Tổng quan nghiên cứu
Tình hình nghiên cứu và sản xuất ớt, cà chua trên thế giới
2.1.1 Tình hình nghiên cứu, sản xuất cà chua trên Thế giới
Cà chua, thuộc họ cà (Solanaceae), có nguồn gốc từ Peru, Bolivia và Ecuador, được đưa vào châu Âu vào cuối những năm 1400 Tại Oman, vùng Al Batihan, phía tây bắc thủ đô Muscat, là nơi sản xuất cà chua chính, chiếm 87% tổng sản lượng Hơn 90% cà chua được trồng trên cánh đồng, trong khi một phần nhỏ được trồng trong nhà kính Hạt giống cà chua thường được nhập khẩu và nhiều giống được đổi tên trước khi đến tay nông dân Cà chua không chỉ tiêu thụ nội địa mà còn được xuất khẩu sang các thị trường lân cận Tuy nhiên, sản xuất cà chua ở Oman và các quốc gia khác gặp khó khăn do một số bệnh nấm, trong đó bệnh đốm lá và bệnh rụng lá là nghiêm trọng nhất.
Cà chua, một loại rau ăn quả phát triển nhanh, đã ghi nhận sự gia tăng sản xuất 49% từ năm 2000 đến 2013 Năm 2016, sản lượng cà chua toàn cầu đạt khoảng
Thế giới sản xuất cà chua đạt 130 triệu tấn, trong đó 88 triệu tấn dành cho thị trường tươi và 42 triệu tấn là sản phẩm chế biến Năm nhà sản xuất lớn nhất gồm Trung Quốc, EU, Ấn Độ, Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ chiếm 70% sản lượng toàn cầu, với Italia, Hy Lạp và Bồ Đào Nha chi phối thương mại quốc tế trong EU Đặc biệt, Trung Quốc đã trở thành một nhà sản xuất và xuất khẩu quan trọng các sản phẩm cà chua.
Năm 2003, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu cà chua lớn nhất thế giới với 25% thị phần xuất khẩu toàn cầu (Global Trade Atlas Statistics) Trong năm 2014, Trung Quốc sản xuất 52,7 triệu tấn cà chua, chiếm gần một phần ba sản lượng toàn cầu, nhưng hầu hết sản phẩm đều tiêu thụ nội địa, chỉ khoảng 1,5% (597,000 tấn) được xuất khẩu, trong đó hơn 60% dành cho Nga Về xuất khẩu, Trung Quốc đứng thứ 8, sau Hoa Kỳ (Travis and Jennifer, 2016) Tại Liên Minh Châu Âu, cà chua là loại rau chiếm thị phần lớn nhất với 19%, trong năm 2014, các nước EU sản xuất 16,6 triệu tấn, chiếm 12% sản lượng toàn cầu.
Trong giai đoạn từ năm 1989-1990 đến năm 2001-2002, tổng tiêu dùng của
Liên minh Châu Âu đã chứng kiến mức tiêu thụ cà chua tăng 65% và tiêu thụ bình quân đầu người tăng 36%, với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm là 3,8% và 2,3% Tiêu thụ bình quân đầu người đã tăng từ 13,88 kg lên 18,93 kg cà chua tươi Hiện tại, Mexico là quốc gia xuất khẩu cà chua lớn nhất thế giới, với hơn 1,5 triệu tấn cà chua, chủ yếu cung cấp cho thị trường Mỹ Kể từ năm 2005, diện tích canh tác cà chua của Mexico đã tăng gấp ba lần, đạt trên 12.000 ha.
Năm 2015, khoảng 80% các khoản đầu tư vào ngành cà chua tập trung vào xuất khẩu sang Hoa Kỳ, quốc gia nhập khẩu cà chua lớn nhất thế giới Mặc dù sản lượng nội địa của Hoa Kỳ đáp ứng khoảng 40% nhu cầu, phần còn lại chủ yếu được nhập khẩu từ Mexico và một phần nhỏ từ Canada Tiêu thụ cà chua tươi bình quân đầu người ổn định ở mức 9,5 kg, chỉ chiếm 25% tổng tiêu thụ cà chua, trong khi phần lớn được chế biến thành nước sốt và nước ép trái cây (Travis và Jennifer, 2016).
Tây Ban Nha là nước sản xuất cà chua lớn nhất châu Âu, chiếm khoảng một phần ba sản lượng của khu vực Năm 2015, xuất khẩu cà chua của Tây Ban Nha đạt 950 triệu kg, giảm 7,47% so với năm 2013 và thấp hơn 1,8% so với năm 2014 Trong khi đó, Pháp là nước sản xuất cà chua lớn thứ hai tại châu Âu với sản lượng 614,165 tấn vào năm 2016, chủ yếu được trồng trong nhà kính trên diện tích 2.298 ha Brittany là khu vực sản xuất chính của Pháp, chiếm 36% tổng sản lượng Năm 2014, Pháp đã xuất khẩu khoảng 252,000 tấn cà chua sang các thị trường như Đức, Bỉ, Hà Lan, Ba Lan và Ý.
Cải cách chính sách nông nghiệp của Liên minh Châu Âu (CNHT) vào năm 1997 đã dẫn đến sự gia tăng hạn ngạch sản xuất cà chua của Bồ Đào Nha từ 832,945 tấn năm 1996 lên 994,592 tấn năm 1997-1998, nhưng sau đó giảm xuống còn 884,592 tấn vào năm 1998-1999 Đến năm 2002-2003, Bồ Đào Nha trở thành nhà sản xuất dán nhãn lớn thứ 3 trong EU, chiếm 3% sản lượng cà chua thế giới và khoảng 10% sản lượng của EU, đồng thời đóng góp 8% vào sản lượng trung bình hàng năm của AMITON (Hiệp hội Chế biến Quốc tế Địa Trung Hải Cà chua) trong giai đoạn 2001-2003.
Năm 2014, Trung Quốc dẫn đầu khu vực Châu Á Thái Bình Dương với sản lượng cà chua đạt 52,7 triệu tấn, tiếp theo là Ấn Độ với 18,7 triệu tấn, Indonesia 916 nghìn tấn, Nhật Bản 739,9 nghìn tấn và Pakistan 599,59 nghìn tấn Ở Ấn Độ, cà chua được trồng bởi hàng triệu nông hộ, chủ yếu tập trung tại các tiểu bang lớn như Andhra Pradesh, Karnataka và Madhya Pradesh Cà chua tươi từ Ấn Độ được xuất khẩu sang các thị trường Trung Đông và Nam Á, nhưng giá trị xuất khẩu toàn cầu của Ấn Độ năm 2015 chỉ đạt 67 triệu USD, rất nhỏ so với tổng giá trị thị trường cà chua tươi toàn cầu là 8,4 tỷ USD.
Tại Indonesia sản lượng cà chua tăng giảm không đồng đều qua các năm Năm
2012 sản lượng đạt 893,5 nghìn tấn, năm 2013 tăng 19,28 nghìn tấn so với năm
Từ năm 2012 đến 2015, sản lượng cà chua tại Nhật Bản đạt đỉnh cao nhất là 992,78 nghìn tấn vào năm 2012, nhưng đã giảm xuống còn 916 nghìn tấn vào năm 2014 và tiếp tục giảm xuống 877,73 nghìn tấn vào năm 2015 Cà chua là cây trồng quan trọng nhất tại Nhật Bản, luôn đứng đầu về giá trị sản xuất rau trong nhiều năm Loại cây này chủ yếu được trồng trong nhà kính và có sản lượng ổn định, sản xuất quanh năm.
Từ năm 2010 – 2014 sản lượng tăng lên khoảng 489 nghìn tấn, từ 691 nghìn tấn đến 739,9 nghìn tấn Trong những năm 2011, 2012, 2013 sản lượng cà chua lần lượt đạt
Cà chua là loại cây đứng thứ ba tại Ấn Độ, sau khoai tây và tỏi, nhưng lại đứng thứ hai trên thế giới, với sản lượng đạt 703 nghìn tấn, 722 nghìn tấn và 748 nghìn tấn Ấn Độ xếp thứ hai trong khu vực về sản xuất cà chua, trong khi Mỹ, chủ yếu là California, dẫn đầu với khoảng 11 triệu tấn Italia là quốc gia sản xuất lớn thứ hai, với sản lượng chưa bằng một nửa của Mỹ Ngoài ra, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, Brazil và Hy Lạp cũng là những nhà sản xuất chính, mỗi nước chế biến trên 1,1 triệu tấn cà chua hàng năm Mỗi năm, 4,6 triệu tấn cà chua tươi được xuất khẩu, với Tây Ban Nha và Mexico là những nước xuất khẩu hàng đầu Tổng xuất khẩu cà chua chế biến trên toàn cầu bao gồm 3,3 triệu tấn nước ép và 2 triệu tấn sốt cà chua Cà chua đã trở thành cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao cho 159 quốc gia, và nhiều giống mới đã được phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về số lượng và chất lượng.
Bảng 2.1 Tình hình sản xuất cà chua trên thế giới
Từ năm 2005 đến năm 2011, diện tích trồng cà chua toàn cầu tăng nhẹ từ 4,560,654 triệu ha lên 4,751,530 triệu ha Tuy nhiên, năng suất và sản lượng cà chua đã có sự tăng trưởng đáng kể trong giai đoạn này Cụ thể, trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến năm 2012, diện tích cà chua toàn cầu tăng 1,12 lần, sản lượng tăng 1,25 lần và năng suất cũng tăng 1,12 lần, với sản lượng đạt 161,793,834 tấn và năng suất đạt 33,68 tấn/ha.
Theo Bảng 2.2, năm 2012, Châu Á dẫn đầu thế giới về diện tích trồng cà chua với 2,824,757 nghìn ha và sản lượng đạt 98,892,723 nghìn tấn Trong khi đó, Châu Phi cũng ghi nhận năng suất ấn tượng với 17,937,834 tấn/ha.
Theo FAO (1999), trên thế giới có 158 nước trồng cà chua Diện tích, sản lượng, năng suất cà chua trên thế giới năm 2012 như sau:
Bảng 2.2 Diện tích, sản lượng, năng suất cà chua của các châu lục năm 2012
Tên châu lục Diện tích (ha)
Sản lượng cà chua toàn cầu chiếm khoảng 1/6 tổng sản lượng rau hàng năm, với Mỹ là nước có giá trị nhập khẩu cà chua lớn nhất Châu Âu đứng đầu về nhập khẩu, đạt khoảng 21 triệu tấn quả tươi mỗi năm, tương đương 60% tổng lượng nhập khẩu toàn cầu Mỹ cũng là quốc gia tiêu thụ cà chua hàng đầu, theo sau là các nước châu Âu Vào năm 1999, tổng lượng cà chua trao đổi trên thị trường thế giới đạt 36,7 triệu tấn, trong đó chỉ 5-7% được sử dụng dưới dạng ăn tươi, cho thấy rằng phần lớn cà chua được tiêu thụ ở dạng đã qua chế biến.
Cà chua chế biến được sản xuất chủ yếu ở Mỹ và Italia, với sản lượng cao nhất vào năm 2002 đạt 10,1 triệu tấn tại Mỹ, trong đó cà chua cô đặc là sản phẩm chủ yếu Tại Italia, sản lượng cà chua chế biến phục vụ nhu cầu ăn tươi ước tính đạt 4,7 triệu tấn.
Bảng 2.3 Những nước có sản lượng cà chua cao nhất thế giới năm 2012
STT Tên nước Sản lượng(tấn)
Tình hình nghiên cứu và sản xuất cà chua, ớt ở Việt Nam
Lịch sử phát triển cà chua ở Việt Nam chỉ mới khoảng 100 năm nhưng đã trở nên phổ biến trên toàn quốc Diện tích trồng cà chua hàng năm dao động từ 12.000-13.000 ha và có xu hướng tăng, chiếm khoảng 7-10% tổng diện tích trồng rau cả nước Đặc biệt, vào năm 2000, diện tích và sản lượng cà chua đã chiếm 29% tổng diện tích và sản lượng rau của cả nước, theo số liệu của Tổng cục Thống kê (2006) Cà chua chủ yếu được trồng ở các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ như Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, trong khi miền Nam có các tỉnh như An Giang, Tiền Giang và Lâm Đồng trồng nhiều.
Bảng 2.4 Diện tích, năng suất và sản lượng cà chua giai đoạn 2005-2012
Nguồn số liệu:Vụ Nông nghiệp - Tổng cục thống kê
Nhu cầu ngày càng tăng về số lượng và chất lượng cà chua cho thị trường nội địa và xuất khẩu đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ trong ngành sản xuất Nhờ vào các tiến bộ về giống mới và quy trình kỹ thuật tiên tiến, diện tích, năng suất và sản lượng cà chua đã được cải thiện đáng kể trong thời gian qua.
Giống cà chua được trồng phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay là M386, với diện tích khoảng 1,432 ha Các giống khác bao gồm cà chua Pháp VL200, TN002, Red Crown, Ba Lan, HT42, VL2910 và Trang Nông Trước đây, cà chua chủ yếu được sản xuất vào vụ đông, dẫn đến thời gian cung cấp sản phẩm ngắn Tuy nhiên, từ năm 1997-2000, một cuộc "cách mạng" trong sản xuất cà chua diễn ra với sự xuất hiện của các giống cà chua lai chịu nóng, cho phép trồng nhiều vụ trong năm.
Sản xuất cà chua ở miền Bắc đã được triển khai qua nhiều thời vụ như hè thu, thu đông, vụ đông và vụ xuân hè, cho phép cung cấp sản phẩm cà chua tươi cho thị trường từ đầu tháng 10 đến đầu tháng 7 năm sau, đánh dấu một bước tiến lớn trong ngành nông nghiệp.
Cây cà chua ở Việt Nam hiện nay chủ yếu được xem như một loại gia vị với mức tiêu thụ chưa cao, chưa hình thành nền sản xuất lớn mặc dù có nhiều lợi thế phát triển Hầu hết diện tích trồng cà chua sử dụng giống lai nhập khẩu, mặc dù chúng có nhiều ưu điểm nhưng cũng tồn tại nhược điểm như chu kỳ sinh trưởng dài, chín muộn, không phù hợp với cơ cấu luân canh khắt khe ở miền Bắc, khó phát triển trên diện rộng và hạn chế thời gian cung cấp sản phẩm.
Hầu hết các giống cà chua lai nhập nội hiện nay có chất lượng tiêu dùng chưa cao do không phù hợp với khí hậu miền Bắc Đồng bằng và trung du Bắc Bộ nổi tiếng với sản xuất rau chất lượng cao, đặc biệt là cà chua, với thời gian cung cấp từ 15/11 đến hết tháng 6 năm sau, tạo cơ hội tiêu thụ mạnh trong giai đoạn khan hiếm Thế mạnh này càng nổi bật trong mùa đông lạnh giá ở các nước phương Bắc, nơi không thể sản xuất rau tươi, làm tăng giá trị xuất khẩu cà chua chất lượng cao từ miền Bắc Việt Nam.
Quỹ đất dành cho việc phát triển cà chua rất phong phú, vì việc trồng trong vụ đông xuân không làm ảnh hưởng đến hai vụ lúa Sản phẩm cà chua tập trung thu hoạch từ tháng 12 đến tháng 3, giúp giảm thiểu sự cạnh tranh với thời vụ trồng và thu hoạch cà chua của Trung Quốc, quốc gia có sản lượng cà chua lớn nhất thế giới (Phạm Hồng Quảng và cs., 2005).
Các vùng trồng cà chua có nguồn lao động dồi dào và nông dân giàu kinh nghiệm, giúp hạ giá thành sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh Việc phát triển thị trường sẽ tạo ra nghề nghiệp ổn định cho nông dân miền Bắc, mang lại nhiều công ăn việc làm và thu nhập cao gần như quanh năm.
Cà chua là cây trồng dễ áp dụng công nghệ sản xuất an toàn, cung cấp sản phẩm chất lượng cao cho người tiêu dùng Việt Nam đã đầu tư vào một nhà máy chế biến cà chua cô đặc hiện đại tại Hải Phòng, với công suất 10 tấn nguyên liệu/ngày Do đó, quy hoạch vùng trồng cà chua, đặc biệt ở các tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương và Hải Phòng, trở nên cấp thiết Cà chua sinh trưởng tốt nhất vào vụ đông, mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong chọn giống và công nghệ, vụ đông vẫn là thời điểm chính cho sản lượng và chất lượng cao nhất.
Trong quá trình sinh trưởng của cây cà chua vụ xuân hè 2017, thời tiết và chế độ chăm bón đã ảnh hưởng đến sự phát triển của cây, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều mầm bệnh gây hại Các bệnh này tác động đến mọi bộ phận của cây cà chua với mức độ nghiêm trọng khác nhau, bao gồm các bệnh như đốm vòng, xoăn lá, khảm lá và đốm nâu.
Bệnh đốm vòng chủ yếu ảnh hưởng đến lá và quả, đôi khi xuất hiện trên thân cây Trên lá, vết bệnh bắt đầu từ các lá già ở phía dưới, lan dần lên các lá trên, với hình dạng tròn hoặc có cạnh, màu nâu sẫm và các vòng đồng tâm màu đen Nhiều vết bệnh liên kết tạo thành vùng lớn, khiến lá vàng, khô và rụng sớm Trên quả, vết bệnh xuất hiện đầu tiên ở cuống hoặc tai quả, có hình tròn, màu nâu sẫm, hơi lõm và cũng có các vòng đồng tâm màu đen, làm quả dễ rụng Trên thân cây, nấm gây ra các vết bệnh màu nâu với các vòng đồng tâm và hơi lõm.
Bệnh phát sinh và gây hại mạnh mẽ trong điều kiện nhiệt độ và độ ẩm cao, dẫn đến sự phát triển nhanh chóng và khả năng hình thành dịch hại trên diện rộng Nấm sinh sản thông qua bào tử, với nhiệt độ lý tưởng cho sự nảy mầm của bào tử là 30 độ C.
- Bệnh gây hại trên cây cà chua, khoai tây, …
Sợi nấm và bào tử nấm có thể tồn tại trên tàn dư cây bệnh và cây ký chủ ít nhất một năm, và chúng được phát tán qua gió cũng như côn trùng, gây bệnh cho cây trồng Để phòng ngừa và kiểm soát nấm gây hại, người trồng có thể áp dụng các biện pháp hóa học, sinh học và canh tác, trong đó có thể thử nghiệm hiệu lực của các sản phẩm như Anvil, Score và Manozeb.
Bệnh hại xuất hiện trên lá, thân và quả của cây từ giai đoạn non cho đến khi thu hoạch Trên lá, các vết bệnh ban đầu có hình dạng nhỏ, mờ và giống giọt dầu, sau đó chuyển sang màu nâu đen với viền vàng xung quanh Phần giữa của đốm bệnh thường khô và dễ bị rách.
Vết bệnh trên thân cây có màu xanh tối, không có hình dạng cố định và có vẻ ẩm ướt Theo thời gian, vết bệnh chuyển sang màu nâu và khô lại Trên quả, vết bệnh xuất hiện những đốm nhỏ màu nâu đen, ẩm ướt và hơi nhô lên trên bề mặt quả xanh Đối với quả chín, bệnh tạo ra những quầng màu xanh đậm, ẩm ướt với đường kính từ 3-6mm.
Các bệnh trên ớt và biện pháp phòng trừ
2.3.1 Bệnh thán thư (Colectochitrum sp.)
Tổn thất do sâu bệnh và mầm bệnh, cùng với mất mùa sau thu hoạch, ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng (Prusky, 2011) Trong số các bệnh gây hại cho cây ớt, bệnh thán thư do Colletotrichum spp., bệnh héo vi khuẩn do Pseudomonas solanacearum, và các bệnh virus như nhiễm virus màng lá ớt (CVMV) và virus mosaic dưa chuột (CMV) là những tác nhân gây hại nghiêm trọng nhất (Than et al., 2008) Thiệt hại đáng kể đã được ghi nhận trên toàn cầu, với tổn thất từ 20-80% ở Việt Nam (Don et al., 2007) và khoảng 10% ở Hàn Quốc (Byung, 2007).
2.3.2 Bệnh đốm xám (Stemphylium sp.)
Bệnh đốm xám lá do nấm S solani gây ra, với các vết đốm ban đầu có màu nâu, sau chuyển sang màu nâu sáng hoặc trắng sáng, có đặc điểm lõm ở giữa và viền màu nâu đến nâu đỏ Vết bệnh thường xuất hiện nhiều trên lá Theo nghiên cứu của Weber (1930), cả S solani và S lycopersici đều có khả năng gây bệnh đốm xám trên cây ớt Một nghiên cứu vào tháng 8 năm 1999 tại Nhật Bản cũng cho thấy S lycopersici có thể gây bệnh trên quả ớt ngọt, dẫn đến các vết đốm xám gây thối hỏng và giảm sản lượng thu hoạch (Keisuke Tomioka, 2011).
Bệnh thường xuất hiện và phát triển mạnh mẽ vào mùa xuân với độ ẩm cao và nhiệt độ từ 20 - 30 độ C, đặc biệt ở những ruộng có mật độ dày và bón nhiều đạm Các vết bệnh chủ yếu xuất hiện trên lá, dẫn đến giảm hiệu suất quang hợp và ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ phát triển của cây.
Bệnh do virus tấn công cây trồng gây ra các triệu chứng như khảm màu vàng, lá quăn và hoại tử Tại Ấn Độ, virus lá ớt đầu tiên được báo cáo vào năm 2006, và nghiên cứu trước đó đã chỉ ra rằng chiết xuất hoa của 20 loài thực vật có thể ức chế virus từ cây ớt nhiễm bệnh Nghiên cứu năm 1989 tại Andhra Pradesh đã đánh giá hiệu quả của 6 loại thuốc trừ sâu tổng hợp, 4 chế phẩm neem và một chất ức chế chitin đối với sâu bệnh hại ớt, cho thấy chất ức chế chitin có hiệu quả tốt nhất Trong khi đó, Triazophos là loại thuốc tổng hợp hiệu quả nhất, còn các chế phẩm neem cho kết quả kém hơn Thử nghiệm khác cũng cho thấy hiệu quả của các loại thuốc trừ sâu chống lại B tabaci trên cây ớt.
Endosulfan (EC), Azodrin 40 EC (manocrotophos), Anthio 25 EC (formothion), and Curocron 50 EC (profenifos) are widely used insecticides Formothion exhibits higher toxicity against B tabaci, and the incidence of disease is influenced by the effectiveness of these pesticides on this pest A significant increase in the incidence of the curl virus was observed in untreated control plots Research by Venkatesh et al (1998) indicated that the chili leaf curl complex was caused by the geminivirus transmitted by chili, along with Polyphagotarsonemus latus, Whitefly (Bemisia tabaci), and Scirtothrips dorsalis In Nigeria, cypermethrin, decomethrin, carbofuron, and formothion were utilized to manage B tabaci on wet chili crops.
2.3.4 Bệnh héo xanh (Ralstonia solanacearum)
Cây xanh tốt bỗng nhiên héo úa mặc dù lá vẫn còn xanh, hiện tượng này xảy ra vào ban ngày khi trời nắng và cây sẽ tươi lại vào ban đêm Tuy nhiên, sau 2-3 ngày, cây không hồi phục và sẽ chết Nếu bệnh diễn ra chậm, nhiều rễ phụ khí sinh sẽ mọc dọc theo thân cây, khiến cho rễ và thân cây bị thối mềm Khi cắt ngang thân, có thể thấy mạch dẫn bị nâu đen và khi đặt vào ly nước, sẽ thấy những giọt dịch vi khuẩn màu trắng đục chảy ra Vi khuẩn này có khả năng tồn tại trong tàn dư cây bệnh trên 6 tháng và trong đất hơn 1 năm Bệnh phát triển mạnh và lây lan nhanh trong điều kiện nhiệt độ từ 30-35 độ C.
Bệnh trên cà chua và biện pháp phòng trừ
2.4.1 Bệnh đốm vòng cà chua
Thuộc họ Dematiaceae, bộ Monniliales, lớp Nấm bất toàn Fungi imperfecti
Bệnh đốm vòng cà chua, do nấm Alternaria solani gây ra, ảnh hưởng chủ yếu đến lá và quả, bắt đầu từ các lá già và sau đó lan sang các lá phía trên Nguồn bệnh tồn tại trong tàn dư thực vật, hạt giống và cỏ dại Điều kiện thời tiết ấm, ẩm hoặc mưa nhiều vào mùa xuân và mùa hè tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của bệnh này.
Bệnh đốm vòng là một bệnh phổ biến ở vùng nhiệt đới và á nhiệt đới, ảnh hưởng chủ yếu đến cà chua, khoai tây và các cây họ cà khác, cũng như một số cây khác như bắp cải và hướng dương (Ellis và Gibson, 1975) Bệnh này gây thiệt hại nặng nề trên cà chua tại Anh, Ấn Độ, Úc và Mỹ (Jones, 1993) Tại Ấn Độ, bệnh có thể làm giảm năng suất cà chua lên tới 57% khi bùng phát nghiêm trọng, trong khi đó, trên khoai tây, bệnh có thể gây rụng lá từ 25 - 100%, dẫn đến thiệt hại năng suất từ 6 - 40%.
Bệnh đốm vòng gây hại nghiêm trọng cho cây trồng, ảnh hưởng đến thân, lá và quả, có thể dẫn đến rụng quả và giảm năng suất Ban đầu, trên lá xuất hiện các chấm màu nâu hoặc đen, sau đó vết bệnh chuyển sang màu vàng, lan rộng với đường kính lên tới 6 mm, tạo thành các vòng tròn đồng tâm có màu xám nhạt ở giữa Trong điều kiện thuận lợi, các vết bệnh liên kết với nhau, khiến lá khô héo và chết.
Vết bệnh trên quả bắt đầu bằng các chấm đen lõm, sau đó lan rộng thành vòng tròn đồng tâm, trên bề mặt vết bệnh xuất hiện lớp nấm màu hơi đen (Ellis và Gibson, 1975).
Theo Jones (1993), nấm xâm nhiễm đầu tiên thường xuất phát từ nguồn bệnh ở tàn dư thực vật, trong đất hoặc từ bào tử phân sinh được gió mang tới Bệnh thường xuất hiện khi nhiệt độ dao động từ 24 đến 29 độ C và có mưa, với bào tử nảy mầm trong khoảng 2 giờ khi tiếp xúc với nước.
Nhiệt độ tối ưu cho sự nảy mầm của nấm là từ 28 - 30 độ C, với thời gian nảy mầm khoảng 35 - 45 phút Nấm có thể xâm nhập qua cutin hoặc vết thương, và sau 2 - 3 ngày, triệu chứng bệnh sẽ xuất hiện Khi vết bệnh có đường kính khoảng 3 mm, bào tử phân sinh sẽ hình thành Điều kiện thời tiết như sương mù nhiều hoặc mưa thỉnh thoảng là yếu tố thuận lợi để tạo ra nhiều bào tử Các lá già thường bị bệnh trước, trong khi lá bánh tẻ bị ảnh hưởng sau, và cà chua trồng trên đất cao với lượng phân bón ít thường mắc bệnh nặng hơn.
Theo Andy Wyenandt (2005), để giảm mức độ nhiễm bệnh, cần thực hiện các biện pháp canh tác như dọn sạch tàn dư cây bệnh, cỏ dại, làm đất kỹ và ngâm nước vài ngày để giảm nguồn bệnh trong đất như đốm vòng và mốc sương Luân canh cây trồng đóng vai trò quan trọng trong việc giảm nguồn bệnh; không nên luân canh cà chua với các cây họ cà như khoai tây, cà tím, ớt, mà phải có thời gian cách ly ít nhất 3 năm để đạt hiệu quả phòng trừ tốt Ngoài ra, cần vệ sinh đồng ruộng và tỉa bỏ lá già, lá bị bệnh để giảm nguồn bệnh trên cây.
Bệnh đốm nâu hại cà chua gây ra do nấm S solani Weber (1930), thuộc họ
Dematiaceae, bộ Monniliales, lớp Nấm bất toàn Fungi imperfecti
Bệnh đốm nâu xuất hiện phổ biến ở các vùng trồng cà chua trên thế giới, đặc biệt trong điều kiện nóng ẩm với nhiệt độ lý tưởng từ 20-30°C Để phòng chống hiệu quả, cần chọn giống cà chua kháng bệnh, sử dụng hạt khỏe và xử lý hạt trước khi gieo trồng Ngoài ra, cần lựa chọn cây con khỏe mạnh, không luân canh với các cây họ cà, dọn dẹp tàn dư cây trồng, làm đất kỹ và chọn thời vụ gieo trồng vào thời điểm thời tiết không thuận lợi cho sự phát triển của bệnh.
Bệnh đốm nâu hại cà chua là một vấn đề nghiêm trọng ở Venezuela, ảnh hưởng đến cả lá và thân cây, dẫn đến giảm năng suất, vàng lá và chết cây sớm Đây là yếu tố cản trở lớn trong sản xuất cà chua, tác động từ giai đoạn cây con đến cây trưởng thành Nghiên cứu của Carrero (1997) đã chỉ ra rằng hai loài nấm gây bệnh đốm nâu, S solani và S lycopersici, đã được phân lập khi nuôi cấy trên môi trường.
2.4.3 Bệnh khảm lá (xoăn lá) trên cà chua
Do virus Mosaic virus gây ra
Bệnh xuất hiện trên cây từ giai đoạn nhỏ cho đến khi thu hoạch, đặc biệt phổ biến khi cây bắt đầu ra hoa Triệu chứng bao gồm lá biến màu vàng nhạt với gân lá xanh, tạo thành vết loang lổ, lá nhỏ lại, nhăn nheo và thô cứng, trong khi các lá ngọn bị xoăn, khiến cây sinh trưởng kém, thấp nhỏ và phân nhiều cành Cây bị bệnh nặng có thể chết sớm, trong khi cây bị bệnh nhẹ có thể ra hoa và quả nhưng thường rụng nhiều; nếu có quả thì quả nhỏ, méo mó và chất lượng kém Bệnh lây lan qua côn trùng chích hút như bọ trĩ, bọ phấn trắng, và rầy mềm, cũng như qua cơ giới trong quá trình chăm sóc Trên cây cà chua vùng nhiệt đới, nhiều loại virus như CMV, ToMV, TSWV, và CTV gây hại, với triệu chứng tương tự như lá vàng loang lổ, xoăn lại và cây nhỏ Mật độ côn trùng chích hút cao làm tăng tỷ lệ cây bị bệnh xoăn lá.
2.4.4 Bệnh héo xanh trên cây cà chua (Ralstonia solanacearum)
Bệnh héo xanh (chết ẻo) do vi khuẩn Ralstonia solanacearum gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến các loại cây rau màu như ớt và cà chua, có thể làm giảm năng suất lên đến 50% Vi khuẩn xâm nhập vào mạch dẫn của cây, gây hư hại bó mạch, khiến cây không thể vận chuyển nước và dinh dưỡng, dẫn đến hiện tượng héo và chết Do đó, người trồng cần nhận biết nguyên nhân, triệu chứng và áp dụng biện pháp phòng trừ hiệu quả để bảo vệ cây trồng.
- Vi khuẩn phát triển thích hợp ở nhiệt độ 24 - 37 o C
- Phát triển nhanh trên nền đất ẩm ướt, thoát nước kém
- Vi khuẩn tồn tại trong đất, trong tàn dư cây trồng, cỏ dại Có thể tồn tại trong tàn dư cây bệnh trên 6 tháng, trong đất trên một năm
Vi khuẩn có thể lây lan qua nhiều phương thức khác nhau, bao gồm cây giống, gió, nước, côn trùng, và các vết thương cơ giới do công cụ chăm sóc gây ra, cũng như qua những lỗ hở tự nhiên trên cây.
Tưới nước quá nhiều và ngập rãnh tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển và lây lan Triệu chứng ban đầu là cây héo đột ngột, mặc dù lá vẫn xanh, thường xảy ra ở một cành hoặc nhánh trước khi lan ra toàn cây Cây héo xanh vào ban ngày khi trời nắng, nhưng vào chiều mát và ban đêm lại tươi trở lại Sau 2 - 3 ngày, cây sẽ chết hẳn, với thân và rễ bị thối đen và mềm nhũn Khi cắt ngang thân, mạch dẫn sẽ có màu nâu đen, và nếu đặt vào nước sẽ thấy những giọt dịch vi khuẩn màu trắng sữa chảy ra Nếu dịch chảy không có màu trắng sữa, đây có thể là dấu hiệu của bệnh do virus.
* Biện pháp phòng trừ nấm hại cà chua
Để phòng trừ bệnh đốm vòng, biện pháp canh tác là rất quan trọng Cần thực hiện chế độ luân canh trong 2-3 năm và tránh luân canh với cây trồng thuộc họ cà Bên cạnh đó, việc bón phân cân đối, đặc biệt là phân kali, sẽ giúp cây sinh trưởng và phát triển tốt hơn.
Để quản lý hiệu quả đất trồng, cần tiêu nước tốt, luân canh với các loại cây trồng khác, bón phân hợp lý và sử dụng các biện pháp như xông hơi đất bằng thuốc có phổ tác động rộng Việc phơi ải đất kết hợp với nấm đối kháng Gliocladium virens đã chứng minh hiệu quả trong việc giảm số lượng nấm Sclerotium rolfsii tại Bắc Carolina, Mỹ Biện pháp này đặc biệt quan trọng trong việc phòng chống bệnh ở đồng bằng duyên hải Đối với bệnh thối xám ở cà chua, cần thiết lập giàn cho cây, cắt tỉa lá già và cành nhỏ ở gốc để tạo không gian thông thoáng cho cây.
- Biện pháp sử dụng giống chống chịu bệnh
Các nghiên cứu về nấm Stemphylium sp
Stemphylium sp là một loại nấm gây bệnh cho con người, thực vật và động vật, phân bố rộng rãi trên toàn cầu Các nghiên cứu đã công bố cho thấy có khoảng 150 loài khác nhau thuộc chi này.
Stemphylium sp đã được phát hiện thấy trên thực vật, tuy nhiên đa số là hoại sinh (Wang and Zhang, 2006)
S solani là một loại nấm mầm bệnh thực vật trong phân loại Ascomycota Đây là tác nhân gây bệnh đốm xám trong cà chua và bệnh rụng lá trong allium và bông Các triệu chứng bao gồm các đốm trắng trên lá và thân cây tiến triển đến tổn thương đỏ hoặc tím đậm
Từ năm 2004, bệnh đốm lá mới trên tỏi đã xuất hiện nghiêm trọng tại huyện Dangyang, tỉnh Hubei, Trung Quốc, với triệu chứng ban đầu là những đốm lá màu trắng nhỏ, không đều, sau đó phát triển thành tổn thương màu nâu đậm Khi bệnh tiến triển, tổn thương mở rộng và gây héo mòn lá Tác nhân gây bệnh được xác định là nấm S solani thông qua phân tích văn hóa và hình thái, cùng với DNA ribosomal Trong các thí nghiệm, nấm S solani đã gây ra đốm lá trên 11 giống tỏi và 20 loài cây khác, trong đó hai giống tỏi và ba loài cây trồng cho thấy mức độ nhiễm nhẹ hơn Thí nghiệm tiêm chéo không phát hiện dấu hiệu đặc trưng của máy chủ, nhưng S solani từ tỏi thường độc nhất đối với năm loài thực vật, trong khi từ rong đỏ lại ít nguy hiểm hơn Kiểm tra tính độc hại cho thấy tỏi sản sinh ra các độc tố không chịu nhiệt, gây ra mức độ độc hại khác nhau cho các giống tỏi.
Trong allium, bệnh xuất hiện ban đầu dưới dạng những đốm trắng hình bầu dục, dài 1-3 mm, phân bố không đều trên lá, sau đó phát triển thành thương tổn màu đỏ hoặc tím với lề vàng, dẫn đến héo và hoại tử lá Nghiên cứu cho thấy thực vật nhiễm bệnh có thể tiến triển từ giai đoạn nhiễm ban đầu đến hoại tử trong vòng tám ngày, chủ yếu xảy ra trên thân và lá Đối với cà chua, S solani gây ra các vết tròn sẫm màu ở cả hai mặt lá, với lá già bị ảnh hưởng đầu tiên Các thương tổn mới có thể có quầng vàng, nhưng khi trưởng thành, chúng trở nên xám, khô và giòn, cuối cùng rơi xuống tạo ra lỗ hổng trên lá, dẫn đến hiện tượng sụt lá nghiêm trọng.
S solani phát triển mạnh trong điều kiện độ ẩm cao (85-90%), ướt liên tục trên 8 giờ và nhiệt độ khoảng 18°C Mặc dù độ ẩm trên lá rất quan trọng, lượng mưa không phải lúc nào cũng cần thiết nếu độ ẩm hoặc sương mù đủ để duy trì độ ướt Sự hiện diện của mảnh vụn từ vụ trước có thể làm tăng nguy cơ nhiễm bệnh Các yếu tố như hạt quả nặng và chất lượng đất tốt cũng góp phần vào sự phát triển của bệnh Để kiểm soát S solani, việc sử dụng các giống cây kháng bệnh, đặc biệt là cà chua và bông, là rất hiệu quả.
Các giống kháng bệnh có thể thiếu những đặc điểm mong muốn như xu hướng rèn đầu của hoa allium, điều này có thể ảnh hưởng đến thị trường Khi các giống này không đạt yêu cầu, thuốc trừ nấm như tebuconazole và procymidone có thể được sử dụng để quản lý bệnh sớm trong mùa, thông qua việc điều trị hạt hoặc phun thuốc 2-3 lần Nghiên cứu cho thấy triazole có hiệu quả trong việc kiểm soát sự phát triển của nấm và cung cấp bảo vệ toàn thân Ngoài ra, việc trì hoãn trồng tỏi cho đến khi nhiệt độ giảm xuống dưới mức nhất định cũng có thể giúp giảm nguy cơ lây nhiễm.
18 o C tối ưu cho sự phát triển của S solani và vệ sinh môi trường tốt
Năm 1994, Hàn Quốc đã ghi nhận sự xuất hiện của một căn bệnh mới trên cà chua, gây triệu chứng đốm trên lá và ảnh hưởng lớn đến hiệu suất quang hợp của cây, được xác định do S lycopersici (Min et al., 1995) Tại các tỉnh Gyeongbuk và Gangwon, hai loài đã được xác định là nguyên nhân gây bệnh đốm xám lá nghiêm trọng trên ớt.
S solani và S lycopersici Triệu chứng bệnh do Stemphylium sp gây ra trên lá ớt tương tự như những đốm vi khuẩn gây ra bởi vi khuẩn Xanthomonas trên lá Sau khi tiến hành phân lập nghiên cứu thì thấy cả hai loại nấm này đều hình thành bào tử nhiều trên môi trường V8-juice ở khoảng nhiệt độ từ 20 o C đến 25 o C (Byung- soo Kim et al., 2004)
Báo cáo đầu tiên về bệnh đốm lá cà chua do S solani gây ra ở Malaysia đã được công bố vào tháng 6 năm 2011, khi cây cà chua (Solanum lycopersicum) ở các khu vực phát triển chính như Cao nguyên Cameron và bang Johor bị ảnh hưởng nặng nề bởi bệnh này.
Tỷ lệ mắc bệnh vượt quá 80% ở một số khu vực nhiễm nặng, với triệu chứng ban đầu xuất hiện trên lá cà chua dưới dạng chấm nhỏ màu nâu, sau đó chuyển thành màu nâu nhạt và có viền vàng Khi vết thương trưởng thành, lá bị bệnh khô cạn, giòn và phát triển vết nứt Một cuộc khảo sát tại các khu vực này đã phân lập 27 mẫu mầm bệnh từ lá cà chua trên thạch cà chua khoai tây (PCA) Các chủng mầm bệnh được tinh chế bằng kỹ thuật spore đơn và chuyển vào môi trường agar PCA và V8 để hình thành cành bào tử và bào tử phân sinh, với điều kiện chiếu sáng 8 giờ.
Vào lúc 16 giờ tối, khi tản nấm trên môi trường PCA và nước ép V8, sợi nấm màu xám và nhiều bào tử phân sinh được hình thành ở đầu cành bào tử phân sinh dài tới 240 μm Bào tử phân sinh có đầu hơi nhọn, dài 2-11 μm và ngang 1-6 μm Tác nhân gây bệnh được xác định là S solani dựa trên tiêu chí hình thái Một giọt huyền phù 20 μl chứa 105 conidia/ml đã được sử dụng để cấy trên lá, và lây nhiễm bệnh được đặt trên giấy lọc ẩm trong đĩa petri, ủ ở 25°C trong 48 giờ Sau 7 ngày, triệu chứng điển hình của S solani xuất hiện trên cả lá bị bệnh và không nhiễm bệnh, nhưng không thấy ở các nghiệm thức không nhiễm vi khuẩn, cho thấy S solani đã được tái phân bố Đây là báo cáo đầu tiên về S solani gây ra điểm lá xám của cà chua tại Malaysia S solani là một mầm bệnh nấm gây bệnh đốm xám ở cà chua, cùng với các loài khác như S lycopersici và S botryosum, được coi là một trong những bệnh nghiêm trọng nhất của cà chua ở Đông Nam Hoa Kỳ và trên toàn thế giới trong điều kiện ấm áp và ẩm ướt Stemphylium sp cũng có khả năng gây hại trên quả, như trường hợp phát hiện thối ở ớt ngọt tại Kagawa, Nhật Bản, do nấm S lycopersici gây ra.
Chi Stemphylium là mầm bệnh quan trọng gây ra bệnh đốm lá ở nhiều cây nông nghiệp, với tỷ lệ mắc bệnh đốm cà chua có thể đạt 100% Stemphylium lycopersici được mô tả lần đầu trên cà chua và đã xuất hiện trên toàn cầu Một loài khác, S solani, cũng gây ra điểm lỏ xỏm trên cà chua Cả hai loài này sinh sản vô tính mà không có giai đoạn sinh nhiệt Triệu chứng của bệnh xuất hiện dưới dạng các điểm nhỏ có quầng vàng, dẫn đến hoại tử, rụng lá và có thể tấn công các bộ phận của hoa.
Bệnh bắt đầu phát triển ở các khu gieo ươm, nhà cấy ghép hoặc trồng cây cấy ghép, thường trong giai đoạn đầu của sự phát triển lá Mầm bệnh lây lan khi cây con bị nhiễm được cấy vào ruộng, và conidia có thể phát tán qua khoảng cách lớn nhờ gió Bệnh ưa thích nhiệt độ ấm (24-27°C) và độ ẩm cao, với sự nảy mầm của bào tử và nhiễm trùng phụ thuộc vào hơi nước tự do như sương hoặc mưa Độ ẩm ướt trên lá được coi là yếu tố quan trọng hơn nhiệt độ trong việc gây nhiễm trùng S solani tồn tại dưới dạng bọ xít trên các mảnh vụn của cây nhiễm bệnh hoặc trên các cây như cà chua tình nguyện, hạt tiêu, cây cải, và các loài hoang dã khác Trong điều kiện khí hậu miền Nam, mầm bệnh có thể tồn tại trên cây cà chua được trồng trong năm, và cũng có thể được truyền qua hạt giống.
Triệu chứng của bệnh trên cây cà chua xuất hiện dưới dạng các vết xám hoặc tổn thương chủ yếu ở cánh lá, nhưng trong điều kiện thuận lợi, tổn thương có thể lan rộng ra phiến lá và thân cây Các tổn thương trên thân thường có hình dạng tuyến tính và song song Ban đầu, đốm lá xám biểu hiện qua các đốm nhỏ màu nâu sẫm trên mặt dưới của lá, sau đó phát triển thành các vết loang lổ hình tròn hoặc thuôn dài trên bề mặt lá mà không bị giới hạn bởi các tĩnh mạch Các đốm này có thể có quầng vàng xung quanh và đường kính lên đến 2,1 mm, trong khi các đốm riêng lẻ có thể lớn gấp đôi hoặc hơn nữa.
Bệnh lá xám do S solani gây ra có tiềm năng thiệt hại lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lá cây và làm giảm đáng kể khả năng quang hợp, dẫn đến suy giảm chất lượng và sản lượng trái cây Tại Trung Quốc, bệnh này đã tác động đến hơn 7.000 ha, làm giảm sản lượng tới 70% (Zheng et al., 2008) Bệnh đốm lá xám cũng hạn chế sản xuất cà chua ở Venezuela và Malaysia (Cadeủo và Carrero, 1997; Nasehi và cộng sự, 2012) Ở California, cà chua được trồng chủ yếu ở các vùng San Joaquin và Sacramento Valley với khí hậu ấm và khô, trong khi cà chua tươi lại phát triển ở Thung lũng San Joaquin, Thung lũng Trung tâm, và các vùng Trung và Nam Mặc dù S solani khó có thể thiết lập ở những vùng đất này nhờ vào các giống kháng bệnh và các biện pháp quản lý, nhưng trong điều kiện ẩm ướt và ấm áp, mầm bệnh vẫn có khả năng phát triển trên cây cà chua và các cây ký chủ khác.