1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam

91 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nhân Tố Tác Động Đến Khả Năng Sinh Lời Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
Tác giả Bùi Thị Phương Thảo
Người hướng dẫn PGS.TS. Lê Phan Thị Diệu Thảo
Trường học Trường Đại học Ngân hàng TP Hồ Chí Minh
Thể loại luận văn
Năm xuất bản 2016
Thành phố TP Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 91
Dung lượng 1,37 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1................................................................................................................ 8 (8)
    • 1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI (8)
    • 1.2. MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU (10)
    • 1.3. DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (11)
    • 1.4. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN (12)
  • CHƯƠNG 2.............................................................................................................. 14 (14)
    • 2.1. KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (14)
      • 2.1.1. Khái niệm khả năng sinh lời (14)
      • 2.1.2. Chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời (15)
    • 2.2. NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (16)
      • 2.2.1. Các nhân tố nội tại (16)
      • 2.2.2. Các nhân tố vĩ mô (21)
    • 2.3. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM CÔNG BỐ (22)
      • 2.3.1. Nghiên cứu trên thế giới (22)
      • 2.3.2. Nghiên cứu trong nước (25)
  • CHƯƠNG 3.............................................................................................................. 30 (30)
    • 3.1. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU (30)
    • 3.2. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU (34)
    • 3.3. MÔ TẢ BIẾN TRONG MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU (35)
      • 3.3.1. Biến phụ thuộc (35)
      • 3.3.2. Biến độc lập (35)
    • 3.4. DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU (38)
    • 3.5. TRÌNH TỰ NGHIÊN CỨU (39)
  • CHƯƠNG 4.............................................................................................................. 41 (41)
    • 4.1. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH THỐNG KÊ MÔ TẢ (41)
      • 4.1.1. Phân tích thống kê mô tả biến phụ thuộc (41)
      • 4.1.2. Phân tích thống kê mô tả biến độc lập nội tại ngân hàng (41)
      • 4.1.3. Phân tích thống kê mô tả biến độc lập kinh tế vĩ mô (43)
    • 4.2. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH TƯƠNG QUAN (43)
    • 4.3. KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU (44)
    • 4.4. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH HỒI QUI MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU (46)
      • 4.4.1. Kết quả phân tích hồi qui mô hình ROE (46)
      • 4.4.2. Kết quả phân tích hồi qui mô hình ROA (49)
  • CHƯƠNG 5.............................................................................................................. 52 (52)
    • 5.1 KẾT LUẬN NGHIÊN CỨU (52)
    • 5.2. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ (53)
    • 5.3. HẠN CHẾ VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO (55)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (57)

Nội dung

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là kiểm định yếu tố tác động đến khả năng sinh lời của NHTM để có thể đưa ra các gợi ý chính sách đến các nhà quản trị ngân hàng, các nhà quản lý hữu quan để góp phần cải thiện khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam.

8

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển thị trường vốn và ổn định sức mua đồng tiền, từ đó kiềm chế lạm phát Ở cấp độ vĩ mô, ngân hàng hoạt động an toàn và hiệu quả, góp phần vào sự ổn định và phát triển bền vững của hệ thống tài chính quốc gia, hỗ trợ cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia.

Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), đồng thời chuẩn bị tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) Sự gia nhập này khiến nền kinh tế Việt Nam ngày càng mở cửa và cạnh tranh khốc liệt hơn, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng Sự xuất hiện của nhiều ngân hàng nước ngoài với nguồn vốn mạnh, công nghệ tiên tiến, quản lý chuyên nghiệp và kinh nghiệm dày dạn sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh lớn đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc chiếm lĩnh thị phần.

Theo Susan Moraa Onuonga (2014), lĩnh vực tài chính ngân hàng rất quan trọng cho sự phát triển quốc gia, và để đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững, cần có một hệ thống ngân hàng an toàn và vững mạnh Để đảm bảo sự ổn định tài chính và tăng trưởng, việc xác định các yếu tố quyết định hoạt động của ngành tài chính là điều cần thiết.

Theo Hoàng Huy Hà (2015), việc áp dụng các tiêu chuẩn an toàn hoạt động và quản lý rủi ro theo thông lệ quốc tế trong hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) là xu hướng tất yếu trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay Hệ thống CAMELS được sử dụng rộng rãi để giám sát an toàn ngân hàng, với mục tiêu đảm bảo an toàn cho các tổ chức tài chính Trong đó, khả năng sinh lời là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá mức độ an toàn của NHTM, bao gồm 6 nhóm tiêu chí chính: (i) C-an toàn vốn, (ii) A-chất lượng tài sản, (iii) M-năng lực quản lý.

E- khả năng sinh lời (v) L- tính thanh khoản, (vi) S - độ nhạy bén trước rủi ro thị trường

Nghiên cứu khả năng sinh lời và các nhân tố tác động đến khả năng này của ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách, giúp tạo lập môi trường vĩ mô lành mạnh cho khu vực ngân hàng Kết quả nghiên cứu sẽ hỗ trợ trong việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng một cách khoa học, cho phép các nhà quản trị tự đánh giá hiệu quả hoạt động, khắc phục điểm yếu và cải tổ một cách an toàn, từ đó giảm thiểu nguy cơ đổ vỡ Mục tiêu cuối cùng là hướng tới sự ổn định, phát triển bền vững và duy trì năng lực cạnh tranh với các tổ chức tài chính quốc tế, nhằm tránh nguy cơ khủng hoảng hệ thống ngân hàng trong tương lai.

Xác định các nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại (NHTM) là vấn đề quan trọng, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước Các nghiên cứu chủ yếu áp dụng phương pháp định lượng để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng ở các quốc gia hoặc khu vực cụ thể Hai nhóm nhân tố chính được xác định bao gồm: (i) Nhóm nhân tố kinh tế vĩ mô, phản ánh tác động của môi trường và biến động kinh tế vĩ mô đến lợi nhuận ngân hàng, và (ii) Nhóm nhân tố vi mô, thể hiện ảnh hưởng của hiệu quả hoạt động và quản trị đến khả năng sinh lời của NHTM Mặc dù nghiên cứu về khả năng sinh lời của NHTM khá phổ biến, tác giả mong muốn kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu trước đó để kiểm định tính phù hợp và xác định các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của NHTMCP Việt Nam trong giai đoạn 2006-2015.

Tác giả mong muốn cung cấp cái nhìn toàn diện về hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) nhằm hỗ trợ các nhà quản trị cải thiện khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam Mục tiêu là phát triển hoạt động kinh doanh ngân hàng một cách an toàn, lành mạnh và bền vững Do đó, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “Nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam” cho luận văn thạc sĩ.

Luận văn này dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm và lý thuyết để xây dựng mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các NHTMCP Việt Nam Qua việc thu thập và xử lý dữ liệu, nghiên cứu sẽ xác định những nhân tố quan trọng tác động đến lợi nhuận của các ngân hàng này, từ đó đưa ra gợi ý chính sách cho quản trị kinh doanh nhằm cải thiện khả năng sinh lời Mục tiêu là giúp hệ thống NHTMCP Việt Nam phát triển an toàn, bền vững và hiệu quả lâu dài Ngoài ra, tác giả hy vọng nghiên cứu sẽ hệ thống hóa lý luận về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời, làm nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo.

MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là kiểm định các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại (NHTM) Từ đó, nghiên cứu đưa ra các gợi ý chính sách cho các nhà quản trị ngân hàng và các nhà quản lý liên quan nhằm cải thiện hiệu quả sinh lời của các NHTM tại Việt Nam.

Câu hỏi nghiên cứu tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Việt Nam và mức độ tác động của chúng Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các yếu tố tác động đến hiệu quả sinh lời của các ngân hàng thương mại trong nước.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung nghiên cứu yếu tố tác động đến khả năng sinh lời của các NHTMCP Việt Nam trong giai đoạn 2006-2015.

DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Dữ liệu nghiên cứu theo báo cáo Hệ thống các Tổ chức Tín dụng từ website

Đến ngày 31/12/2015, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam bao gồm 4 ngân hàng nhà nước, 31 ngân hàng thương mại cổ phần, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 3 ngân hàng liên doanh, 2 ngân hàng chính sách và 1 ngân hàng hợp tác xã Sau khi loại bỏ các ngân hàng không công bố thông tin đầy đủ, nghiên cứu dựa trên 170 quan sát từ báo cáo tài chính kiểm toán của 17 ngân hàng thương mại cổ phần trong giai đoạn 2006-2015 Để đảm bảo số lượng quan sát đủ lớn, tác giả cũng thu thập dữ liệu từ 3 ngân hàng thương mại cổ phần có quá trình hợp nhất, sáp nhập từ năm 2011-2015 Bài viết sử dụng thêm số liệu về các yếu tố kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát từ website của Tổng Cục Thống kê, cùng với tài liệu từ các văn bản hướng dẫn của NHNN, tạp chí khoa học và nghiên cứu của các nhà khoa học.

Phương pháp nghiên cứu được xây dựng dựa trên việc kế thừa các kết quả từ các nghiên cứu tổng quan trước đó, kết hợp với mô hình hồi quy tuyến tính đa biến do Muhammad Bilal và cộng sự phát triển.

Năm 2013, tác giả đã kết hợp các giả thuyết nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ 17 NHTMCP trong giai đoạn 2006-2015 và công cụ phần mềm STATA 12 để kiểm định và ước lượng hệ số hồi quy của các biến trong mô hình Tác giả đã thực hiện phân tích thống kê mô tả về đặc tính cơ bản của dữ liệu, bao gồm giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất và nhỏ nhất của các biến đo lường Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng phân tích tương quan để xác định mối quan hệ giữa các biến độc lập, từ đó đánh giá dự báo của mô hình Phân tích hồi quy đa biến được thực hiện để đo lường mức độ ảnh hưởng và chiều tác động của từng biến độc lập đến biến phụ thuộc, nhằm trả lời câu hỏi về các nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam Cuối cùng, tác giả đã kiểm định các hiện tượng đa cộng tuyến, tự tương quan và phương sai sai số thay đổi, đồng thời đề xuất các biện pháp khắc phục để điều chỉnh mô hình nếu cần thiết.

KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Nội dung của luận văn được trình bày trong 5 chương

Chương 1 Giới thiệu về sự cần thiết cũng như mục tiêu nghiên cứu, phạm vi, dữ liệu và đối tƣợng nghiên cứu

Chương 2 Tổng quan nghiên cứu về các nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Chương này trình bày về khái niệm, các chỉ tiêu đo lường, nhân tố nội tại ngân hàng và nhân tố kinh tế vĩ mô tác động đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Ngoài ra, luận văn cũng lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm đã công bố trước đây để xác định các yếu tố định lượng nhằm xây dựng mô hình thực nghiệm về các yếu tố tác động đến khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam

Chương 3 Xây dựng mô hình thực nghiệm, phương pháp nghiên cứu, dữ liệu nghiên cứu Xuất phát từ khung lý thuyết Chương 2, tác giả kế thừa mô hình thực nghiệm các nghiên cứu trước đây để xây dựng mô hình thực nghiệm của luận văn là mô hình về các nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam Điểm nổi bật của chương này là trình bày các bước tiến hành và phương pháp ước lượng nhằm tìm kiếm minh chứng cho mục tiêu nghiên cứu luận văn, đo lường biến và khai thác dữ liệu cũng được trình bày chi tiết trong chương này

Chương 4 Kết quả nghiên cứu về nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam Từ mô hình thực nghiệm và dữ liệu thu thập của 17 NHTMCP Việt Nam giai đọan 2006-2015 qua sử dụng công cụ phần mềm STATA 12 thực hiện kiểm định và ƣớc lƣợng hệ số hồi qui các biến trong mô hình Sau đó tác giả thảo luận kết quả thực nghiệm dựa trên nền tảng lý thuyết nghiên cứu kết hợp đối chiếu với các nghiên cứu tương quan trước đây nhằm luận giải kết quả một cách logic Kết quả nghiên cứu cung cấp các minh chứng trả lời câu hỏi nghiên cứu của luận văn xác định các yếu tố tác động đến khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam

Chương 5 Kết luận và khuyến nghị Chương này tóm lược kết quả nghiên cứu thực nghiệm chính theo mục tiêu nghiên cứu của luận văn và đƣa ra một số gợi ý chính sách góp phần cải thiện khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam thông qua việc phát huy yếu tố ảnh hưởng tích cực, hạn chế yếu tố tác động ngược chiều đến khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam Kết quả nghiên cứu kỳ vọng có thể cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho các bạn học viên, nhà quản trị NHTM trong công tác điều hành quản lý các NHTM Đồng thời, chương này cũng nhìn nhận một số hạn chế mà luận văn chưa giải quyết được và định hướng cho nghiên cứu tiếp theo.

14

KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.1.1 Khái niệm khả năng sinh lời

Khả năng sinh lợi là thước đo hiệu quả tài chính, cần thiết nhưng chưa đủ để duy trì cân bằng tài chính (Ehow, 2012) Đánh giá khả năng sinh lợi phải dựa trên khoảng thời gian tham chiếu và được áp dụng trong mọi hoạt động kinh tế liên quan đến tài sản vật chất, con người và tài chính Khái niệm này có thể áp dụng cho từng tài sản hoặc tập hợp tài sản Theo Luật các Tổ chức tín dụng (2010), ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và kinh doanh khác nhằm mục tiêu lợi nhuận.

Lợi nhuận của ngân hàng thương mại (NHTM) là chỉ tiêu tài chính quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh Các nhà quản lý ngân hàng luôn tìm cách gia tăng lợi nhuận để mở rộng quy mô hoạt động và nâng cao thu nhập cho cổ đông thông qua việc chi trả cổ tức cao, từ đó làm tăng giá trị cổ phiếu và nâng cao thương hiệu ngân hàng Bên cạnh đó, việc gia tăng lợi nhuận còn giúp cải thiện phúc lợi và khen thưởng cho người lao động, tạo sự gắn bó và ổn định nhân sự Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần chú ý đến việc phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh, kết hợp giữa hoạt động tín dụng và đa dạng hóa dịch vụ, cũng như quản lý tiết kiệm chi phí.

2.1.2 Chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời

Thông thường khả năng sinh lời của NHTM được đo lường bằng ROE và ROA

Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận thuần và vốn tự có của ngân hàng, giúp đánh giá chất lượng và hiệu quả sử dụng vốn trong các ngân hàng thương mại ROE cho biết một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, phản ánh mức sinh lời mà các nhà đầu tư nhận được từ vốn cổ phần Theo Nguyễn Thị Cành (2009), ROE là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng ROE cao cho thấy khả năng sinh lời tốt và hiệu quả sử dụng vốn cao, trong khi ROE thấp có thể chỉ ra sự yếu kém trong việc sử dụng vốn, làm giảm khả năng cạnh tranh và thu hút vốn của ngân hàng.

Phân tích chỉ tiêu ROE giúp ngân hàng nhận diện điểm mạnh và yếu trong hoạt động và khả năng sinh lời ROE thể hiện hiệu quả sử dụng vốn tự có, đo lường tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên mỗi đồng vốn tự có, do đó, cổ đông thường ưa chuộng ROE cao Tuy nhiên, ROE cao có thể đi kèm với rủi ro gia tăng, chẳng hạn như khi ROE tăng do vốn tự có bình quân giảm, dẫn đến vi phạm quy định về vốn pháp định tối thiểu và tăng rủi ro thanh khoản Một trường hợp khác là ROE tăng do tỷ suất nợ trên vốn của ngân hàng tăng lên.

Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng, cho biết mức lợi nhuận tạo ra từ mỗi đồng tài sản sử dụng trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng có ROA cao hơn trong cùng quy mô tài sản thể hiện chính sách kinh doanh và đầu tư hiệu quả hơn Chỉ số này có thể được tính toán dựa trên nhiều loại lợi nhuận khác nhau, bao gồm lợi nhuận trước và sau dự phòng, lợi nhuận trước và sau thuế cũng như các khoản thu nhập bất thường.

NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

2.2.1 Các nhân tố nội tại

Quy mô ngân hàng là yếu tố quan trọng trong hiệu quả hoạt động của tổ chức tài chính Theo Trần Việt Dũng (2014), các ngân hàng lớn thường hoạt động hiệu quả hơn và cung cấp dịch vụ với giá thấp hơn nhờ vào lợi thế kinh tế quy mô, từ đó mang lại lợi nhuận cao hơn Tuy nhiên, việc mở rộng quy mô không hợp lý có thể dẫn đến khó khăn trong quản trị và làm gia tăng nguy cơ ra quyết định sai lầm, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh lời của ngân hàng.

Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn quan trọng của ngân hàng thương mại, được đóng góp ban đầu bởi chủ sở hữu và bổ sung trong quá trình kinh doanh Nó không chỉ cung cấp nguồn lực cần thiết cho hoạt động của ngân hàng mới thành lập mà còn là nền tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng Hơn nữa, vốn chủ sở hữu giúp giảm thiểu rủi ro và duy trì niềm tin của công chúng cũng như cổ đông vào khả năng quản lý và phát triển của ngân hàng.

Hà, Lê Đỗ Hoàng Phúc, 2015)

Vốn chủ sở hữu, mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại (NHTM), đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và tồn tại lâu dài của các tổ chức tài chính lớn Nó không chỉ tạo niềm tin cho công chúng mà còn đảm bảo sức mạnh tài chính của NHTM, giúp chống lại rủi ro phá sản và thanh khoản Tuy nhiên, việc tăng vốn chủ sở hữu cần được thực hiện một cách hợp lý, tránh tình trạng tăng nhanh mà không tương ứng với quy mô hoạt động và trình độ quản lý Các NHTM cần xác định mức vốn tự có cần thiết để bù đắp rủi ro và lựa chọn giải pháp tăng vốn phù hợp nhằm nâng cao sức mạnh tài chính và năng lực cạnh tranh.

Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thường chỉ chiếm dưới 10% tổng nguồn vốn, điều này cho thấy các ngân hàng chủ yếu dựa vào vốn huy động từ cá nhân và tổ chức để hoạt động Mặc dù tỷ trọng vốn chủ sở hữu không lớn, nhưng quy mô của nó đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì an toàn và phát triển ngân hàng, bởi các ngân hàng luôn phải tuân thủ tỷ lệ an toàn vốn.

Hoạt động huy động vốn là một nhân tố quan trọng trong ngân hàng, với tiền gửi khách hàng chiếm từ 70% đến 80% tổng nguồn vốn Ngân hàng phải duy trì lòng tin của người gửi tiền, vì sự suy giảm niềm tin có thể dẫn đến áp lực lớn khi khách hàng rút tiền hàng loạt Do đó, các ngân hàng cần thận trọng trong việc sử dụng nguồn vốn này, thiết lập các tiêu chuẩn nghiêm ngặt trong cho vay và đầu tư.

Hoạt động cho vay khách hàng là một yếu tố quan trọng, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng tài sản của ngân hàng, đồng thời mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng Tuy nhiên, phần lớn rủi ro của ngân hàng tập trung vào lĩnh vực cho vay, đặc biệt khi tăng trưởng cho vay không được kiểm soát chất lượng một cách hiệu quả.

Nhân tố thứ năm ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng là nợ xấu, được định nghĩa theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN bao gồm nợ thuộc nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) Nợ xấu phát sinh khi khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính, gây tổn thất cho tổ chức tín dụng và ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả kinh doanh cũng như rủi ro tín dụng Đặc biệt, rủi ro tín dụng gia tăng khi ngân hàng không thu hồi được gốc và lãi của khoản vay đúng hạn Để quản lý rủi ro này, các ngân hàng sẽ trích lập dự phòng rủi ro, và khoản trích lập này sẽ được ghi vào chi phí kinh doanh, dẫn đến giảm lợi nhuận trên báo cáo thu nhập.

Rủi ro tín dụng gây ra tình trạng ngân hàng không thu hồi được vốn và lãi từ các khoản cho vay, trong khi vẫn phải trả lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn Điều này dẫn đến mất cân đối trong thu chi, giảm vòng quay vốn tín dụng và làm tăng chi phí hoạt động của ngân hàng Khi một khoản vay không thể thu hồi, ngân hàng buộc phải sử dụng nguồn vốn của mình để thanh toán cho người gửi tiền Nếu tình trạng này kéo dài, ngân hàng có thể rơi vào khủng hoảng thanh khoản, ảnh hưởng đến quy mô kinh doanh, năng lực tài chính và uy tín cạnh tranh, không chỉ trong nước mà còn quốc tế Kết quả là tình hình kinh doanh xấu đi, có thể dẫn đến thua lỗ hoặc thậm chí phá sản nếu không có biện pháp khắc phục kịp thời.

Theo Trần Việt Dũng (2014), hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại (NHTM) trở nên rủi ro hơn khi có nhiều khoản vay và dư nợ tín dụng bị chậm trả lãi hoặc gốc NHTM phải tìm kiếm lợi nhuận thông qua khả năng quản trị rủi ro, đồng thời luôn đối mặt với sự đánh đổi giữa rủi ro và khả năng sinh lời Mặc dù mục tiêu cuối cùng là tạo ra lợi nhuận, nhưng việc chấp nhận mức rủi ro cao có thể dẫn đến sự phát triển không ổn định, thiếu bền vững và dễ bị tổn thương trong hoạt động của NHTM.

Tính thanh khoản là yếu tố quan trọng trong hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM), theo Nguyễn Thị Cành (2009), rủi ro thanh khoản xảy ra khi khách hàng rút tiền hàng loạt, gây giảm nghiêm trọng nguồn vốn Quản trị thanh khoản quyết định sự an toàn của NHTM, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt về thu hút tiền gửi Các ngân hàng buộc phải tìm kiếm nguồn tài trợ bổ sung để duy trì khả năng thanh khoản, vì khả năng thanh khoản không hợp lý có thể dẫn đến bất ổn tài chính Sự phát triển của thị trường tài chính cũng đồng nghĩa với việc cơ hội và rủi ro trong quản trị thanh khoản gia tăng.

Theo Trần Văn Trí, tính thanh khoản của ngân hàng thương mại (NHTM) là khả năng đáp ứng nhanh chóng nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân tín dụng đã cam kết Rủi ro thanh khoản xảy ra khi ngân hàng không thể cung ứng đủ tiền mặt cho nhu cầu tức thời hoặc phải chịu chi phí cao để làm điều đó Nói cách khác, loại rủi ro này xuất hiện khi ngân hàng không có khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp thời tài sản thành tiền mặt hoặc không thể vay mượn để đáp ứng các hợp đồng thanh toán.

Theo BáoC (2012), mức độ thanh khoản của ngân hàng được đánh giá qua khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động Các yếu tố quan trọng bao gồm biến động tiền gửi, phụ thuộc vào nguồn vốn rủi ro, khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền mặt, tiếp cận thị trường tiền tệ, hiệu quả của chiến lược quản lý tài sản nợ và tài sản có, cũng như tuân thủ các chính sách thanh khoản nội bộ và khả năng sử dụng cam kết cấp tín dụng.

Theo Nguyễn Đức Tú, thanh khoản có vai trò quan trọng đối với ngân hàng vì hai lý do chính Thứ nhất, thanh khoản cần thiết để đáp ứng nhu cầu vay mới mà không phải thu hồi các khoản cho vay hiện tại hoặc thanh lý các khoản đầu tư có kỳ hạn Thứ hai, thanh khoản giúp ngân hàng xử lý kịp thời và có trật tự các biến động hàng ngày hoặc theo mùa về nhu cầu rút tiền Với việc huy động tiền gửi ngắn hạn với lãi suất thấp và cho vay dài hạn với lãi suất cao hơn, ngân hàng luôn phải duy trì một mức thanh khoản lớn.

Chi phí hoạt động ngân hàng là yếu tố quan trọng, bao gồm các khoản chi phí quản lý như chi phí nhân viên, tài sản và quản lý công vụ Khi chi phí này tăng cao, lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm Ngược lại, nếu ngân hàng kiểm soát chi phí hoạt động hiệu quả và phù hợp với nguồn thu, sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn và tăng khả năng sinh lời.

2.2.2 Các nhân tố vĩ mô

Lạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến động cơ gửi tiền và vay mượn của các chủ thể kinh tế, từ đó tác động đến chi phí, thu nhập và khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Tính không ổn định của lạm phát làm khó khăn trong việc đánh giá rủi ro tín dụng và thị trường, đồng thời gia tăng rủi ro cho danh mục đầu tư Một sự giảm giá nhanh chóng trong tỷ lệ lạm phát có thể làm giảm thu nhập danh nghĩa và luồng tiền mặt, ảnh hưởng tiêu cực đến tính thanh khoản của các định chế tài chính Trong môi trường lạm phát cao, ngân hàng có thể thu lợi từ việc quản lý tài sản, nhưng sự giảm đột ngột của lạm phát sẽ phơi bày những yếu kém trong hoạt động của họ Ngoài ra, giá trị ký quỹ có thể giảm xuống dưới mức khoản tiền cho vay, đặc biệt trong các trường hợp cho vay không thận trọng.

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM CÔNG BỐ

2.3.1 Nghiên cứu trên thế giới

Nghiên cứu của Salman Ahmad và cộng sự (2012) về các ngân hàng thương mại tại Pakistan trong giai đoạn 2001-2010 đã chỉ ra rằng các yếu tố nội tại như tỷ lệ chi phí trên thu nhập, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỷ lệ chi phí dự phòng trên tổng dư nợ có ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của ngân hàng, được đo lường qua ROA Mặc dù thanh khoản có mối quan hệ nghịch với lợi nhuận trên tài sản, nhưng ảnh hưởng của nó không có ý nghĩa thống kê.

Nghiên cứu của Syeda Anum Javed Bukhari (2012) phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố nội tại và ngoại tại ảnh hưởng đến lợi nhuận của 11 ngân hàng Pakistan trong giai đoạn 2005-2009, sử dụng phương pháp hồi quy Kết quả cho thấy rằng rủi ro tín dụng có mối quan hệ tích cực đáng kể với khả năng sinh lời của các ngân hàng, nghĩa là khi rủi ro tín dụng tăng, lợi nhuận ngân hàng cũng tăng theo Ngược lại, thu từ lãi lại có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đến khả năng sinh lời Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng quy mô ngân hàng, thu ngoài lãi, chi phí, chỉ số CPI, xuất khẩu, nhập khẩu và giảm lãi suất không có tương quan với lợi nhuận của ngân hàng.

Nghiên cứu của Muhammad Bilal và cộng sự (2013) chỉ ra rằng các nhân tố vi mô và vĩ mô ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng thương mại (NHTM) Pakistan giai đoạn 2007-2011, đo lường qua lợi nhuận trên tài sản (ROA) và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) Các yếu tố nội tại như tiền gửi/tài sản, quy mô ngân hàng, vốn chủ sở hữu, NIM và nợ xấu có tác động mạnh mẽ đến ROA hơn ROE Nợ xấu ảnh hưởng tiêu cực đến ROE, trong khi tiền gửi trên tổng tài sản có mối tương quan không đáng kể với cả hai chỉ tiêu Vốn chủ sở hữu có mối quan hệ đáng kể với ROE nhưng không ảnh hưởng đến ROA NIM có tác động tích cực mạnh đến khả năng sinh lời của NHTM Ngoài ra, các yếu tố vĩ mô như tỷ lệ tăng trưởng sản phẩm ngành (IPGR) và GDP thực (RGDP) có ảnh hưởng tích cực đến cả ROE và ROA; trong đó, RGDP có tác động mạnh mẽ đến ROA Lạm phát lại có tác động tiêu cực mạnh đến ROA, cho thấy rằng lạm phát cao làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.

Nghiên cứu của Aremu và cộng sự (2013) về mối quan hệ giữa lợi nhuận và các yếu tố nội tại của ngân hàng Nigeria giai đoạn 1980-2010 cho thấy an toàn vốn và tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể đến lợi nhuận ngân hàng trong cả ngắn hạn và dài hạn Kết quả cũng chỉ ra rằng qui mô và hiệu quả chi phí không tác động đáng kể đến lợi nhuận, trong khi rủi ro tín dụng và tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản có ảnh hưởng trọng yếu Thanh khoản ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng trong ngắn hạn, trong khi năng suất lao động chỉ tác động trong dài hạn Rủi ro thanh khoản từ tỷ suất cho vay trên tổng tài sản và tỷ suất cho vay trên tổng tiền gửi có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng sinh lời trong ngắn hạn, nhưng không có tác dụng trong dài hạn Về các yếu tố vĩ mô, chỉ có tăng trưởng cung tiền rộng (GRM2) ảnh hưởng tích cực đến lợi nhuận ngân hàng cả trong ngắn hạn và dài hạn, trong khi lạm phát và tốc độ tăng trưởng GDP thực không cho thấy mối tương quan với lợi nhuận ngân hàng.

Nghiên cứu của Susan Moraa Onuonga (2014) đã phân tích tác động của các yếu tố nội tại ngân hàng đến lợi nhuận của 6 ngân hàng thương mại hàng đầu tại Kenya trong giai đoạn 2008-2013, sử dụng phương pháp bình phương tối thiểu và dữ liệu từ Ngân hàng Trung ương Kenya cùng các chỉ số phát triển ngành từ Ngân hàng Thế giới Kết quả cho thấy rằng quy mô ngân hàng, sức mạnh vốn, chi phí hoạt động, vốn chủ sở hữu và tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản có ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận, được đo bằng chỉ số ROA Tác giả khuyến nghị Chính phủ Kenya nên triển khai chính sách khuyến khích các ngân hàng thương mại tăng cường tài sản và vốn để nâng cao hiệu quả ngành ngân hàng Ngoài ra, việc đầu tư vào công nghệ và kỹ năng quản lý, cùng với việc giảm thiểu chi phí hoạt động, sẽ góp phần tích cực vào sự tăng trưởng và tồn tại của các ngân hàng.

Ahmad Aref Almazari (2014) đã nghiên cứu các yếu tố vi mô tác động đến lợi nhuận của ngân hàng, với mục tiêu so sánh lợi nhuận giữa các ngân hàng Saudi Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu suất tài chính của các tổ chức ngân hàng trong khu vực.

Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ 23 ngân hàng Saudi và Jordan trong giai đoạn 2005-2011 với 161 quan sát để phân tích các yếu tố nội tại ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng Tác giả áp dụng các công cụ thống kê như tương quan Pearson, phân tích mô tả phương sai và phân tích hồi quy để kiểm định giả thuyết Kết quả cho thấy có mối tương quan tích cực giữa ROA của ngân hàng Saudi với các yếu tố TEA, TIA, và LQR, trong khi có tương quan âm với NCA, CDR, CIR và SZE Đối với ngân hàng Jordan, ROA có mối tương quan tích cực với LQR, NCA, TEA, CDR và tiêu cực với CIR, TIA, SZE Nghiên cứu khuyến nghị cần thực hiện thêm các nghiên cứu thực nghiệm để làm rõ hơn các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng.

Nghiên cứu của Trịnh Quốc Trung và Nguyễn Văn Sang (2013) đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam giai đoạn 2005-2012, sử dụng mô hình hồi quy Tobit và dữ liệu từ 39 NHTM Kết quả cho thấy rằng tổng chi phí hoạt động trên doanh thu có mối tương quan nghịch với chỉ số ROE và ROA; tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản cao dẫn đến lợi nhuận trên tổng tài sản tăng nhưng làm giảm lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu; tỷ lệ cho vay so với tổng tài sản cao giúp tăng lợi nhuận của NHTM, trong khi tỷ lệ nợ xấu cao lại làm giảm hiệu quả hoạt động Ngoài ra, các NHTM nhà nước hoạt động kém hiệu quả hơn so với các NHTM khác Hạn chế của nghiên cứu là chỉ sử dụng 7 biến định lượng, ít hơn so với mô hình của Heffernan và Fu (2008) về Trung Quốc với 15 biến, trong đó có 2 biến định tính, và chưa xem xét các yếu tố như trình độ lao động và giới tính nhân viên trong nghiên cứu hiệu quả hoạt động của NHTM.

Trần Việt Dũng (2014) xác định các nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của các

NHTM Việt Nam đã áp dụng phương pháp nghiên cứu dữ liệu bảng với ƣớc lƣợng moment tổng quát (GMM) do Arellano và Bond phát triển vào năm 1991 Mô hình này tận dụng các biến trễ và phương pháp sai phân, dựa trên giả định rằng sai phân bậc một của các biến công cụ không tương quan với các hiệu ứng cố định, từ đó cho phép sử dụng nhiều biến công cụ hơn và nâng cao tính hiệu quả của mô hình Dữ liệu nghiên cứu bao gồm thông tin hàng năm của 22 ngân hàng trong giai đoạn 2006-2012, được thu thập từ cơ sở dữ liệu bankscope của BVD và các báo cáo thường niên của ngân hàng Ngoài ra, các số liệu vĩ mô được tính toán và thu thập từ các báo cáo thống kê của Tổng Cục Thống kê Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong cùng khoảng thời gian.

Kết quả nghiên cứu năm 2012 cho thấy cổ phần hoá có tác động tích cực đến khả năng sinh lời của ngân hàng, trong khi sự hiện diện của cổ đông ngoại chưa ảnh hưởng rõ rệt đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Các ngân hàng có hiệu quả hơn khi nắm giữ nhiều vốn chủ sở hữu Tuy nhiên, tác giả không có đủ cơ sở để khẳng định tác động của quy mô tài sản, tỷ lệ dư nợ và huy động đến khả năng sinh lời Các biến số rủi ro của ngân hàng cũng chưa cho thấy ảnh hưởng rõ rệt đến hiệu quả hoạt động Cuối cùng, các yếu tố vĩ mô, đặc biệt là chu kỳ kinh tế, có tác động rõ nét đến hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Nguyễn Minh Sáng và cộng sự (2014) đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM) trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, áp dụng hai phương pháp ước lượng mô hình tổng quát là mô hình tác động cố định (FEM) và mô hình tác động ngẫu nhiên (REM), cùng với kiểm định Hausman để xác định mô hình phù hợp Kết quả hồi quy dữ liệu bảng cho thấy rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) có tác động ngược chiều đến NIM Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính của 30 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2008-2013 Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các yếu tố như sự phát triển ngành ngân hàng (BSD), tỷ lệ lạm phát (INF), tỷ lệ nắm giữ vốn chủ sở hữu (CAP), rủi ro tín dụng (CR), tính thanh khoản (LIQ) và chi phí hoạt động (OC) đều có tác động cùng chiều đến NIM.

Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2015) đã tiến hành nghiên cứu sự khác biệt trong khả năng sinh lời giữa các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) và ngân hàng quốc doanh tại Việt Nam, sử dụng phương pháp đồ thị và t-test để kiểm định Nghiên cứu phân tích tỷ số lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA) và lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) của 28 NHTM trong giai đoạn 2002-2013, cho thấy ROE và ROA của các NHTM Việt Nam có xu hướng giảm Kết quả cho thấy NHTMCP có ROA cao hơn NHTM quốc doanh, mặc dù sự chênh lệch này đang dần thu hẹp Tuy nhiên, nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng về sự khác biệt ROE giữa hai khối ngân hàng Hạn chế của nghiên cứu là chỉ kiểm định sự khác biệt mà chưa phân tích các yếu tố tác động đến khả năng sinh lời của từng nhóm ngân hàng, từ đó chưa đưa ra giải pháp cải thiện khả năng sinh lời cho các NHTM Việt Nam.

Nghiên cứu của Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cành (2015) về đa dạng hoá thu nhập và các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam chỉ ra rằng, mối quan hệ giữa đa dạng hoá thu nhập và khả năng sinh lời được xác định thông qua dữ liệu tài chính của 22 NHTM trong giai đoạn 2007-2013 Phương pháp ước lượng SGMM cho thấy, chỉ số đa dạng hoá thu nhập, tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản, tỷ lệ tiền gửi khách hàng và lạm phát đều có tác động tích cực đến khả năng sinh lời Ngược lại, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập lại có mối quan hệ tiêu cực với khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam.

Nghiên cứu chỉ ra rằng không có bằng chứng rõ ràng về ảnh hưởng của quy mô tổng tài sản và tốc độ tăng trưởng kinh tế đối với khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Việt Nam.

Nguyễn Thị Mỹ Linh và Nguyễn Thị Ngọc Hương (2015) đã tiến hành nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập lãi cận biên của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) tại Việt Nam Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy bảng (Panel Regression) với dữ liệu từ 27 NHTMCP trong giai đoạn 2008-2014.

30

GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng các biến độc lập như ROE và ROA được sử dụng để đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại (NHTM) Các mô hình này xác định các yếu tố nội tại và yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng, như trong các nghiên cứu của Salman Ahmad và cộng sự (2012), Muhammad Bilal và cộng sự (2013), cũng như Susan Moraa Onuonga.

(2014), Ahmad Aref Almazari1 (2014), Trịnh Quốc Trung, Nguyễn Văn Sang

Dựa trên các nghiên cứu trước đây, các tác giả Trần Việt Dũng (2014), Nguyễn Phạm Nhã Trúc và Nguyễn Phạm Thiên Thanh (2015) đã đưa ra một số giả thuyết về các yếu tố nội tại và yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Giả thuyết 1 cho rằng qui mô ngân hàng có tác động tích cực đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại (NHTM) Ngân hàng có tổng tài sản lớn sẽ có nhiều cơ hội đa dạng hóa đầu tư, từ đó giúp duy trì hoặc tăng lợi nhuận đồng thời giảm rủi ro Nhiều nghiên cứu, như của Susan Moraa Onuonga (2014) và Nguyễn Thị Mỹ Linh, Nguyễn Thị Ngọc Hương (2015), đã chỉ ra rằng có mối tương quan tích cực giữa qui mô (SIZE) và khả năng sinh lời, với dấu của SIZE trong mô hình nghiên cứu sẽ là dương.

Giả thuyết cho rằng tỷ lệ vốn chủ sở hữu có tương quan ngược chiều với khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại, trong đó tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản có tác động tiêu cực đến ROE.

Mặc dù vốn chủ sở hữu chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn, nhưng nó đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì an toàn và phát triển hoạt động của ngân hàng, do các ngân hàng phải tuân thủ tỷ lệ an toàn vốn Ngân hàng có quy mô vốn chủ sở hữu lớn thường có khả năng huy động thêm vốn vay và nợ để phục vụ hoạt động kinh doanh, điều này được nhiều nghiên cứu như của Salman Ahmad và Bilal ủng hộ.

Theo nghiên cứu của Bilal Nafees (2012), có sự tương quan ngược chiều giữa CA và ROE, trong khi đó CA lại có mối quan hệ cùng chiều với ROA Ngoài ra, kích thước (SIZE) sẽ có ảnh hưởng âm trong mô hình ROE nhưng lại có ảnh hưởng dương trong mô hình ROA.

Giả thuyết cho rằng tiền gửi khách hàng tác động tích cực đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại (NHTM) Tiền gửi khách hàng, với vai trò là nguồn vốn huy động chủ yếu, càng nhiều sẽ giúp NHTM đạt lợi nhuận cao hơn nhờ vào khả năng cho vay và mở rộng các hoạt động sinh lời khác Tỷ lệ tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản cao sẽ làm tăng khả năng sinh lời của ngân hàng Do đó, theo giả thuyết, tồn tại mối tương quan tích cực giữa tiền gửi khách hàng và khả năng sinh lời, với hệ số tương quan dương trong mô hình nghiên cứu.

Giả thuyết 4 cho rằng cho vay khách hàng có tác động tích cực đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại (NHTM) Nhiều tài liệu cho rằng khả năng sinh lời của ngân hàng sẽ tăng khi tỷ lệ cho vay trong danh mục tài sản cao hơn so với các tài sản an toàn khác Mặc dù chi phí giữ các khoản cho vay có thể tăng, nhưng khả năng sinh lời vẫn được kỳ vọng tăng khi tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản gia tăng Nhiều nghiên cứu đã ủng hộ quan điểm này.

Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cành (2014) đề xuất rằng có một mối tương quan tích cực giữa tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản và khả năng sinh lời, với dấu hiệu của biến LOAN sẽ là dương trong mô hình nghiên cứu.

Giả thuyết cho rằng tính thanh khoản của ngân hàng thương mại (NHTM) có mối quan hệ ngược chiều với khả năng sinh lời Cụ thể, tỷ lệ thanh khoản thấp đồng nghĩa với khả năng chống đỡ rủi ro thanh khoản yếu và ngược lại Khả năng thanh khoản không chỉ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố vĩ mô mà còn bởi các nguyên nhân nội tại của NHTM Tỷ lệ thanh khoản quá cao có thể cho thấy hiệu quả sử dụng vốn không tốt, dẫn đến chi phí cơ hội cao và giảm lợi nhuận, do tài sản thanh khoản thường có mức sinh lời thấp hơn so với các tài sản khác Ngân hàng cần cân nhắc kỹ lưỡng giữa rủi ro và lợi nhuận, với giả thuyết cho rằng có sự tương quan ngược chiều giữa LQD và khả năng sinh lời, thể hiện qua dấu hiệu âm của LQD trong mô hình nghiên cứu.

Giả thuyết cho rằng tỷ lệ nợ xấu có mối tương quan ngược chiều với khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại (NHTM) cho thấy rằng nợ xấu so với tổng dư nợ phản ánh mức độ rủi ro mà NHTM phải đối mặt, đồng thời thể hiện chất lượng tín dụng và tình hình tài chính của ngân hàng Khi tỷ lệ nợ xấu cao, chất lượng tín dụng giảm sút, yêu cầu ngân hàng phải tăng cường trích lập dự phòng, dẫn đến chi phí tăng và khả năng sinh lời bị ảnh hưởng Nhiều nghiên cứu, như của Muhammad Bilal và cộng sự (2013), Aremu và cộng sự (2013), Trịnh Quốc Trung, Nguyễn Văn Sang, đã ủng hộ quan điểm này.

Theo nghiên cứu của Hồ Thị Hồng Minh (2013) và Nguyễn Thị Cành (2015), giả thuyết đưa ra cho thấy có mối tương quan ngược chiều giữa nợ xấu (NPL) và khả năng sinh lời, với dấu hiệu của NPL được dự đoán là âm trong mô hình nghiên cứu.

Giả thuyết 7 cho rằng chi phí hoạt động có mối quan hệ ngược chiều với khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại (NHTM), trong đó khả năng sinh lời phản ánh hiệu quả quản lý Chi phí quản lý cao chỉ ra chất lượng quản lý kém, đồng thời có tác động tiêu cực đến khả năng sinh lời Nhiều nghiên cứu, như của Salman Ahmad và các cộng sự (2012), Susan Moraa Onuonga (2014), và Ahmad Aref Almazari (2014), đã ủng hộ quan điểm này Theo giả thuyết, mối quan hệ giữa chi phí hoạt động và khả năng sinh lời sẽ cho thấy dấu âm trong mô hình nghiên cứu.

Chu kỳ kinh tế có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại (NHTM) Khi tình hình kinh tế xấu, sức mua của người tiêu dùng giảm, dẫn đến doanh số bán hàng của người vay sụt giảm, làm giảm chất lượng danh mục cho vay và khả năng trả nợ, từ đó tăng dự phòng rủi ro tín dụng và giảm lợi nhuận của ngân hàng Thêm vào đó, tình trạng thất nghiệp gia tăng khiến doanh nghiệp không tiêu thụ được hàng hóa, làm giảm đột ngột tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán, buộc ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn khác với chi phí cao hơn Ngược lại, khi kinh tế tăng trưởng, khả năng trả nợ của khách hàng được cải thiện nhờ vào các cơ hội đầu tư và triển vọng kinh doanh thuận lợi, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng khả năng huy động vốn và cải thiện chất lượng tín dụng, từ đó nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng.

Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế suy giảm, người dân có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn đầu tư, với kênh gửi tiết kiệm được xem là an toàn và mang lại lợi nhuận ổn định Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng gặp nhiều khó khăn do các nguyên nhân khách quan và chủ quan, ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Theo giả thuyết, tồn tại mối tương quan cùng chiều giữa GDP và khả năng sinh lời, với dấu của GDP sẽ dương trong mô hình nghiên cứu.

MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Dựa trên các nghiên cứu tổng quan trước đây, tác giả đã chọn mô hình hồi quy tuyến tính đa biến của Muhammad Bilal và cộng sự (2013) để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Việt Nam Mô hình này phù hợp với các quốc gia đang phát triển, có tính chất phổ biến và tương đồng với các nghiên cứu khác, đồng thời dữ liệu nghiên cứu cũng dễ dàng thu thập tại Việt Nam Mô hình nghiên cứu được trình bày như sau:

PRO it =  1 +  2 * SIZE it +  3 *CA it +  4 *DP it +  5 *LOAN it +  6 *LQD it +  7 *NPL it +  8 *OC it +  9 *GDP t +  10 * INF t + e it (3.1)

PRO : chỉ số đo lường khả năng sinh lời bởi ROE, ROA

1 : là hằng số của mô hình

Hệ số hồi quy từ β2 đến β10 thể hiện mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc trong nghiên cứu Trong đó, e đại diện cho nhiễu và phần dư của phương trình hồi quy, phản ánh sai số cũng như các yếu tố không được đưa vào mô hình nhưng vẫn ảnh hưởng đến biến phụ thuộc Nghiên cứu này bao gồm 17 ngân hàng và phân tích dữ liệu từ năm 2006 đến 2015.

MÔ TẢ BIẾN TRONG MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

ROE, hay tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu, là chỉ số quan trọng để đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng Chỉ số này được tính bằng cách lấy lợi nhuận trước thuế chia cho tổng vốn chủ sở hữu tại thời điểm cuối năm, nhằm loại bỏ ảnh hưởng của thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hàng năm đến tăng trưởng lợi nhuận Khoản mục vốn chủ sở hữu được trích từ báo cáo cân đối, trong khi lợi nhuận trước thuế được lấy từ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm của ngân hàng.

ROA, hay tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản, là chỉ số quan trọng để đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng Chỉ số này được tính bằng cách chia lợi nhuận trước thuế cho tổng tài sản tại thời điểm cuối năm, nhằm tránh ảnh hưởng của thuế suất thu nhập doanh nghiệp đến tăng trưởng lợi nhuận Tổng tài sản được lấy từ báo cáo cân đối, trong khi lợi nhuận trước thuế được trích xuất từ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm của ngân hàng.

SIZE đại diện cho quy mô ngân hàng, được tính bằng logarit tự nhiên của tổng tài sản, thường có giá trị lớn Tổng tài sản được lấy từ báo cáo cân đối của các ngân hàng vào cuối mỗi năm Giả thuyết cho rằng quy mô ngân hàng có mối quan hệ tích cực với khả năng sinh lời, do đó dấu của SIZE sẽ dương trong mô hình hồi quy này.

CA đo lường tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, được tính bằng cách chia vốn chủ sở hữu cho tổng tài sản vào cuối năm, nhằm đánh giá mức độ phù hợp của vốn Khoản mục vốn chủ sở hữu được lấy từ báo cáo cân đối của ngân hàng tại thời điểm cuối mỗi năm Theo giả thuyết, có mối tương quan nghịch giữa vốn chủ sở hữu và khả năng sinh lời, do đó, dấu của CA sẽ âm trong mô hình hồi quy này.

DP đo lường tỷ lệ tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản, được tính bằng cách lấy tổng số dư huy động tiền gửi khách hàng chia cho tổng tài sản tại thời điểm cuối năm Khoản mục tiền gửi khách hàng được lấy từ báo cáo cân đối của các ngân hàng tại thời điểm cuối mỗi năm Theo giả thuyết, tồn tại tương quan cùng chiều giữa tiền gửi khách hàng và khả năng sinh lời hay dấu của DP sẽ dương trong mô hình hồi qui này.

LOAN đo lường tỷ lệ vốn cho vay so với tổng tài sản được tính bằng cách lấy tổng dƣ nợ cho vay khách hàng chia cho tổng tài sản tại thời điểm cuối năm phản ánh rủi ro thanh khoản trong hoạt động của ngân hàng Khoản mục cho vay khách hàng đƣợc lấy từ báo cáo cân đối của các ngân hàng tại thời điểm cuối mỗi năm, không bao gồm số dư quỹ DPRR tín dụng Theo giả thuyết, tồn tại tương quan cùng chiều giữa cho vay khách hàng và khả năng sinh lời hay dấu của LOAN sẽ dương trong mô hình hồi qui này

LQD đo lường tỷ lệ sản sản lưu động trên tổng tài sản, được tính bằng cách lấy tiền mặt và các khoản tương đương tiền tại quỹ, tiền gửi tại NHNN, tiền gửi thanh toán tại các tổ chức tín dụng khác, tiền gửi và cho vay tại các tổ chức tín dụng khác dưới

90 ngày, chứng khoán có thời hạn thu hồi hoặc đáo hạn không quá 3 tháng kể từ ngày mua chia cho tổng tài sản tại thời điểm cuối năm, là biến số đo lường rủi ro thanh khoản của NHTM, phản ánh khả năng xử lý các nhu cầu tiền mặt tức thời Khoản mục tổng tài sản lưu động được lấy từ chỉ tiêu tiền và các khoản tương đương tiền cuối năm tại báo cáo lưu chuyển tiền tệ của các ngân hàng tại thời điểm cuối mỗi năm Theo giả thuyết, tài sản lưu động được kỳ vọng ngược chiều với khả năng sinh lời của ngân hàng hay dấu của LQD sẽ âm trong mô hình hồi qui này

NPL đo lường tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của từng ngân hàng, được tính bằng tỷ lệ phần trăm của số dƣ nợ xấu (nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5) chia cho tổng dƣ nợ cho vay khách hàng tại thời điểm cuối năm được sử dụng để đo lường rủi ro tín dụng của ngân hàng, do vậy biến này phần nào phản ảnh năng lực quản trị điều hành của các nhà quản lý Khoản mục nợ xấu đƣợc lấy từ thuyết minh báo cáo tài chính của các ngân hàng tại thời điểm cuối mỗi năm chia cho tổng dƣ nợ Theo giả thuyết, nợ xấu được kỳ vọng ngược chiều với khả năng sinh lời của ngân hàng do ảnh hưởng đến chất lƣợng tín dụng đến chi phí trích DPRR hay dấu của NPL sẽ âm trong mô hình hồi qui này

OC đo lường chi phí hoạt động trên tổng tài sản của các NHTM tại thời điểm cuối năm Khoản mục chi phí hoạt động đƣợc lấy từ báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng tại thời điểm cuối mỗi năm Theo giả thuyết, chi phí hoạt động đƣợc kỳ vọng ngƣợc chiều với khả năng sinh lời của ngân hàng hay dấu của

OC sẽ âm trong mô hình hồi qui này

GDP thể hiện tác động của chu kỳ kinh tế tới khả năng sinh lời của các NHTMCP

Tác giả sử dụng chỉ số GDP, tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội hàng năm (%) để phản ánh môi trường kinh tế được thu thập từ website chính thức của Tổng Cục thống kê

INF đo lường lạm phát hàng năm thể hiện qua chỉ số giá tiêu dùng (CPI), lạm phát tác động đến chi phí lương và chi phí hoạt động khác của ngân hàng Tác giả sử dụng tỷ lệ tỷ lệ % tăng, giảm CPI bình quân hàng năm để phản ánh tỷ lệ lạm phát đƣợc thu thập từ website chính thức của Tổng Cục thống kê.

DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU

Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 17 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) tại Việt Nam trong giai đoạn 2006-2015, thời kỳ chứng kiến nhiều biến động như hợp nhất, sáp nhập và thành lập mới Những thay đổi này đã ảnh hưởng đến báo cáo tài chính, dẫn đến việc một số ngân hàng công bố thông tin không đầy đủ Để đảm bảo tính chính xác và độ lớn của mẫu nghiên cứu, tác giả đã loại bỏ các ngân hàng không công bố thông tin hoặc có thông tin không đầy đủ, đồng thời bổ sung dữ liệu từ 3 NHTMCP có quá trình hợp nhất, sáp nhập từ năm 2010.

Nghiên cứu được thực hiện vào năm 2015, sử dụng dữ liệu thứ cấp với 170 quan sát từ các báo cáo tài chính đã được kiểm toán vào cuối năm và báo cáo thường niên Một số ngân hàng không công bố đầy đủ số liệu nợ xấu trong báo cáo tài chính, do đó, tác giả đã lấy tỷ lệ nợ xấu từ báo cáo của Chủ tịch Hội đồng Quản trị ngân hàng tại Đại hội cổ đông thường niên Bài viết cũng sử dụng dữ liệu về yếu tố kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát, được thu thập từ website của Tổng Cục Thống kê Việt Nam Ngoài ra, các nguồn tư liệu từ văn bản hướng dẫn của NHNN Việt Nam, các tạp chí khoa học và tài liệu nghiên cứu trước đây cũng được tham khảo để hỗ trợ cho nghiên cứu.

Trong nghiên cứu về hoạt động sáp nhập, hợp nhất và đổi tên các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, có một số sự kiện quan trọng như sau: Ngày 27/7/2010, NHTMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã đổi tên thành NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng Tiếp theo, vào ngày 15/11/2011, ba NHTM cổ phần Sài Gòn, Việt Nam Tín Nghĩa và Đệ Nhất đã hợp nhất thành NHTMCP Sài Gòn, chính thức hoạt động từ ngày 01/01/2012 Vào ngày 25/05/2015, NHTMCP Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long đã sáp nhập vào NHTMCP Đầu tư & Phát triển Việt Nam Ngày 12/8/2015, NHTMCP Phát triển MêKong sáp nhập vào NHTMCP Hàng Hải, và vào ngày 01/5/2015, NHTMCP Phương Nam đã sáp nhập vào NHTMCP Sài Gòn Thương Tín.

TRÌNH TỰ NGHIÊN CỨU

Bước đầu tiên trong nghiên cứu là phân tích thống kê mô tả các đặc tính cơ bản của dữ liệu mẫu, bao gồm giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của các biến đo lường liên quan đến các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2006-2015.

Bước 2 trong quy trình phân tích dữ liệu là xác định mối quan hệ giữa các biến độc lập trong mô hình, điều này giúp đánh giá độ chính xác của dự báo Nếu các biến độc lập có mối tương quan cao, điều này chỉ ra hiện tượng đa cộng tuyến, từ đó cần thực hiện kiểm định đa cộng tuyến và điều chỉnh mô hình cho phù hợp.

Bước 3 trong nghiên cứu là phân tích hồi quy để đo lường mức độ ảnh hưởng của từng biến độc lập đến biến phụ thuộc, nhằm trả lời câu hỏi về nhân tố tác động đến khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam Qua phương pháp hồi quy, hệ số p-value cho thấy mức độ tác động của từng biến độc lập; các mức thống kê có ý nghĩa thông dụng là 1%, 5%, và 10% Trong luận văn, tác giả chọn mức ý nghĩa 5%, nghĩa là biến độc lập chỉ được xem là có ảnh hưởng khi p-value nhỏ hơn 5%, tương ứng với độ tin cậy 95% Tác giả cũng lưu ý rằng p-value nhỏ hơn 10% vẫn có thể xem xét, trong khi p-value lớn hơn 10% không có ý nghĩa thống kê Hệ số xác định R² cho biết mức độ giải thích của các biến độc lập đối với sự biến động của biến phụ thuộc ROE và ROA trong mô hình nghiên cứu.

Bước 4 trong phân tích hồi quy bao gồm việc kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến, tự tương quan và phương sai sai số thay đổi Đa cộng tuyến xảy ra khi các biến giải thích chứa thông tin riêng về biến phụ thuộc, dẫn đến việc các biến không độc lập với nhau Dấu hiệu nhận biết đa cộng tuyến là khi hệ số tương quan giữa các biến giải thích lớn hơn 0,8, và nhân tử phóng đại phương sai (VIF) được sử dụng để xác định mức độ này Luận văn áp dụng VIF để phát hiện đa cộng tuyến trong mô hình, đặc biệt khi một biến có tương quan tuyến tính mạnh với biến khác Nếu VIF lớn hơn 10, điều này chỉ ra sự tồn tại của đa cộng tuyến giữa các biến.

Bước 5 Sau khi kiểm định là thực hiện các biện pháp khắc phục và điều chỉnh mô hình phù hợp (nếu có).

41

52

Ngày đăng: 13/07/2021, 09:34

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w