chữ quốc ngữ hiện hành ở Việt Nam, tiếng Việt có tổng cộng 22 phụ âm đầu, bao gồm các âm như /b, m, f, v, t, t’, d, n, z, ʐ, s, ş, c, ʈ, ɲ, l, k, χ, ŋ, ɣ, h, ʔ/ Trong số này, có một phụ âm kiểu zêrô /ʔ/ và ba phụ âm /ŋ/, /z/, /ɣ/ với hai kiểu chữ viết khác nhau: ng/ngh, d/gi, g/gh Phụ âm /k/ có ba kiểu chữ viết là c/k/q, trong khi 17 phụ âm còn lại chỉ có một kiểu chữ viết duy nhất: /m, f, v, t, t’, d, b, n, ʐ, s, ş, c, ʈ, ɲ, l, χ, h/ Điều này cho thấy rằng trong 8 cuốn giáo trình dạy tiếng Việt, phần phụ âm không hoàn toàn phù hợp với cả hai quan niệm ngữ âm của tiếng Việt.
Trong các giáo trình, phụ âm cuối được chia thành hai quan niệm: bốn cuốn dựa trên quan niệm âm vị học và bốn cuốn còn lại theo quan niệm chữ quốc ngữ.
+ 4 cuốn theo quan niệm âm vị học cho rằng tiếng Việt có 8 âm cuối, bao gồm 6 phụ âm và 2 bán nguyên âm (cuốn 2, cuốn 4, cuốn 6, cuốn 7);
6 phụ âm đảm niệm âm cuối: / p / p, / t / t, / k / c, / m / m, / n / n, / ŋ / ng
2 bán nguyên âm đảm niệm âm cuối: / w / u o, / j / i, y
Trong các cuốn 1, 3, 5 và 8, không tuân theo cả hai quan niệm âm vị học và chữ quốc ngữ Âm cuối được hình thành từ 8 phụ âm: /m/, /n/, /ɲ/, /ŋ/, /k/, /c/, /p/, và /t/ So với quan niệm âm vị học, các cuốn này còn bổ sung hai phụ âm âm cuối là /ɲ/ và /c/ Bốn giáo trình này không đề cập đến khái niệm bán nguyên âm, vì vậy cũng không có khái niệm “bán nguyên âm đảm nhiệm âm cuối”.
Trong 4 cuốn giáo trình này, về phần vần của âm tiết tiếng Việt có 5 kết cấu nhƣ sau: vần nguyên âm đơn kèm theo phụ âm (8 phụ âm cuối) vần nguyên âm ghép đôi / vần nguyên âm đôi vần nguyên âm ghép đôi kèm theo phụ âm/ vần nguyên âm đôi kèm theo phụ âm vần nguyên âm ghép ba/ vần nguyên âm ba vần nguyên âm ghép ba kèm theo phụ âm/ vần nguyên âm ba kèm theo phụ âm
Theo quan niệm nguyên âm đôi (ba) hoặc nguyên âm ghép đôi(ba) trong
Trong tiếng Việt, các tổ hợp nguyên âm có chữ cuối cùng là i(y) hoặc o(u) như ai, oi, ôi, ưi, ây, ay, uôi, ươi, uai, oay, uay và iu, êu, eo, ưu, âu, ao, iêu, yêu, ươu, uyu, uêu, oeo, ueo, oao, uao, uau được xem là vần nguyên âm ghép đôi hoặc nguyên âm đôi Những tổ hợp này đóng vai trò là âm chính trong phần vần của âm tiết và không nên tách rời thành các yếu tố âm đệm, âm chính và âm cuối Ví dụ, trong âm tiết "bấy", "ây" và "iêu" là những minh chứng cho sự kết hợp này.
Âm tiết "biểu" được cấu thành từ âm đầu "b" và âm chính "ây" "iêu" Theo quan niệm âm vị học ở Việt Nam, âm tiết "bấy" bao gồm âm đầu "b", âm chính "â" và âm cuối "y" (bán nguyên âm), trong khi âm tiết "biếu" được hình thành từ âm đầu
Âm tiết tiếng Việt được cấu thành từ âm chính “iê” (nguyên âm đôi) và âm cuối “u” (bán nguyên âm), nhưng quan niệm này không hoàn toàn phù hợp với chữ quốc ngữ, vì thiếu bán nguyên âm đảm nhiệm âm cuối Điều này dẫn đến một sự hiểu lầm về khái niệm âm tiết trong tiếng Việt, đặc biệt khi giáo trình sử dụng thuật ngữ nguyên âm ghép đôi (ba) mà không phân biệt rõ ràng giữa “chữ” và “âm”.
Phụ âm cuối
Luận văn của tôi phân tích tình hình ngữ âm trong 8 cuốn giáo trình dạy ngữ âm tiếng Việt xuất bản ở Trung Quốc từ 2000-2010, dựa trên hai quan niệm ngữ âm đang phổ biến tại Việt Nam Kết quả cho thấy không có cuốn giáo trình nào hoàn toàn tuân theo một trong hai quan niệm này Một số cuốn thể hiện sự tương đồng với quan niệm âm vị học, nhưng cũng chứa đựng yếu tố của quan niệm chữ quốc ngữ, và ngược lại Đặc biệt, trong 4 cuốn giáo trình “cuốn 2”, “cuốn 4”, “cuốn 6” và “cuốn 7”, phần nguyên âm đơn được trình bày theo hình thức chữ quốc ngữ, trong khi phần vần lại theo quan niệm âm vị học Tuy nhiên, bộ phận phụ âm không phù hợp với cả hai quan niệm, thể hiện sự không thống nhất về số lượng phụ âm.
Trong 4 cuốn giáo trình “cuốn 1”, “cuốn 3”, “cuốn 5” và “cuốn 8”, bộ phận nguyên âm đơn là theo hình thức chữ quốc ngữ ( 9 nguyên âm đơn, gồm có 2 nguyên âm đối lập đơn dài), còn lại các bộ phận khác không theo cả hai quan niệm ( không có khái niệm bán nguyên âm, có hơn 20 nguyên âm đôi, có khái niệm nguyên âm ba, không có khái niệm bán nguyên âm và âm đệm), số lƣợng phụ âm cũng không theo hai cách quan niệm
Sau đây là sơ đồ so sánh các yếu tố ngữ âm trong các cuốn giáo trình: