1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khuynh hướng nhận thức lại trong tiểu thuyết việt nam thời kỳ đổi mới

119 2,7K 29

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Khuynh Hướng Nhận Thức Lại Trong Tiểu Thuyết Việt Nam Thời Kỳ Đổi Mới
Tác giả Trịnh Thị Bích
Người hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Lí luận văn học
Thể loại Luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2010
Thành phố Vinh
Định dạng
Số trang 119
Dung lượng 590,5 KB

Nội dung

Chúng tôi xin đề cập đếnmột số các quan điểm như sau: Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Tuấn sau khi nghiên cứu Vấn đề cái mới trong tiểu thuyết thế kỷ XX, đã khái quát một số đặc điểm chính của

Trang 1

trịnh thị bích

khuynh hớng nhận thức lại

trong tiểu thuyết Việt Nam

thời kỳ đổi mới

Để hoàn thành bản luận văn này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp - ngời đã tận tình giúp đỡ, hớng dẫn tôi kể từ khi nhận đề tài cho đến khi luận văn đợc hoàn thành

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa Ngữ văn

và khoa Đào tạo Sau đại học Trờng Đại học Vinh đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập.

Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với các bạn bè, gia

đình và những ngời thân thiết đã luôn động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập

Trang 2

Vinh, th¸ng 12 n¨m 2010

T¸c gi¶

TrÞnh ThÞ BÝch

Trang 3

MỞ ĐẦU 1

1 Lý do chọn đề tài 1

2 Lịch sử vấn đề 2

3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 5

4 Phương pháp nghiên cứu 6

5.Cấu trúc luận văn 6

Chương 1 QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI 7

1.1 Sự đổi mới về tư duy nghệ thuật 7

1.1.1 Tư duy tiểu thuyết trước 1986 7

1.1.2 Tư duy tiểu thuyết thời kì đổi mới 10

1.1.3 Về tổ chức cấu trúc tiểu thuyết 15

1.2 Nhận thức lại - Một khuynh hướng tiểu thuyết nổt bật 20

1.2.1 Cơ sở hình thành khuynh hướng tiểu thuyết nhận thức lại 22

1.2.2 Nhận thức lại – như một nhu cầu phản tư bằng nghệ thuật 25

Chương 2 BIỂU HIỆN CỦA TINH THẦN NHẬN THỨC LẠI TRONG TIỂU THUYẾT THỜI KÌ ĐỔI MỚI 29

2.1 Nhận thức lại lịch sử 29

2.1.1 Cái nhìn đa chiều về nhân vật lịch sử 30

2.1.2 Nhận thức lại về thời kì lịch sử 39

2.2 Nhận thức lại chiến tranh 43

2.2.1 Chiến tranh với những mất mát, hy sinh 44

2.2.2 Thân phận con người trong chiến tranh và thời hậu chiến 50

2.3 Nhận thức lại các quan hệ đạo đức - xã hội 58

2.3.1 Quan hệ gia đình trước sự tác động của đời sống xã hội 59

Trang 4

2.4.1 Bi kịch về tình yêu - hạnh phúc 71

2.4.2 Bi kịch đánh mất mình, không được là mình 76

Chương 3 NHẬN THỨC LẠI CHI PHỐI ĐẾN CÁCH THỨC TỔ CHỨC TRẦN THUẬT 82

3.1 Tổ chức kết cấu và tạo dựng điểm nhìn 82

3.1.1 Kết cấu nghệ thuật 82

3.1.2 Tạo dựng điểm nhìn 89

3.2 Ngôn ngữ nghệ thuật 92

3.2.1 Ngôn ngữ đối thoại 92

3.2.2 Ngôn ngữ độc thoại nội tâm 95

3.2.3 Ngôn ngữ nhại 98

3.2.4 Kết hợp nhiều phong cách ngôn ngữ 100

3.3 Giọng điệu 102

3.3.1 Giọng triết luận 104

3.3.2 Giọng thương cảm 106

3.3.3 Giọng giễu nhại, châm biếm 107

KẾT LUẬN 110

TÀI LIỆU THAM KHẢO 112

Trang 5

MỞ ĐẦU

1 Lý do chọn đề tài

1.1 Trong văn học, quy luật kế thừa và sáng tạo là quy luật phát triển tấtyếu có tính chất sống còn Khi hoàn cảnh xã hội thay đổi, các nhà văn, nhàthơ cần phải nhìn nhận, đánh giá lại tất cả các vấn đề, trong đó có cả nhữngvấn đề văn học thời kỳ trước cho rằng đã giải quyết xong Đứng ở góc độ thờigian hiện tại để đánh giá các vấn đề văn học của thời kỳ trước, nhà văn, nhàthơ có “Độ lùi thời gian” để nhìn nhận và yêu cầu nhận thức lại đặt ra Nhậnthức lại các vấn đề, có thể kế thừa hoặc phủ định, hoặc có thể bằng cả kế thừa

và phủ định là con đường phát triển tất yếu của văn học và sẽ mang lại nhữnggiá trị mới cho các tác phẩm văn học

1.2 Sau đại thắng mùa xuân 1975, đất nước bước vào thời kỳ hoà bình,xây dựng đất nước, con người cũng trở về với những quy luật đời thường củacuộc sống Bắt đầu từ đây có sự xáo trộn, đổi thay với toàn dân tộc, hiện thựccuộc sống sau chiến tranh khác với trong chiến tranh Văn học với chức năng

“Phản ánh hiện thực” đòi hỏi cần phải có sự thay đổi cả về nội dung và hìnhthức Năm 1986, đại hội toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI diễn

ra, đánh dấu thời kỳ đổi mới và đánh dấu sự chuyển mình của văn học ViệtNam tại đại hội này, Đảng đã xác định đường lối đổi mới toàn diện trên tất cảmọi lĩnh vực, trong đó có văn học nghệ thuật, tinh thần chung của Đại hội lànhìn thẳng vào sự thật và đổi mới suy nghĩ, tư duy Đây thực sự là một luồnggió mát lành thổi vào đời sống văn học, tạo ra bầu không khí hứng khởi dânchủ trong sáng tác Văn chương dân tộc chuyển mình rõ rệt theo xu hướnghiện đại, hoà nhập với văn chương khu vực và nhân loại Văn học Việt Namsau 1975, đặc biệt là văn xuôi đã có nhiều sự đổi mới Sau Đại hội VI các nhàvăn đã mạnh dạn thẳng thắn nhìn nhận lại các vấn đề của đời sống, họ đãnhận ra có những vấn đề không tồn tại từ trước đây người ta nghĩ và văn học

Trang 6

thời kỳ trước phản ánh, các vấn đề đó giờ đây cần phải được nhìn nhận lại,đánh giá lại, soi chiếu dưới mọi góc cạnh để thấy được thực chất của vấn đề.Nhận thức lại mọi vấn đề đã trở thành khuynh hướng của văn học Việt Namthời kỳ đổi mới, nhất là trong văn xuôi Với cảm hứng nhìn nhận lại vấn đề,

nhiều tác phẩm văn xuôi đã ra đời và thành công như: Mùa lá rụng trong

vườn (1985) của Ma Văn Kháng, Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu,Nỗi buồn chiến tranh (1990) của Bảo Ninh, Ăn mày dĩ vãng (2006) của Chu Lai,

Nhiều vấn đề được nhìn nhận bằng cái nhìn phản tỉnh được các nhà văn nêu

ra và thể hiện trong tác phẩm đã đem lại bất ngờ cho công chúng và giới phêbình Nhìn chung, việc nhận thức lại các giá trị là hiện tượng có tính phổ quát,đặc thù của một thời kỳ văn học Đó cũng là xu thế phát triển tất yếu của vănhọc theo quy luật của nó Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài

“Khuynh hướng nhận thức lại trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”làm đề tài nghiên cứu

2 Lịch sử vấn đề

Vấn đề nhận thức trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới là một vấn

đề còn rất nhiều điều cần phải tìm hiểu, nghiên cứu Tuy nhiên, theo tìm hiểucủa chúng tôi đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu,toàn diện về vấn đề này

Nguyễn Thị Bình trong luận án Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật

Việt Nam từ 1986 đến nay đã đối sánh văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1975 đến

nay với văn xuôi giai đoạn 1945- 1975 trên ba phương diện: Đổi mới quanniệm về nhà văn, đổi mới quan niệm về con người và đổi mới thể laọi Với cáinhìn tổng quát trên mỗi phương diện Nguyễn Thị Bình đã đưa ra được nhữngnét chung nhất, làm nổi bật những vấn đề bản chất của văn xuôi Việt Namgiai đoạn 1975 đến nay Quan niệm nghệ thuật về con người là phương diệnđược luận án của Nguyễn Thị Bình đặc biệt quan tâm Đây là một yếu tố quy

Trang 7

định khả năng chiếm lĩnh đời sống của văn học, trực tiếp chi phối những yếu

tố khác như đề tài, cốt truyện, nhân vật, giọng điệu Tuy vậy, nhận thức trongvăn xuôi sau 1975 vẫn chưa phải vấn đề tác giả tập trung nghiên cứu một cách

cụ thể riêng biệt

Nguyễn Văn Long trong Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử

văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975 in trong Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy đã có những phát hiện, đánh giá rất

chính xác và khái quát: “vào nửa cuối những năm 80 và đầu những năm 90 đãphát triển mạnh khuynh hướng nhận thức lại hiện thực với cảm hứng phêphán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản” (29.15) Nguyễn Văn Long cũng đềcập đến xu hướng biến đổi của văn học là xu hướng dân chủ hoá, văn học giaiđoạn này không từ bỏ vũ khí tinh thần, tư tưởng của nó nhưng yếu tố đượcnhấn mạnh trước hết là ở “Sức mạnh khám phá thực tại và thức tỉnh ý thức về

sự thật ở vai trò dự báo, dự cảm” Một điều quan trọng nữa là tác giả cho rằng

sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên cơ sở bao trùm tinh thần nhân bản là nền tảng

tư tưởng trong cảm hứng chủ đạo bao trùm của nền văn học sau 1975 Đây làbài viết khái quát một số vấn đề của một giai đoạn văn học nên vấn đề nhậnthức lại cũng chưa được quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc,riêng biệt

Gần đây, trong Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam

đương đại, NXB hội nhà văn 2009, tác giả Mai Hải Oanh có bàn đến vấn đề

này khi nói về tiểu thuyết tự vấn

Hoàng Ngọc Hiến trong Văn học gần và xa đã khẳng định, Nguyễn Minh

Châu và Nguyễn Huy thiệp có cái nhìn nghiêm khắc và lạnh lùng, đã tránhđược việc đưa cái nhìn sử thi vào hiện thực Nhà văn không ngần ngại nêu ra

“Sự bê tha, nhếch nhác trong cuộc sống” đã nhận ra sự tốt xấu tồn tại lẫn lộntrong một con người Nhân vật của hai nhà văn là nhân vật không trùng khít,

Trang 8

trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp một tên cướp vẫn có thể có lương tricòn một trí thức, một công chức nhà nước không phải không có những đốnmạt tồn tại bên trong.

Nguyễn Minh Châu cũng có cái nhìn mới mẻ về người nông dân: Họ cóthể là người nông dân chất phác với nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng cũng cóthể trở thành những hung thần ác ôn Nguyễn Minh Châu không chỉ là nhàvăn nhận thức lại đời sống qua các sáng tác của mình mà ông còn thể hiện

cảm hứng này qua các tiểu luận mà nổi bật là: Hãy đọc lời ai điếu cho một

giai đoạn văn nghệ minh hoạ Đây là tiểu luận thể hiện tinh thần đổi mới triệt

để trong văn học

Năm 1986, khi cuốn tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu ra đời, các nhà

phê bình văn học như Trần Đình Sử, Hoàng Ngọc Hiến, Vương Trí Nhàn đã

có những ý kiến đánh giá, nhận xét và những phát hiện thú vị về tinh thầnnhận thức lại trong tác phẩm

Tôn Phương Lan trong Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu cũng

đã có những nhận định, đánh giá tương đối toàn diện, khái quát những đónggóp của Nguyễn Minh Châu trong việc đổi mới văn học Việt Nam Tác giả đãphát hiện ngay từ những năm 70 Nguyễn Minh Châu đã băn khoăn, trăn trở vềmột điều gì đó bất ổn trong đời sống văn học, Nguyễn Minh Châu đã chủtrương đưa “văn học trở về với quy luật vĩnh hằng của đời sống con người Coitính chân thật là một phẩm chất quan trọng của văn học, những sáng tác củaNguyễn Minh Châu ngày càng xa lánh lối văn chương chỉ ca ngợi một chiều”

Trong Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, Tuyết Nga cũng thấy được cái

nhìn về con người trong mối quan hệ với hoàn cảnh của Nguyễn Khải Ông đãphản ánh đúng những vấn đề cơ bản của nông thôn miền Bắc thời kỳ bướcvào cải tạo, xây dựng kinh tế

Trang 9

Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết về xu hướng nhìn nhận một số hiệntượng văn chương thời kỳ đầu đổi mới của các tác giả được đăng trên báo, tạpchí hoặc trên mạng, nhưng do thời gian và trình độ có hạn mà người làm luậnvăn chưa thể bao quát hết tất cả các công trình, bài viết đó Tuy vậy, có thểkhẳng định đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt đầy đủ,toàn diện về khuynh hướng nhận thức lại trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳđổi mới Lựa chọn đề tài này, chúng tôi sẽ có nhiều việc để làm.

3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới có khối lượng tác phẩm khá lớn,với đề tài này, chúng tôi chọn khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu đã đạt đượcnhững thành công nhất định

1 Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)

2 Ba người khác (Tô Hoài)

3 Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải)

4 Thời xa vắng (Lê Lựu)

5 Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)

6 Bến không chồng (Dương Hướng)

7 Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai)

8 Giã biệt bóng tối (Tạ Duy Anh)

9 Giàn thiêu (Võ Thị Hảo)

10 Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh)

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu ba vấn đề lớn

3.2.1 Quan niệm nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới.3.2.2 Biểu hiện của tinh thần nhận thức lại trong tiểu thuyết

3.2.3 Nhận thức lại chi phối các cách thức tổ chức trần thuật

Trang 10

4 Phương pháp nghiên cứu

Khi nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp khảo sát – thống kê

- Phương pháp cấu trúc - hệ thống

- Phương pháp so sánh - đối chiếu

5 Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính củaluận văn gồm có 3 chương

Chương 1 Quan niệm nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới.Chương 2 Biểu hiện của tinh thần nhận thức lại trong tiểu thuyết thời kỳđổi mới

Chương 3 Nhận thức lại chi phối đến cách thức tổ chức trần thuật

Trang 11

Chương 1 QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM

THỜI KỲ ĐỔI MỚI

1.1 Sự đổi mới về tư duy nghệ thuật

1.1.1 Tư duy tiểu thuyết trước 1986

Trong tư duy tiểu thuyết truyền thống, tiểu thuyết được xem như một bộbách khoa thư vì có khả năng bao quát hiện thực rộng lớn cho nên dung lượngtiểu thuyết thường dài, số lượng nhân vật nhiều, nó hướng tới quy mô đại tự

sự Có nhiều quan điểm truyền thống về tiểu thuyết Chúng tôi xin đề cập đếnmột số các quan điểm như sau:

Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Tuấn sau khi nghiên cứu Vấn đề cái mới

trong tiểu thuyết thế kỷ XX, đã khái quát một số đặc điểm chính của quan

điểm truyền thống về tiểu thuyết sau đây: “Thứ nhất: Tiểu thuyết theo quanniệm truyền thống thường được viết bằng văn xuôi và mang tính cách hiệnthực, chủ yếu nhằm vào việc nghệ tả một cách đầy đủ và trung thực nhữngkinh nghiệm trong đời sống con người Thứ hai: Loại văn xuôi hiện thực nàychủ yếu giải trí người đọc bằng cách kể chuyện, qua đó người đọc thích thútheo dõi những phát triển và diễn biến đời sống của một hay nhiều nhân vật.Những phát triển và diễn biến trong tiểu thuyết thường xảy ra theo trình tựthời gian dựa trên một chủ đề mang tính đạo đức hay luân lý Và cuối cùng,tính cách mỹ học của tiểu thuyết thường xảy ra theo trình tự thời gian dựa trênmột chủ đề mang tính đạo đức hay luân lý Thứ ba: Tính cách mỹ học của tiểuthuyết nằm trong vẻ đẹp về hình thức, phản ánh ngôn ngữ gọn gàng, súc tích,tính nhất quán giữa các tổng thể và các phân đoạn, sự phát triển hợp lý và tinh

tế từ phần này tới phần kia Thứ tư: Vẻ đẹp về hình thức có tác dụng làm chocuộc kể chuyện được mạch lạc và trôi chảy, hợp lý và làm tăng khả năng lôicuốn người đọc vào cõi “hiện thực” hư cấu của câu chuyện”(55)

Trang 12

So với các quan điểm trước đó, đây là một quan điểm có nhiều đổi mới.Tuy vậy vẫn còn nhiều những hạn chế, bất cập.

Trong tư duy tiểu thuyết truyền thống, cốt truyện, nhân vật luôn được đềcao và đời sống được phản ánh trong tác phẩm văn học có cấu trúc đồng đẳngvới hiện thực mà nó phản ánh trong đời sống

Về quy mô, dung lượng: theo quan niệm truyền thống, tiểu thuyết phải

có khả năng bao quát rộng lớn đời sống hiện thực, do vậy tiểu thuyết thườngnhiều số trang, nhiều nhân vật Có thể thấy điều này qua các tiểu thuyết

chương hồi như Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái Hơn nữa, tiểu

thuyết truyền thống còn quan niệm, viết những bộ sử thi, tùng thư mới là tàinăng và giá trị, còn viết ngắn, viết ít thì đồng nghĩa với sự non yếu, thất bại

Về phương diện cốt truyện: tiểu thuyết thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế

kỷ XX và các tác phẩm tự sự của Việt Nam, vai trò của cốt truyện, rất quantrọng Nội dung cốt truyện thường được triển khai theo trình tự lớp lang vớimột quy trình chặt chẽ, nhằm mục đích tập trung làm nổi rõ tính cách củanhân vật trung tâm hoặc chứng minh một triết lý nhân sinh nào đó Do quanniệm tiểu thuyết phải phản ánh trung thực đời sống nên, để phản ánh hiệnthực, tiểu thuyết truyền thống chú ý đến các chi tiết “như thật“, nói sự vật vàdiễn biến được nhìn thấy đúng như sự thực, không được bóp méo Vì thếngôn ngữ trong tiểu thuyết trong truyền thống là ngôn ngữ giàu tính tả thực

Về phương diện nhân vật, tiểu thuyết truyền thống chú trọng đến việcxây dựng được những điển hình nghệ thuật mà theo ý kiến của Hegel vàEngels, là phải tái hiện một cách chân thực “Tính cách điển hình trong hoàn

cảnh điển hình“ (Thư gửi Magarit Haconetxo năm 1888) Tiểu thuyết truyền

thống coi nhân vật điển hình là linh hồn của tiểu thuyết Nhân vật được chialàm nhiều tuyến, thiện – ác rõ ràng Người hiền lành nhân hậu thì đẹp từ vócdáng đến cử chỉ, hành vi… Ví dụ: Thuý Kiều, Từ Hải, Quan Công… Còn kẻ

Trang 13

ác thì hành vi khiếm nhã, mờ ám, không rõ ràng Ví dụ: Sở Khanh, Hồ TônHiến…

Nhân vật trong tiểu thuyết truyền thống phải có lai lịch rõ ràng: “Mộtnhân vật phải có tên riêng, và tên đúp nếu có thể: họ và tên Nếu nó có tài sảnthì càng tốt Sau rốt, nó phải có một tính cách, một gương mặt phản ánh tínhcách đó, một quá khứ nặn đắp nên tính cách đó và gương mặt đó…”(9.33)(A.R.Grillet)

Những nhân vật của tiểu thuyết truyền thống luôn gắn với lý tưởng đạođức, luân lý Nhân vật phản diện thường xấu xa hết mức, độc ác khôn cùng,còn nhân vật chính diện thường tốt đẹp, có lý tưởng, ước mơ, hoài bão và đạidiện cho cái Chân - Thiện - Mỹ Có thể nói, nhân vật thường góp phần đắc lựccho việc thể hiện chủ đề của tác phẩm

Kết cấu tiểu thuyết truyền thống thường theo lối chương hồi là chính,mỗi chương là đỉnh điểm của một mâu thuẫn, thắt nút, cao trào, mở nút Tất

cả đều được thể hiện theo tôn ti trật tự nhất định từ mở đầu đến kết thúc rõràng cụ thể, và thông thường là có hậu theo mô típ định sẵn Tiểu thuyếttruyền thống thường có sự đan xen rõ nét giữa văn học với lịch sử và triếthọc Đó là hiện tượng “Văn - Sử - Triết bất phân”

Tính quy phạm và quan niệm “Văn dĩ tải đạo” đã chi phối mạnh mẽ đếnviệc triển khai cốt truyện, xây dựng nhân vật và kết cấu tác phẩm trong tiểuthuyết truyền thống Tính khuôn mẫu quy định cốt cách của con người nêntiểu thuyết truyền thống thiếu đi cá tính, sự sinh động và sáng tạo Bước sangthời đại mới, đặc thù của đời sống cũng thay đổi, các giá trị tưởng chừng nhưbất biến đã được nhìn nhận lại, sự xói mòn khủng hoảng lòng tin… đã tạo ranhững chuyển biến trong tư tưởng của người cầm bút Tiểu thuyết đã thực sựthay đổi tư duy của mình và trở về với tính chất của một thể loại phức tạp đểnhận thức cuộc sống Bielinxki cũng đã khẳng định: “Nếu như có tư tưởng

Trang 14

của thời đại Với sự đổi mới về sáng tác, quan niệm về tiểu thuyết cũng đã cónhững biến đổi sâu sắc” Và tiểu thuyết hiện đại đã chứng minh được quanđiểm này.

1.1.2 Tư duy tiểu thuyết thời kì đổi mới

Tiểu thuyết Việt Nam những năm trước đổi mới vẫn thiên về sự kiện,bao quát hiện thực rộng lớn, cảm hứng sử thi vẫn nổi bật trong tư duy nghệthuật của các nhà văn Có thể kể đến các tác phẩm tiêu biểu cho kiểu tư duy

đó, như: Họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Huân), Miền cháy (Nguyễn Minh Châu), Đồng bạc trắng hoa xoè (Ma Văn Kháng)… Chỉ đến khi bước vào

thời kì đổi mới, trong không khí dân chủ của đời sống văn học, tiểu thuyếtmới thực sự đổi mới về tư duy nghệ thuật với nỗ lực khước từ truyền thốngtrên mọi phương diện và đã đạt được những thành tựu nhất định

1.1.2.1 Về quy mô, dung lượng

Theo quan niệm truyền thống, tiểu thuyết là thể loại có khả năng phảnánh hiện thực rộng lớn, bao quát nhiều số phận, nhiều tính cách trong nhữngkhông gian và thời gian không hạn chế, có thể miêu tả những bức tranh xãhội, phong tục tập quán,… tức là nằm trong mô hình đại tự sự, nên dunglượng phải dài, nhân vật cũng nhiều để có thể bao quát hiện thực đời sống cả

bề rộng lẫn bề sâu Chỉ có ở trong thân xác lớn nó mới ôm chứa được nhiềuvấn đề của đời sống với một diện rộng lớn Đến thời kì đổi mới, quan niệmnày đã bị phá bỏ Các tiểu thuyết gia thời kì đổi mới chối từ mô hình đại tự

sự, coi trọng tính hỗn độn, phi trật tự Cụ thể là: ngoại trừ tiểu thuyết lịch sửcủa Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Mộng Giác với dung lượng lớn, đồ sộ và bềthế, tiểu thuyết Việt Nam đương đại có quy mô và dung lượng nhỏ, ít nhân

vật, cốt truyện đơn giản nhưng lại có sức thu hút độc giả Thiên sứ của Phạm Thị Hoài chưa đầy 80 trang; Trí nhớ suy tàn của Nguyễn Bình Phương, 127 trang; Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh, 120 trang; Ba người khác của Tô

Trang 15

Hoài, chưa đầy 250 trang… Vậy là có thể khẳng định, không phải cứ là những

bộ sử thi, tùng thư đồ sộ mới có giá trị “Tính toàn thể của thế giới chỉ có thể

được biểu hiện và nhận ra trong từng phân mảnh của thực tại, tham vọng miêu tả toàn bộ hoặc phần lớn thế giới trong một tác phẩm tiểu thuyết là siêu hình và trên thực tế là không thể đạt được”(10.22).

Đây là kết quả của sự đổi mới hình thức và cũng là của quan niệm xemcuộc sống như những mảnh vỡ Cho nên, đặc điểm lớn nhất để khu biệttruyện ngắn và truyện dài là ở “tính tiểu thuyết”, tức là khả năng tìm tòi, pháthiện những giá trị đích thực ở bề sâu của con người trong môi trường sốngđầy phức tạp, xô bồ này

1.1.2.2 Về nhân vật

Những cách tân về phương diện nhân vật của tiểu thuyết Việt Namđương đại gắn với những thay đổi trong quan niệm về con người trong thờiđại mới Tiểu thuyết đương đại có cái nhìn rất mới mẻ về con người so vớiquan niệm truyền thống “Văn học là nhân học”, văn học là câu chuyện vềcon người, xung quanh con người Nói cách khác, con người là hạt nhân củavăn học Con người trong quan niệm truyền thống là con người trùng khít vớichính nó: hoặc tốt hoặc xấu, hoặc cao cả hoặc thấp hèn (nguyên phiến), nómang tính phân tuyến thiện – ác rõ rệt

Sang thời kì đổi mới, chất thế sự trong tiểu thuyết nổi lên đậm đặc

M.Bakhtin đã khẳng định, trong tiểu thuyết “nhân vật không tương hợp với số

phận và vị thế của nó Con người hoặc cao lớn hơn thân phận mình, hoặc nhỏ bé hơn tính cách của mình”(3), tức là không còn những tính cách nguyên

phiến Con người hiện ra với tất cả các mặt tốt - xấu, người tốt có thể trởthành kẻ xấu và ngược lại, thiên thần và ác quỷ đều có thể cùng tồn tại bêntrong một con người Báo cáo của Ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam lần

thứ IV đã khẳng định: “Có lẽ sự thật lớn nhất mà văn học ta cần tìm hiểu là

Trang 16

sự thật về tâm hồn con người” Con người giờ đây được tìm hiểu ở nhiều tầng

vỉa mới, cả bên ngoài và thế giới nội tâm phức tạp bên trong

K.Marx đã định nghĩa: “con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã

hội trong tính hiện thực của nó” Định nghĩa này đã chỉ ra, con người ngoài

mặt xã hội còn có mặt tự nhiên (bản năng) của nó Văn học trước 1975 nhấnmạnh đến con người xã hội Sau 1975, con người được nhìn nhận trong cácmối quan hệ xã hội khác nhau Con người tự nhiên cũng được quan tâm nhưmột thành tố cấu thành con người, tức là được xem xét trong tính toàn vẹn của

nó từ nhiều góc độ khác nhau

Tiểu thuyết đương đại cũng quan tâm đến con người tâm linh Đó cũng

là cách nhà văn tìm hiểu thế giới nội tâm sâu sắc của con người, khám phá

con người trong chính bề sâu của nó, như M.Kundera khẳng định là “đi tìm

ẩn mật của bản ngã” Nguyễn Khải đã từng nói: “Cái thế giới tinh thần của con người là vô cùng phức tạp vì sự vận động của nó luôn luôn hướng tới cái thật cao và thật xa” Quan tâm đến con người tâm linh, các nhà văn đương

đại muốn thám hiểm, khám phá chiều sâu vô tận trong tâm hồn con người.Như vậy, tiểu thuyết đương đại quan tâm đến con người một cách toàndiện: con người xã hội, con người tự nhiên và con người tâm linh Sự đổi mớinày kéo theo sự thay đổi trong quá trình xây dựng nhân vật nhằm hướng tớitinh thần hiện đại trong tư duy tiểu thuyết

1.1.2.2.1 Chối bỏ nhân vật điển hình

Tiểu thuyết Việt Nam trước 1945 đã có những điển hình bất hủ, như: chịDậu, Chí Phèo, Xuân Tóc Đỏ,… Thời kì 1945-1975, nguyên tắc xây dựngnhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình vẫn được các nhà văn coi trọngnhưng theo phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa Đến thời kì đổi mới,các nhà văn quan niệm, mỗi cá nhân là một cá thể, không ai có thể thay thế,làm thay vai trò của nó và nó cũng không thể thay thế cho một ai Nhà văn

Trang 17

chối bỏ nhân vật điển hình bằng cách mờ hoá nhân vật Nhân vật có thể lànhững kẻ vô danh, không tên tuổi, nguồn gốc, lai lịch Ví dụ: T mất tích của

Thuận, chủ hiệu cầm đồ trong Trí nhớ suy tàn của Nguyễn Bình Phương, chàng Cá bơn trong Giàn thiêu của Võ Thị Hảo… A.R.Grillet đã nhận xét rằng: “thời đại hiện thời là thời đại của số danh bạ” Như vậy, nhân vật

không còn khả năng đại diện cho một lớp người, một cộng đồng người

Các nhân vật trong tiểu thuyết đương đại còn có sự phân rã về tính cách,như cách nhà văn quan niệm thế giới là bất định, phi thời gian, không gian,năng động và bất khả đoán Sự phân rã này gắn với thái độ từ chối nhân vậtđiển hình và ý thức mờ hoá trong tiểu thuyết hiện đại Chân dung nhân vật chỉđược tìm thấy khi độc giả kết nối những dòng ý thức đứt đoạn, hỗn độn của

nhân vật Tiêu biểu cho loại nhân vật phân rã tính cách này là Kiên trong Nỗi

buồn chiến tranh của Bảo Ninh Kiên sống trong hoang tưởng với những ám

ảnh vô thức, những suy nghĩ đứt nối, bất chợt

Như trên đã nói, sự thay đổi quan niêm nghệ thuật về con người đã dẫntới sự thay đổi trong cấu trúc và chức năng của nhân vật so với tiểu thuyếttruyền thống Nhân vật trong tiểu thuyết đương đại được, nhìn nhận, xây dựngnhư một thực thể đa diện, lưỡng trị Kiểu nhân vật nguyên phiến bị từ chối.Trong mỗi con người có thể song song tồn tại cái tốt lẫn cái xấu, cao cả và

thấp hèn, thiên thần với ác quỷ… Ví dụ: Lý trong Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Ỷ Lan Nguyên phi trong Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Giang Minh Sài trong Thời xa vắng của Lê Lựu,… Chính cái “động” đã làm

cho nhân vật trở nên sống động, đầy sức hấp dẫn

Những thay đổi trong quan niệm về nhân vật của tiểu thuyết hiện đạichính là một trong nhưng nỗ lực đổi mới tư duy tiểu thuyết theo tinh thần hiệnđại như quan niệm coi tiểu thuyết như một trò chơi của Milan Kundera Nhân

Trang 18

vật đều là giả định để qua đó nhà văn trình bày quan niệm nhân sinh của mình

về thế giới

1.1.2.2.2 Khám phá thế giới nội tâm nhân vật bằng cách gia tăng tính phi lí, huyền ảo

Trong tiểu thuyết đương đại, hầu hết cái nhà văn đều sử dụng những giấc

mơ, những hồi ức, những giấc chiêm bao để khám phá, giải mã thế giới nộitâm, tâm linh của con người Các tiểu thuyết sử dụng thủ pháp này, tiêu biểu

là Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ

vãng (Chu Lai), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài)…

Trong Giàn thiêu, Ỷ Lan bề ngoài là con người mạnh mẽ, quyền biến

nhưng đêm đêm phải đối diện với những giấc mơ khủng khiếp với sự trở vềđòi mạng của các oan hồn mà bà đã bức hại Chính trong những giấc mơ củathế giới phi lí, huyền ảo đó mà cái phần tiềm thức ẩn khuất được bộc lộ, độcgiả nhận ra mặt trái trong con người Ỷ Lan

Các nhà văn hiện đại còn khám phá con người bằng cách xây dựng nhânvật mang bóng dáng của những nhân vật huyền thoại: bé Hon, Quang lùn,

Hoài trong Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), giống kiểu nhân vật đặc biệt của truyện

cổ tích Có thể thấy sự đặc biệt ấy thể hiện ở nguồn gốc ra đời kì lạ của béHon Bé ra đời vào lúc không ai nghĩ mẹ bé có thể sinh con được nữa Chỉ saumột đêm “cả dây quần áo nhà phơi bị quên qua đêm ngoài trời và loang lổ vếttừa tựa như chàm” thì không lâu sau mẹ bé mang thai Sự ra đời của bé cũng

kì lạ như các nhân vật truyền thuyết, cổ tích như Thánh Gióng, Sọ Dừa Donguồn gốc kì lạ đó, bé Hon mang thiên chức là một thiên sứ xuống cứu rỗitrần gian bằng nụ cười mê hồn của mình Ban đầu, mọi chuyện đều tốt đẹp,mọi thứ đều thay đổi theo chiều hướng tốt Nhưng rồi dần dần, những điều tồi

tệ đã xảy ra, không ai còn mừng vui đón chào bé Thiên sứ đã không tìm đượcchỗ đứng trong thế giới lạnh lùng, vô cảm đó Những con người trong thế giới

Trang 19

đó còn mải mê toan tính, giành giật, tranh cướp nên không còn chú ý đến tìnhyêu thương và lòng nhân ái Mọi quan hệ trong gia đình như vợ chồng, chacon, anh em đều trở nên lỏng lẻo, vô nghĩa lí Không thể hoàn thành đượcnhiệm vụ làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn, bé Hon đã bay về nơi thiênđường, rời bỏ chốn trần gian tha hóa và băng hoại tình người.

Thủ pháp này là một phương tiện nghệ thuật có tác dụng tăng sức lôicuốn cho tác phẩm, đồng thời cũng là quan niệm của tác giả về con người.Đây cũng là minh chứng cho thấy một bước tiến mới trong tư duy nghệ thuậttiểu thuyết thời kì đổi mới

1.1.3 Về tổ chức cấu trúc tiểu thuyết

1.1.3.1 Cấu trúc lắp ghép, phân mảnh

Các nhà tiểu thuyết đương đại chủ trương đập vỡ các mảng văn bản trầnthuật thành những mảnh vụn rời rạc, phi trật tự, phi logic, đời sống hiện thựcđược biểu hiện qua những mảnh vụn ấy Hoặc lắp ghép, tạo dựng các mảnhcốt truyện, tâm trạng ngổn ngang, đảo chiều, không theo trình tự thời gian.Nhờ đó, các sự kiện, biến cố được thu về thành một chuỗi Cấu trúc này đãphá vỡ cốt truyện truyền thống, nhận thức lại thế giới trên tinh thần phânmảnh và sự liên kết bề sâu đó biểu đạt sự phân rã, đổ vỡ của đời sống hiệnthực và đời sống con người

Trong Thiên sứ, Phạm Thị Hoài đã chia tác phẩm của mình thành những

phân chương và phân đoạn ngắn, các phân đoạn ngắn được ngăn cách vớinhau bằng dấu hoa thị (*) Cách phân chia này đã chia văn bản truyện thànhnhững phần rất ngắn và không đều nhau: có chương 2 trang, có chương 7

trang Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh cũng có cách phân chia tương tự:

có chương 13 trang và có chương chỉ có 13 dòng

Giã biệt bóng tối cũng được Tạ Duy Anh chia làm 3 phần, mỗi phần

được chia thành các đoạn nhỏ với vô số những kênh thông tin Các phân đoạn

Trang 20

cũng không đều nhau Có phân đoạn chỉ có một trang (Tiếp lời người tường

thuật, trang 108), có phân đoạn lại dài tới 94 trang (Nhân vật xưng tôi: thằng

bé, từ trang 109 đến trang 203).

Các nhà văn đã thực hiện “cách chơi cấu trúc” văn bản (chữ của NguyễnĐăng Điệp) Những văn bản kiểu này có ý nghĩa rất năng động và biến hoá.Mỗi chương, mỗi đoạn là mỗi mảnh văn bản chứa đựng những mảnh đời sống

đa dạng và phức tạp Các mảnh văn bản được bố trí theo cách phi tuyến tính,phi nhân quả, có ít sự liên kết về mạch truyện Một mặt, nhằm lạ hoá nghệthuật trần thuật, gây chú ý cho người đọc, mặt khác, nó tạo ra nhịp trần thuậtlinh hoạt

Thoạt kì thuỷ của Nguyễn Bình Phương là tác phẩm có sử dụng thủ pháp

lắp ghép các biểu tượng, các ẩn dụ Trong tác phẩm, Nguyễn Bình Phương sửdụng những biểu tượng để tạo ra một hệ thống ẩn dụ nghệ thuật Những biểu

tượng trong Thoạt kì thuỷ là trăng - cú - chó, tượng trưng cho phần tăm tối,

phần vô thức của con người, nó xung đột với phần hữu thức trong con người(nhân vật Tính) Qua hệ thống ẩn dụ nghệ thuật này, Nguyễn Bình Phươngmuốn nói lên sự giằng co, đấu tranh giữa phần vô thức với phần hữu thức,giữa bóng tối với ánh sáng, giữa phần con và phần người… Muốn nắm bắtđược ý nghĩa đằng sau những biểu tượng đó, người đọc cần phải có khả nănghiểu biết về các biểu tượng văn hoá và về những ẩn ngữ của chính tác giảđằng sau những câu chữ trong tác phẩm

Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh được triển khai trên cơ sở dòng ý

thức của Kiên Tác phẩm nay không tuân theo lối kết cấu truyền thống Nhânvật được tái hiện qua vỏ ngoài đứt gãy, những mảnh vỡ tâm hồn, những kí ứcđứt đoạn và sự lồng ghép các sự kiện, con người hai trong một Bảo Ninh đãđưa đến cái nhìn đa chiều về cuộc chiến tranh, đồng thời mở rộng đường biên

và các góc độ tiếp cận nhân vật và văn bản

Trang 21

Kết cấu lắp ghép góp phần nới rộng đường biên thể loại, cho phép nhàvăn khám phá đời sống từ nhiều góc độ khác nhau.

1.1.3.2 Cấu trúc mở

Tiểu thuyết truyền thống thường có kết cấu khép kín, tĩnh tại Tiểuthuyết đương đại thường mở đầu đột ngột, kết thúc dở dang, mở rộng không

hạn chế Thông thường, tiểu thuyết đương đại sử dụng cấu trúc mở “chẳng hề

kể gì cả”, tức là để cho hệ thống ngôn ngữ trong tác phẩm được diễn ra vô

tận Mỗi cuốn tiểu thuyết sử dụng cấu trúc này đều có thể tạo ra vô vàn cáclớp nghĩa Lớp nghĩa thứ nhất là do cấu trúc nội tại của tác phẩm mang đến.Lớp nghĩa thứ hai là do người đọc tiếp xúc với tác phẩm hình thành nên, từ đóđộc giả phải trăn trở, tìm tòi suy nghĩ để tìm câu trả lời Do tính “mở” của vănbản mà vai trò của độc giả được tăng cường

Trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, ở phần cuối tác phẩm, nhân

vật người kể chuyện xưng “tôi” xuất hiện và đề cập đến tình trạng “mỗi ngườitrong chúng tôi bị chiến tranh chà nát theo một kiểu riêng, mỗi người ngay từ ngày đó đã mang trong lòng một cuộc chiến tranh của riêng mình”, thì mỗi độc giả đều có thể hiểu rằng, cuộc chiến đã kết thúc nhưng dư chấn khốc liệt, đắng chát của nó còn ám ảnh mãi mãi tâm trí các thế hệ người Việt Nam Những dư chấn đó ảnh hưởng đến tất cả mọi người theo những cách khác nhau Mỗi người sẽ có ấn tượng về một cuộc chiến tàn khốc của riêng mình, không ai giống ai, điểm chung chỉ là sự vô nhân tính và hủy diệt đến tận cùng.Các tầng nghĩa của tác phẩm theo sự tiếp xúc của độc giả với tác phẩm mà tăng lên

Kết thúc tác phẩm là nhân vật Kiên đã từ bỏ căn phòng quen thuộc để ra

đi Không ai biết Kiên đi đâu Có thể anh không chịu nổi sự ám ảnh của những hồi ức khủng khiếp về cuộc chiến tranh nên đã ra đi tìm sự yên tĩnh cho tâm hồn mình ở một chốn nào đó Cũng có thể là Kiên ra đi để tìm cách

Trang 22

hoàn thành cuốn tiểu thuyết của mình Mỗi người đọc có một cái kết thúc của riêng mình Các lớp nghĩa lại tiếp tục được hình thành trong suy nghĩ của người đọc.

1.1.3.3 Kết cấu lồng ghép tiểu thuyết

Do quan niệm tiểu thuyết như một trò chơi nên trong các tiểu thuyếtđương đại thường gặp kết cấu lồng ghép theo kiểu truyện trong truyện, tiểuthuyết trong tiểu thuyết, đan xen nhiều câu chuyện trong một câu chuyện, cắtdán nhiều loại văn bản trong một cuốn sách đã tăng cường độ mở không giannghệ thuật của tác phẩm, mở rộng biên độ tiếp nhận và phản ánh quan niệm

về sự đứt vỡ, xáo trộn, khó lí giải của thế giới Tác phẩm tiêu biểu có thể kể

đến Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Chinatown của Thuận, Cơ hội của

chúa của Nguyễn Việt Hà…

Trong Chinatown nhân vật chính trong tác phẩm đang ngồi viết cuốn tiểu thuyết I’m yellow Từ nhân vật chính trong Chinatown, người phụ nữ lại

trở thành nhân vật phụ trong chính cuốn tiểu thuyết của mình; từ người kểchuyện, chị ta trở thành người bị kể, bị chính nhân vật của mình tra vấn

Cấu trúc lồng ghép cũng được sử dụng tinh tế trong Nỗi buồn chiến

tranh Chuyện của Kiên được kể qua một người xưng tôi khác Rồi người đó

lại tự nhận mình có sự tương đồng trong tư tưởng, thậm chí ngỡ là quen nhauvới nhân vật Kiên

Kết cấu lồng ghép tiểu thuyết này tạo ra điểm nhìn phong phú về con người

và thế giới, đồng thời cho thấy tính dân chủ trong cách nhìn về nghệ thuật

1.1.3.4 Về ngôn ngữ

Khảo sát tiểu thuyết đương đại, có thể nhận thấy, ngôn ngữ trong các tácphẩm hầu hết được cá thể hoá cao độ đồng thời lượng thông tin được gia tăng.K.Gunnar đã khái quát: “Chân lí luôn nằm bên ngoài chúng ta, và thay vì lènchặt đời mình bằng những ngôn từ, chúng ta co thể rút lại, nói ít đi, nhưng hãy

Trang 23

làm sao gia tăng trọng lượng cho mỗi từ, hãy làm mỗi từ chứa đầy sự bí ẩn và

niềm kính sợ, ngôn ngữ xứng đáng được như vậy”(10) Trong tiểu thuyết

đương đại, các tiểu thuyêt đều có sự tinh giản ngôn ngữ cần thiết để dồn nén ýtưởng, khơi gợi trí tưởng tượng của độc giả, gia tăng nghĩa cho ngôn ngữ, do

đó, thông tin và tính triết luận cũng được tăng cường Bước vào thời kì đổimới, chất sử thi nhường lại cho thế sự - đời tư cho nên ngôn ngữ đã bớt đichất du dương, mượt mà, trở nên thô nhám, xù xì, góc cạnh với giọng điệuthản nhiên, bất cần

Do yêu cầu cá thể hoá cao độ ngôn ngữ nhân vật, tiểu thuyết đã dung nạpcác dạng thức khác nhau của nhiều tầng lớp trong xã hội Ngôn ngữ thật sựđược giải phóng, tạo nên giá trị nghệ thuật cho tiểu thuyết thông qua đốithoại Nhờ đối thoại mà các vấn đề được xem xét bằng cái nhìn đa diện Nhânvật được nhìn nhận với tư cách là một chủ thể độc lập Nhân vật có vị thếngang bằng, cùng đối thoại với nhà văn

Ý thức đối thoại trong tiểu thuyết thời kì đổi mới tiếp tục được phát huy.Ngôn ngữ trong tiểu thuyết biểu hiện sự cá tính hoá mạnh mẽ, tính cách nàothì lời lẽ đó: cách nói trần trụi, dân dã của người lính với giọng văn băm bổ,

sôi động trong Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), cách nói thông tục nhưng cũng đầy tính triết lí trong Giã biệt bóng tối (Tạ Duy Anh), hay cách nói khuôn vàng thước ngọc ở chốn cung đình trong Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Giàn

thiêu (Võ Thị Hảo)…

Các nhà văn đương đại đã nỗ lực tìm tòi, đổi mới nhằm cách tân tư duytiểu thuyết Những nỗ lực đó có thể chưa thành công, còn nhiều hạn chếnhưng điều đáng ghi nhận là ý thức làm mới thể loại trên nhiều phương diệncủa các cây bút tiểu thuyết

Trang 24

1.2 Nhận thức lại - Một khuynh hướng tiểu thuyết nổt bật

Tiểu thuyết Việt Nam là một bức tranh đa dạng và có nhiều khuynhhướng khác nhau Một số nhà nghiên cứu đã nhắc đến các khuynh hướng tiểuthuyết như: khuynh hướng tiểu thuyết lịch sử, khuynh hướng tự thuật, khuynh

hướng dòng ý thức… (Mai Hải Oanh, Những cách tân nghệ thuật trong tiểu

thuyết Việt Nam đương đại) Trong luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên

cứu khuynh hướng nhận thức lại, một khuynh hướng tiểu thuyết nổi bật củathời kì đổi mới

Vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, một khuynh hướng tiểu thuyết đãđược hình thành và phát triển mạnh mẽ vào giai đoạn đổi mới Đó là khuynhhướng nhận thức lại Khuynh hướng này ra đời nhằm nhận thức lại các vấn đề

của đời sống theo tinh thần hiện đại, Thời xa vắng của Lê Lựu là tiểu thuyết

tiêu biểu, khơi dòng khuynh hướng này Tiếp đó là một loạt các tác phẩm theo

khuynh hướng nhận thức lại ra đời: Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Ba người khác (Tô Hoài), Bến không chồng (Dương Hướng), Nỗi

buồn chiến tranh (Bảo Ninh),

Tiểu thuyết nhận thức lại là những tác phẩm viết về những vấn đề quenthuộc của hiện thực như vấn đề người nông dân, người lính, vấn đề gia đìnhvới cách nhìn trái với quan điểm vốn đã tồn tại lâu nay Cơ sở của dòng tiểuthuyết này là những biến đổi mạnh mẽ về chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội,người ta cảm thấy nhiều giá trị của quá khứ cần được nhìn nhận lại Đáp ứnglại yêu cầu nhìn thẳng vào sự thật, nhiều nhà văn đã nhìn lại hiện thực củathời kỳ vừa qua, đi sâu khám phá và phơi bày những mặt tối còn bị che khuất,lên án mạnh mẽ những tư tưởng, thói quen đã lỗi thời, trở thành vật cản trởngại cho sự phát triển xã hội Cùng với lý do này, tư duy nghệ thuật của nhàvăn hiện đại đã khác biệt so với tư duy nghệ thuật truyền thống Cuộc sốnggiờ đây dược các nhà văn nhìn nhận trong tính toàn vẹn của nó Khuynh

Trang 25

hướng tiểu thuyết này rất gần gũi với khuynh hướng tiểu thuết phản tư ởTrung Quốc trong thời kỳ cải cách Trong hoàn cảnh xã hội mới, nhà văn có

độ lùi thời gian để nhìn vào quá khứ với cái nhìn mang tính dân chủ, trả lạigiá trị đích thực cho những cái từng bị lãng quên bị phê phán hay cố tình chedấu Khuynh hướng nhận thức lại biểu thị tinh thần dân chủ trong đời sốngnói riêng và sáng tạo nghệ thuật nói chung

Khuynh hướng tiểu thuyết nhận thức lại đặt ra nhiều câu hỏi về conngười trong mối quan hệ với con người và xã hội hiện đại, về con người vớinhân cách méo mó, về gia đình truyền thống trước cơn bão kinh tế thị trường.Khuynh hướng cũng nhìn nhận, mổ xẻ những sai lầm trong quá khứ như cảicách ruộng đất, chiến tranh, nông thôn với hàng loạt vấn đề tồn tại từ xưa đếnnay Năm 1991 có ba tiểu thuyết đã làm nên mùa giải ấn tượng của văn họcViệt Nam do hội nhà văn Việt Nam tổ chức

Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng cảnh tỉnh mọi gia đình Việt

Nam trước nguy cơ lung lay, rạn vỡ nền móng khi cơn bão kinh tế thị trường

ập vào

Thời xa vắng của Lê Lựu lại đề cập đến bi kịch đánh mất mình của các

cá nhân trước các định kiến và rào cản xã hội Họ lâm vào bi kịch đó mộtphần là do tích cách nhưng cũng là do sự ấu trĩ và trói buộc của hoàn cảnh

Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh lại viết về số phận của những người

người lính thời hậu chiến Chiến tranh đã lấy đi của họ tất cả tuổi trẻ ,tìnhyêu… không những thế, dư âm chết chóc của nó còn không ngừng vò xé, ámảnh không cho họ yên tâm sống nốt quãng đời còn lại

Tiểu thuyết nhận thức lại thường mang cảm hứng phê phán, nhưng bêncạnh đó, con người và thân phận của họ cũng là cảm hứng phổ biến trong cáctác phẩm của khuynh hướng này Đây là điều thực sự mang ý nghĩa nhân vănsâu sắc Theo Nguyễn Minh Châu, nhận thức lại phải làm những cuộc đối

Trang 26

chứng trong tư tưởng, để thoát khỏi những nhận thức sai lầm máy móc hoặcgiản đơn về con người và xã hội Chính vì vậy nhận thức lại cũng dẫn đếntinh thần tự phê nghiêm khắc dưới ánh sáng của lương tâm Nhưng nhận thứclại không đồng nghĩa với “xét lại” Chúng ta nhìn về qúa khứ với tinh thần

“nhờ vào kinh nghiệm người ta gạt bỏ sai lầm khỏi cái chủ quan mà nó baohàm, người ta đi dần tới chân lý” (Lênin)

Trong văn học, thái độ tự vấn và tinh thần nhận thức lại lịch sử là tínhiệu của quá trình đổi mới tư duy mạnh mẽ Nhận thức lại vấn đề có thể bằng

kế thừa, phủ định hoặc bằng cả kế thừa và phủ định là con đường phát triểntất yếu của văn học Đây cũng chính là một phương diện quan trọng đánh giánhững cách tân của tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới

1.2.1 Cơ sở hình thành khuynh hướng tiểu thuyết nhận thức lại

1.2.1.1 Cơ sở xã hội

Năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hoàn toàn thắng lợi,hoà bình được lập lại Đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình Conngười lại trở về với những quy luật đời thường Tuy nhiên, cơ chế thị trườngvới những mặt trái của nó đã có những tác động rất lớn đến đời sống conngười, tạo nên những vấn đề xã hội mới Cuộc sống của con người thời hậuchiến đầy khó khăn, vất vả do hậu quả của chiến tranh để lại Thiếu thốn vậtchất, trì trệ do cơ chế quan liêu bao cấp, những vết thương chiến tranh chưađược hàn gắn… Xã hội bất ổn, lòng người không yên Nếu không kịp thờithay đổi thì một cuộc khủng hoảng trầm trọng là điều không thể tránh khỏi.Tháng 12/1986, Đại hội toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIdiễn ra đã xác định dường lối đổi mới đất nước một cách toàn diện Tinh thần

và phương châm của đại hội là nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật và đổimới suy nghĩ, tư duy Tinh thần dân chủ được khơi lên, ý thức phản tỉnh trỗidậy Con người bắt đầu tự lay tỉnh mình, nhìn nhận lại vấn đề trong cuộc

Trang 27

sống: về chiến tranh, về nông thôn và người nông dân, cá tính con người, vềlịch sử hoặc về các mối quan hệ trong xã hội… một cách nghiêm túc Các vấn

đề đó cần phải được soi xét, mổ xẻ một cách tường tận mọi ngóc ngách, mọikhía cạnh để thấy được cái được – cái chưa được, cái đúng – cái sai, cái tiến

bộ - cái lạc hậu Đó chính là điều kiện tiên quyết trên con đường đưa đấtnước vượt qua khủng hoảng tiến lên xây dựng đất nước tốt đẹp hơn

Tình hình đó của xã hội đã có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sáng tácvăn học nghệ thuật Các nhà văn cũng phải có cái nhìn nhạy bén, khả năngphân tích và trên hết là tự vấn bản thân, tự thức tỉnh và sám hối qua đó xâydựng ý thức tư vấn xã hội Khuynh hướng nhận thức lại đã ra đời trong bốicảnh xã hội như vậy

1.2.1.2 Cơ sở thẩm mỹ

Xã hội thay đổi, văn học với chức năng “phản ánh hiện thực” cũng cónhững thay đổi cho phù hợp, và có thể đáp ứng nhu cầu tư tưởng, tình cảmcủa con người Văn học cần phải nhìn thẳng vào sự thật đánh giá mọi vấn đề

ở mọi góc độ dưới ánh sáng của thời đại mới, phơi bày những mặt trái còn bịche khuất, phủ định cái lạc hậu, lỗi thời Văn học phải bám sát hiện thực cuộcsống để kịp thời phản ánh những vấn đề tồn tại trong cuộc sống đó Muốnvậy, văn học phải kịp thời thay đổi Như vậy, chính những thay đổi của hiệnthực cuộc sống đã thôi thúc văn học phải đổi mới, phải nhìn nhận, đánh giá,nhận thức lại mọi vấn đề bằng cách nhìn của con người đương thời, của ngàyhôm nay

Từ những thay đổi của đời sống xã hội, tư duy nghệ thuật của nhà vănthời hiện đại cũng thay đổi, có nhiều điểm khác biệt với tư duy nghệ thuậttruyền thống Nhà văn hiện đại nhìn cuộc sống trong tính toàn vẹn của nó.Sau đại hội VI, tính dân chủ trong sáng tác được nhấn mạnh Nhà văn đãmạnh dạn đưa ra quan điểm của mình về những điều bấy lâu trăn trở, dám

Trang 28

đụng đến những nhạy cảm lâu nay vẫn bị coi là những vùng bị cấm, nhìn lạiquá khứ bẵng những cái nhìn dân chủ Khuynh hướng nhận thức lại nhanhchóng trở thành khuynh hướng sáng tác nổi bật với những tác phẩm rất thành

công: Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai),

Thời xa vắng (Lê Lựu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh),

Chuyển sang thời kỳ đổi mới, đất nước đã có sự hội nhập, giao lưu kinh

tế và văn hoá với các nước trên thế giới Văn chương dân tộc cũng chuyểnmình rõ rệt theo xu hướng hiện đại, hoà nhập với văn chương khu vực vànhân loại Nhiều tác phẩm xuất sắc của các nền văn học tren thế giới đã đếntay độc giả Nhà văn và độc giả có cơ hội tiếp xúc làm quen với các phươngpháp sáng tác mới của văn học thế giới Đây cũng là một cơ hội tốt để các nhàvăn học hỏi, đổi mới sáng tác

Sau đại hội VI, mối quan hệ giữa văn học và chính trị đã không còn cứngnhắc, cái này phục vụ cái kia Trên thực tế, quan niệm văn học phục vụ chínhtrị đã được thay thế bằng quan niệm văn học thoả mãn nhu cầu tinh thầnnhiều mặt của nhân dân, góp phần bồi dưỡng con người Việt Nam có văn hoá.Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa không còn là phương phápsáng tác tốt nhất, chủ nghĩa hiện thực cũng không còn chiếm vị trí độc tôn.Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cũng không còn chi phối quanniệm về cuộc sống, về con người nữa Tính dân chủ trong văn xuôi được nhấnmạnh, do vậy, sự chủ quan, năng động và cá tính của nhà văn được coi trọng.Con người được nhìn nhận bằng cái nhìn đa diện: con người tự nhiên, conngười xã hội, con người bản năng, con người tâm linh … Những thành tựumới của lí luận đã hỗ trợ đắc lực cho sự sáng tạo của nhà văn Đó là nhân tố

mở đường, là căn cứ và chỗ dựa để nhà văn sáng tạo những tác phẩm nghệthuật đáp ứng nhu cầu của thời đại

Trang 29

1.2.2 Nhận thức lại – như một nhu cầu phản tư bằng nghệ thuật

Sự biến đổi mạnh mẽ về chính trị kinh tế, văn hoá, xã hội là cơ sở cho sựxuất hiện của khuynh hướng tiểu thuyết nhận thức lại Mọi người thấy cầnthiết phải nhìn nhận lại các giá trị của quá khứ với một cái nhìn toàn diện, sâusắc và tinh nhạy Đây cũng là khuynh hướng biểu thị tinh thần dân chủ trongđời sống nói riêng và văn học nói chung

Tư duy nghệ thuật của các nhà văn thời hiện đại cũng có rất nhiều điểm

khác biệt với tư duy nghệ thuật truyền thống Trong Gặp gỡ cuối năm, nhà

văn Nguyễn Khải đã khẳng định: “tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổnngang, bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ với màu đen đầy rẫy những biếnđổi, những bất ngờ mới thật là một mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thảsức khai vỡ” “Cái hôm nay” của nhà văn Nguyễn Khải là hiện thực đa tầng,thứ hiện thực “chưa hoàn thành” Với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinhthần nhân bản, nhà văn đã xem xét lại tất cả các giá trị, các hiện tượng củamột giai đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc Khuynh hướng nhận thức lại

đã nhìn lại lịch sử, chiến tranh, các quan hệ trong xã hội, bi kịch của con

người trong xã hội đó Thời xa vắng của Lê Lựu được xem là tác phẩm khơi

dòng trong khuynh hướng này

Các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh của khuynh hướng này đã xemxét cuộc chiến dưới góc độ sự khốc liệt của nó, những mất mát hy sinh trongchiến tranh ngay cả khi nó đã đi qua Sức ám ảnh của nó với những người đã

đi qua cuộc chiến là mãi mãi Những sáng tác này đã đi ngược lại khuynh

hướng sử thi trước năm 1975 Tiêu biểu là Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Nỗi

buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Miền cháy

(Nguyễn Minh Châu)…

Chiến tranh đã đi qua nhưng nó không phải là một giấc mơ mà thật sự làmột cơn ác mộng khủng khiếp Cơn ác mộng đó đã để lại những vết thương

Trang 30

không bao giờ kín miệng được Các nhà văn thời kỳ đổi mới đã khai thác đềtài này theo một tư duy mới với bao điều còn khuất lấp, chưa được phơi bày,phanh phui Simônôp đã từng viết: “Hiện thực mất mát trong chiến tranh,trong văn học nội chiến không còn bị né tránh nữa và bây giờ nếu viết vềchiến tranh mà không viết về đổ máu chỉ là một tác phẩm vô đạo đức” Trongthời kỳ kháng chiến, lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước sục sôi và tinh thầnđoàn kết dân tộc trong cuộc trường trinh vĩ đại và cũng đầy khốc liệt Nhà vănviết về đề tài này chủ yếu là ngợi ca những tấm gương anh hùng cách mạng.Nhân vật tiểu thuyết là những cá nhân điển hình, với những phẩm chất anhhùng bất khuất, trung hậu, đảm đang Nhưng sang thời kỳ đổi mới, nhà vănkhông thể cứ giữ cái nhìn đậm chất sử thi mãi được Nhà văn Nguyễn Quang

Hà đã nói “Giống như mâu thuẫn trong triết học Chiến tranh cũng có hai mặt,mặt trái và mặt phải của nó”… Chu Lai cũng bày tỏ ý kiến: “Nên miêu tảchiến tranh như nó vẫn có Chiến tranh là bi kịch và chiến tranh cũng là bitráng” Đất nước bước vào hoà bình là dịp để người cầm bút và người đọc cóđiều kiện tĩnh tâm, soi chiếu bằng sự trải nghiệm tất cả những giá trị trong quákhứ để có một cái nhìn công bằng với tất cả “Văn học viết về chiến tranh cáchmạng là một cánh đồng không bao giờ bạc màu, càng lật xới càng màu mỡ”.Không những nhận thức lại về chiến tranh, khuynh hướng này còn nhìnlại lịch sử với các nhân vật và sự kiện của nó Trước đổi mới, lịch sử đượcnhìn nhận một chiều theo đúng quan điểm, cách đánh giá ghi chép của các sửquan trong chính sử Tuy nhiên, trước sự đổi thay của tất cả các yếu tố trong

xã hội và đặc biệt là tính dân chủ trong xã hội nói chung và trong sáng tác vănhọc nói riêng, nhà văn đã mạnh dạn viết, mạnh dạn bày tỏ quan điểm, chínhkiến của cá nhân mình Lịch sử và các giá trị của nó đã được soi rọi từ mọigóc cạnh nhằm tái hiện lịch sử một cách sống động trên tinh thần mới mộtcách nhân bản Một số tác phẩm xuất sắc ra đời và được độc giả đón nhận

Trang 31

nồng nhiệt: Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác), Hồ Quý Ly, Mẫu thượng

ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo)…

Bước vào thời kỳ đổi mới, xã hội đầy những biến động Con người chịu

sự tác động của những biến đổi đó nên cũng thay đổi, trước đây con ngườiđược đánh giá qua ý thức cộng đồng, ý thức tập thể Đến nay, con người cánhân với những nhu cầu, khát vọng, ước mơ, hoài bão đươc đề cập, đượcquan tâm Nhiều tác phẩm của khuynh hướng nhận thức lại đã xem xét, đánhgiá các quan hệ đạo đức – xã hội và những bi kịch của sự được mất trongcuộc sống Tức là nhìn nhận con người trong sự va đập với các yếu tố kháctrong xã hội, nhìn nhận con người trong “tổng hoà các mối quan hệ xã hộitrong tính hiện thực của nó”, quan hệ giữa các cá nhân trong gia đình, quan hệgiữa cá nhân với cá nhân trong xã hội, những bi kịch và mất mát trong cuộc

sống… Bến không chồng (Dương Hướng), nhận thức lại xã hội qua hình ảnh

nông thôn Việt Nam với những hủ tục lạc hậu và ấu trĩ khiến cho con người

cá nhân bị bóp nghẹt, con người không được là mình, không được sống chomình, mọi ước mơ, hoài bão đều không thể thực hiện được Tất cả những điều

ấy đã đẩy con người rơi vào bi kịch

Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng) rung hồi chuông báo động cho

mọi người nguy cơ rạn vỡ của nhiều giá trị trước cơn bão của đời sống kinh tếthị trường Gia đình là nhân tố quan trọng của xã hội nhưng cũng là nhân tốđầu tiên chịu sự tác động của cơn bão đó Xã hội hiện đại mang đến cho conngười nhiều cơ hội để phát triển song cũng có vô số cạm bẫy khiến con người

có thể mắc vào và rơi xuống vực thẳm của sự tha hoá

Có thể nói khuynh hướng nhận thức lại đã nhận xét, đánh giá lại xã hộivới tất cả những yếu tố cấu thành nên nó Nhà văn nhìn nhận lại tất cả bằngcon mắt tỉnh táo của ngày hôm nay với tính dân chủ và tinh thần nhân bản.Nhận thức lại trở thành một khuynh hướng tiểu thuyết nổi bật của thời kỳ đổi

Trang 32

mới Ở phần trước, chúng tôi đã nhắc đến một số khuynh hướng của tiểuthuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới đến nay: Tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyếtdòng ý thức, tiểu thuyết tự thuật Có thể thấy rằng, sự phân chia khuynhhướng tiểu thuyết như vậy là căn cứ vào thủ pháp nghệ thuật hoặc chất liệu

mà nhà văn sử dụng Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ là tương đối, có nhữngtác phẩm có thể xếp vào khuynh hướng này hoặc khuynh hướng kia đều có cơ

sở Ví dụ: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) có thể xếp vào khuynh hướng nhận thức lại nhưng cũng có thể xếp vào khuynh hướng dòng ý thức Hồ Quý

Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo) là tiểu thuyết lịch sử

nhưng bao trùm tác phẩm là tinh thần nhận thức lại các giá trị của lịch sử

Đây cũng là những tác phẩm có sử dụng các yếu tố huyền thoại Hay Thượng

đế thì cười (Nguyễn Khải), Ba người khác (Tô Hoài), là tiểu thuyết tự thuật

nhưng nếu bảo đó là tiểu thuyết nhận thức lại thì cũng hoàn toàn không sai vì

nó không chỉ xuất phát từ nhu cầu tự mổ xẻ, phân tích mình mà còn xuất phát

từ nhu cầu nhận thức lại quá khứ

Dù có những khuynh hướng khác nhau nhưng ở khuynh hướng nào tacũng thấy nhận thức lại là nét bao trùm trong các tác phẩm Sự khác nhau cóchăng chỉ là ở cách thức thức tổ chức trần thuật hoặc là chất liệu, đề tài mànhà văn sử dụng, còn mục tiêu mà tác phẩm hướng tới phần nhiều là nhậnthức lại các hiện tượng trong đời sống, các giá trị của quá khứ bằng cái nhìndân chủ, giàu tính nhân bản để nhận chân tất cả mọi điều Có thể khẳng địnhrằng, nhận thức lại là khuynh hướng nổi bật của tiểu thuyết Việt Nam thời kìđổi mới

Trang 33

Chương 2 BIỂU HIỆN CỦA TINH THẦN NHẬN THỨC LẠI TRONG

TIỂU THUYẾT THỜI KÌ ĐỔI MỚI

2.1 Nhận thức lại lịch sử

Đây là một nội dung của khuynh hướng nhận thức lại Trước đây, người

ta chỉ biết đến những cái thuộc về lịch sử qua những ghi chép của các sử quantrong những bộ chính sử hoặc trong sách giáo khoa Đó là những dòng ghichép ít ỏi, khô khan về nhân vật, hoặc sự kiện lịch sử Đánh giá các sử quan

về nhân vật, sự kiện lịch sử hoặc là tốt hoặc là xấu, hoặc là có công hay có tội.Tất cả đều phân minh rõ ràng, không thể vừa tốt vừa xấu, vừa có công vừa cótội được Có thể xem nhà viết sử là những thư kí trung thành của thời đại.Những biến chuyển của thời đại đều được ghi chép lại một cách khách quan

và trung thực nhất, không thêm bớt, không biến đổi và không được để cảmnhận chủ quan lất át Tất cả đều được ghi chép theo đúng thời gian tuyến tính,tức là diễn ra vào năm nào, ở đâu thì ghi lại chính xác như thế Khi tiếp xúcvới chính sử, người đọc được sống lại với những diễn biến, sự kiện, nhân vậtlịch sử có thật trong quá khứ như nó vốn có, không hư cấu

Nhà văn tìm đến lịch sử nhằm mượn sự kiện, nhân vật lịch sử làm chấtliệu nghệ thuật cho sáng tác của mình Cái đích hướng tới của nhà văn là nhìnnhận lại một số vấn đề lịch sử hoặc mượn xưa nói nay để nói về hiện tại, vềquy luật của phát triển Con người hay sự việc,hiện tượng đều có tính hai mặtcủa nó, nhất là con người Đó là một thực tế mà chưa có ai khám phá hết đó là

“Vũ trụ chứa đầy bí mật” Không đơn giản chỉ có người tốt, kẻ xấu Trongmỗi một con người đều tồn tại những mặt tốt xấu lẫn lộn, cái này luôn tìmcách lấn át cái kia Cho nên, nhà văn, một mặt vẫn tuân theo sự thật lịch sử,mặt khác đã dùng trí tưởng tượng của mình để hư cấu nhằm đem lại cho độcgiả cái nhìn toàn diện nhất về một con người, một sự kiện, một thời đại

Trang 34

Thông qua tác phẩm của mình, nhà văn muốn nhìn nhận lại lịch sử với cácvấn đề của nó.

Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh) và Giàn thiêu (Võ Thị Hảo) mang đến

cho người đọc cái nhìn đa chiều về nhân vật và sự kiện lịch sử trên tinh thầnmới, giàu tính chất nhân bản hơn

2.1.1 Cái nhìn đa chiều về nhân vật lịch sử

Hồ Quý Ly và Giàn thiêu là hai tiểu thuyết có dung lượng tương đối lớn

(Giàn thiêu 542 trang, Hồ Quý Ly 802 trang) lấy bối cảnh của giai đoạn lịch

sử của hai chiều đại Lý, Trần Với những chặng đường lịch sử này, nhiềunhân vật lịch sử được nhà văn đưa vào tác phẩm Dưới cái nhìn đa chiều, đadiện của tác giả, họ hiện lên sống động, chân thực với đầy đủ những mảnh tốisáng trong con người

Giàn thiêu lấy khung cảnh giai đoạn lịch sử dưới chiều vua Lý Nhân Tông

và Lý Trần Tông (kéo dài từ năm 1088 đến năm 1138 ) Trong tác phẩm, nhiều

nhân vật nổi tiếng của lịch sử xuất hiện Tuy nhiên, Giàn thiêu chỉ xoay quanh

một số nhân vật như từ Đạo Hạnh, Thần Tông, Nguyên phi Ỷ Lan…

Hồ Quý Ly chọn khoảng thời gian biến động của cả một triều đại nhà

Trần, phản ánh tình trạng suy thoái và tính chất lỗi thời của cấu trúc nhà nướcđương thời Nhân vật trung tâm là Hồ Quý Ly - một nhân vật lịch sử có thật.Tất cả những nhân vật lịch sử có thật được tác giả giữ lại những nétchính đã lưu trong sử sách và hư cấu ở phương diện khác nhằm làm sáng tỏnhững quan điểm của mình

2.1.1.1 Nhân vật Nguyên phi Ỷ Lan

Đây là một nhân vật lịch sử có thật, vợ vua Thánh Tông, thân sinh hoàng

đế Nhân Tông Người đời ca ngợi công đức của Ỷ Lan, coi bà như một nữ

thánh, có công lớn với Đại Việt Trong Giàn thiêu Võ Thị Hảo đã dám “lộn

Trang 35

trái” nhân vật này để tìm cho ra “sự sống đích thực của Bản Ngã” trongỶ Lannói riêng và các nhân vật lịch sử nói chung.

Xây dựng nhân vật Nguyên phi Ỷ Lan, Võ Thị Hảo đã dựa vào sự thậtlịch sử trong chính sử để hư cấu nhân vật Đại Việt sử kí toàn thư chép: “QuýSửu – 1073 – Giam Hoàng thái hậu họ Dương, tôn Hoàng Thái phi làm LinhNhân Hoàng Thái hậu Linh Nhân có tính ghen, cho rằng mình là mẹ đẻ màkhông được dự chính sự mới kêu với vua rằng: “mẹ già khó nhọc mới có ngàynay, mà bây giờ phú quý người khác được hưởng thế thì để mẹ già vào đâu?”.Vua bèn sai giam Dương Thái hậu và bảy mươi sáu thị nữ vào cung ThượngDương, rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông” (trang 277)

Từ sự kiện lịch sử này tác giả đã xây dựng nhân vật Ỷ Lan của lịch sửtrở thành một nhân vật tiểu thuyết sinh động, toàn diện và người hơn

Ỷ Lan Nguyên phi vốn là một cô gái hái dâu, lọt vào mắt vua Lý ThánhTông và được đưa về làm phi Bà xinh đẹp, thông minh sắc sảo, trong thời gianvua đi đánh giặc đã nắm quyền nhiếp chính lập được nhiều công lao Người đời

ngưỡng mộ bà, ca tụng công lao của bà Trong Giàn thiêu, Võ Thị Hảo đã dám mạnh bạo đi sâu vào sự thật ít ai biết đến về Nguyên phi Ỷ Lan Giàn thiêu

không phủ nhận công lao của Ỷ Lan nhưng nhìn nhận Ỷ Lan với tư cách là conngười chứ không phải là một Nguyên phi đầy quyền uy Từ trước tới nay,

Nguyên phi Ỷ Lan chủ yếu được nhìn nhận từ phần sáng Chỉ đến Giàn thiêu,

Võ Thị Hảo mới vén lên bức màn bí mật che đậy phần tối trong con người bà.Thì ra Ỷ Lan cũng là người ham mê quyền lực: bức tử Hoàng Thái hậu họDương và bảy mươi sáu cung nữ chôn theo lăng Thánh Tông Hành động nàythật độc ác khiến hậu thế không khỏi rùng mình, băn khoăn về con người này

Từ một cô gái hái dâu đất Kinh Bắc, được đưa vào cung làm Nguyên phi,dần dần Ỷ Lan đã bị cuốn vào vòng xoáy quyền lực Thánh Tông băng hà, contrai bà là Thái tử Càn Đức nối ngôi tức Nhân Tông hoàng đế, Ỷ Lan được

Trang 36

phong làm Hoàng Thái phi, ngôi cao chót vót Ấy vậy mà lòng tham vẫn chưathoả Vì ghen tị với Dương Thái hậu, Ỷ Lan độc ác giết hại mấy chục mạngngười là những phụ nữ xinh đẹp Đây là hành động độc ác, tàn nhẫn đáng bị lên

án, là một vết nhơ trong con người Ỷ Lan Hậu thế không quên công lao của bàvới đất nước Đại Việt nhưng cũng cần phải có cái nhìn công bằng đối với ỶLan qua hành động bức tử Dương Thái hậu cùng bảy mươi sáu cung nữ vô tội

Đó là tội ác không gì xoá nổi

Với Ỷ Lan, quyền lực không bao giờ là đủ, tham vọng của bà là: “Tamuốn duy ngã độc tôn trong thiên hạ Ta đã khiến đức Thánh Tông phải mêđắm, nể trọng, nhất nhất theo lời Ta luôn muốn sai khiến được người duy nhấtnắm giữ thiên hạ trong tay Ta phải sai khiến được con trai ta Không gì thíchthú bằng khi thấy chỉ với ngón tay út của bàn tay ta, cả giang san rùng rùngchuyển động Ta phải buông rèm để nghe chính sự Ta đã làm được rất nhiềucho đất nước này Ta là người đàn bà duy nhất mà sử sách phải lưu truyền mãimãi …”(12.234) Qua những đoạn đối thoại này, Ỷ Lan hiện ra là một ngườiphụ nữ đam mê quyền lực, bất chấp thủ đoạn để đạt được tham vọng Với hànhđộng độc ác, tàn nhẫn giết mấy chục mạng người, xuống đến âm phủ, Ỷ Lan đãphải đối mặt với những người bi hại đó Sau khi giết chết họ, Ỷ Lan che đậy tộilỗi bằng cách loan tin là họ quá thương tiếc Đức Hoàng đế mà tự nguyện chếttheo để xuống suối vàng hầu hạ người Hành động độc ác đó được Ỷ Lan biệnminh: “Thời nào cũng vậy thôi, mạng người quá rẻ trong tay các bậc đế vương,nhưng vẫn phải phủ lên những cái chết đó hoặc là một sự ô nhục, hoặc phảntrắc hoặc nghĩa cử huy hoàng Điều này các bậc đế vương thường xuyên làm

mà, Hoàng hậu họ Dương!”(12.236) Những lời lẽ không chút lương tâm nàocủa Ỷ Lan khiến người đọc rùng mình ớn lạnh Ỷ Lan nguỵ biện cho hànhđộng của mình hay đã khái quát lên một nét tính cách của những người ở trênngôi cao? Đối với họ, mạng người chỉ như cỏ rác? Số phận con người trong

Trang 37

thời kỳ phong kiến chỉ như con sâu, cái kiến, bất cứ lúc nào cũng có thể bịnhững kẻ tham vọng như Ỷ Lan “tuỳ tiện dí nát dưới gót hài trên đường đeođuổi mộng Đế vương” Đúng như lời kết tội của Dương Thái Hậu - một nạnnhân của Ỷ Lan: “… Tai các ngươi đã điếc trước tiếng khóc than rên xiết củanhững phận người yếu ớt đã bị dẫm đạp dưới bước chân voi ngựa …”.

Tuy nhiên, Ỷ Lan cũng không bao giờ có được sự thanh thản trong lươngtâm: “Đêm đêm Linh Nhân Thái hậu không ngủ yên Ruột gan như có ai bào.Canh ba là Thái hậu bật dậy, cuống cuồng đi lại, có lúc chạy điên loạn như cóngười đuổi bắt, rồi quấn hàng chục lớp chăn gấm ôm chân ngồi co ro trêngiường mà khóc kể, gào thét”(12.130) Chính Ỷ Lan cũng thừa nhận: “Tiếcthay suốt đời ta cũng không đánh lừa được lương tâm mình” Bà sám hối bằngcách cho xây dựng hàng trăm chùa chiền khắp nơi trên đất nước Nhưng chínhhành động hối lỗi này lại đổ thêm gánh nặng lên trăm họ Do phải dồn tiền của,sức lực vào việc xây dựng chùa chiền, nhân dân lâm vào cảnh đói rét, lầm thannhưng Thái hậu nào có lòng đoái thương

Là người đàn bà trí tuệ, mẫn tiệp nên Ỷ Lan rất giỏi che mắt thiên hạ bằngnhững thủ đoạn tinh vi Thế nhưng, Ỷ Lan chỉ che được mắt thiên hạ chứkhông che dấu nổi lương tâm mình Đêm đêm bà phải đối mặt với những oanhồn đòi mạng Lương tâm bị ám ảnh, dày vò đến nỗi lúc chết, Ỷ Lan không thểnhắm được mắt, chết trong sự ám ảnh, dày vò, hoảng loạn Tuy chết nhưng ỶLan còn kịp trăn trối lại yêu cầu chôn sống theo ba thị nữ để hầu hạ mình dưới

âm phủ Cho đến phút cuối đời, Ỷ Lan vẫn còn gây thêm tội ác Hậu thế vốn rấtcông bằng, công ra công, tội ra tội Công lao của bà đối với đất nước là khôngthể phủ nhận nhưng cũng không thể vì những công lao đó mà che đậy tội áccủa bà

Cuộc đối thoại trong lãnh cung tăm tối giữa oan hồn Dương Thái hậucùng các thị nữ và hồn ma Nguyên phi Ỷ Lan là cảnh tượng hãi hùng, ám ảnh

Trang 38

Những người gây ra tội ác sẽ phải chịu sự cắn rứt của lương tâm suốt đời vàkhi chết sẽ phải đối diện với chính mình và phải trả giá cho những tội ác màmình đã gây ra Nhà văn Võ Thị Hảo đã mang đến cho độc giả cái nhìn toàndiện hơn về các nhân vật lịch sử Họ đã đi vào tác phẩm của bà với tư cách làcác nhân vật tiểu thuyết chứ không phải là những thần tượng của cộng đồngdân tộc Những nhân vật lịch sử như Đạo Hạnh hay Nguyên phi Ỷ Lan đượcnhìn nhận, đánh giá lại khách quan hơn, sâu sắc và chân thực hơn Họ khôngphải là những người thập toàn thập mỹ như người đời vẫn tưởng mà cũng chỉ lànhững con người đầy tham vọng bị vòng xoáy quyền lực hút vào và chi phối.Trong họ tồn tại cả thiên thần và ác quỷ, ánh sáng và bóng tối… Võ Thị Hảo đãgiải thiêng nhân vật, xoá bỏ cách nhìn thiên lệch về con người.

2.1.1.2 Nhân vật Hồ Quý Ly

Hồ Quý Ly là nhân vật trung tâm của tiểu thuyết Hồ Quý Ly của nhà văn

Nguyễn Xuân Khánh Đây cũng là một nhân vật lịch sử có thật, đến nay vẫncòn nhiều tranh cãi về ông Nguyễn Xuân Khánh đã xây dựng thành công nhânvật Hồ Quý Ly với những chi tiết đã được các sử gia ghi chép nhưng đồng thờigia cố thêm về đời sống nội tâm, tình cảm và những suy tư trăn trở Do vậynhân vật không chỉ có âm mưu và hành động như chính sử ghi nhận mà hiện ravới đời sống tình cảm và nội tâm phong phú Tác giả xây dựng nhân vật HồQuý Ly trong sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong tính cách

và tư tưởng

Hồ Quý Ly là nhân vật xuyên suốt tác phẩm Thế giới nội tâm được bộc lộ

rõ nhất thông qua những suy nghĩ, đánh giá, nhìn nhận của Hồ Quý Ly về thếgiới xung quanh và những nhận xét đánh giá của những người xung quanh vềông Những giấc mơ, những suy nghĩ thầm kín trong ông cũng được bộc lộ.Nhân vật này mang đến cho độc giả nhiều cảm nhận, nhiều trạng thái cung bậccảm xúc khác nhau: “Ông quan thái sư đó là người đại chí Đúng là vừa có chí

Trang 39

lớn lại vừa đại chí, cũng là con người lạnh lùng như băng…Ông ta thông minh,

có thể nói sâu sắc đến tinh tế, nhưng đầy tham vọng… Vừa tàn bạo đến cùngcực… nhưng lại vĩ đại vô cùng Vừa đáng căm giận lại vừa đáng thương đángkính…”(23.726,727) Ông là một nhà chính trị, quân sự tài ba, một nhà cảicách với những suy nghĩ cấp tiến, táo bạo Mục đích của ông là hướng đếnmuôn dân trăm họ, xây dựng một đất nước giàu mạnh Tuy nhiên, hành độngcủa ông khiến ông không được lòng mọi người, dẫn đến sự thất bại của cả côngcuộc cải cách

Nguyễn Xuân Khánh đã tái hiện thời kỳ lịch sử cuối triều Trần khi triềuđình và đất nước đang đi vào suy thoái Đây là điều kiện cho Hồ Quý Ly bộc lộkhả năng cách tân, đổi mới của mình

Trước hết ông là một nhà chính trị - quân sự tài ba, giỏi mưu lược, đồngthời biết thương tiếc sương máu, tính mạng cho quân sĩ và muôn dân trăm họ.Điều này thể hiện qua kế sách mà ông hiến cho Trần Phủ (vua Trần NghệTông): “Đánh giặc thượng sách dùng mưu kế, trung sách dùng ngoại giao, hạsách mới đánh thành phá luỹ… sao ta không dùng thượng sách để đỡ xươngmáu cho quân sĩ và trăm họ?”

Về các chính sách kinh tế, giáo dục, văn hoá, xã hội ông có nhiều cảicách: phát hành tiền giấy, lập sổ hộ khẩu, thực thi chính sách hạn điền, hạn nô

để phân chia lại ruộng đất cho người lao động Ông mở thêm trường học vàđịnh ra quy chế thi cử mới, biên tập sách bằng chữ Nôm để dạy cho con mình

và cho các con quan lại Viết 14 thiên Minh Đạo kiến giải về Khổng Tử vàsách “Luận ngữ”, bàn về sự thay đổi và về con đường sáng

Hồ Quý Ly đã tiến hành cải cách trên tất cả các mặt của đời sống Tuynhiên, kết quả không được như ông mong đợi do cải cách quá táo bạo, quyếtliệt khi điều kiện kinh tế - xã hội không cho phép nên không được sự ủng hộcủa quần chúng nhân dân, mặc dù đó là những cải cách khoa học, tiến bộ

Trang 40

Chính vì quá nôn nóng và muốn có những thay đổi mau lẹ nên ông đã sử dụngnhững biện pháp quá mạnh tay, có phần tàn bạo nên mất lòng dân Thất bại của

Hồ Quý Ly suy cho cùng là thất bại của sự không tương hợp giữa lý tưởng vàthực tế, là mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn Cải cách tiến bộ, táo bạo trongtình hình thực tiễn quá trì trệ, lạc hậu cho nên nó không hợp thời

Lâu nay chúng ta vẫn có cái nhìn theo những gì chính sử đã ghi chép HồQuý Ly bị nhìn nhận như một kẻ đầy tham vọng, chỉ củng cố quyền lực cơ hộicướp ngôi, đó là một kẻ thoán nghịch Từ ý muốn “làm biến pháp giúp Nghệhoàng cứu đất nước thoát khỏi nghèo khổ yếu hèn” dần dần tham vọng trongông bắt đầu nảy sinh vì “muốn biến pháp cần phải có quyền hành” Nếu không

có quyền hành quyết định thì không ai làm theo Ông bắt đầu thu thập phe pháitay chân để củng cố quyền lực, tiêu diệt phe bảo thủ ủng hộ nhà Trần… Muốnlàm được điều này thì ông không thể không ác, không thể không mạnh tay,không thể không tiêu diệt những kẻ cản đường Nhà Trần khi cướp ngôi nhà Lýmáu đã phải chảy thành sông đó sao? Vua Thuận Tông cũng đã phải thốt lên aioán: “Hỡi ôi! Kẻ làm quan, làm vua có thể không ác nhưng phải làm ác” HồQuý Ly có thể không phải bản chất ác độc nhưng ông phải làm ác để đạt đượcmục đích gây dựng lại sự cường thịnh cho đất nước Trên con đường làm biếnpháp, ở thời nào cũng vậy, đổ máu là không thể tránh khỏi, chỉ là ít hay nhiều Sau hàng loạt những hành động tiêu diệt phe phù Trần, chống đối lạinhững chính sách của mình, Hồ Quý Ly, dưới con mắt của những người ủng hộnhà Trần, là “một kẻ tàn tặc, đa sát, nhiễu sự Lên ngôi hắn sẽ là một bạo chúa,một Tần Thuỷ Hoàng của nước Việt” Họ đã làm mọi việc cốt lật đổ được HồQuý Ly, kể cả cầu viện kẻ thù là nhà Minh Họ là những người thủ cựu, khôngnhìn thấy những điều ích lợi cho dân, cho nước Suy cho cùng, tham vọngchính trị thoán ngôi nhà Trần để làm biến pháp của Hồ Quý Ly cũng xuất phát

từ mong muốn thay da đổi thịt cho đất nước, đem lại sự cường thịnh cho non

Ngày đăng: 17/12/2013, 22:19

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Tạ Duy Anh (2010), Giã biệt bóng tối, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giã biệt bóng tối
Tác giả: Tạ Duy Anh
Nhà XB: Nxb Hội nhà văn
Năm: 2010
2. M.Bakhtin (1992), Lý luận và thư pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch và giới thiệu), Trường Viết Văn, Nguyễn Du, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận và thư pháp tiểu thuyết
Tác giả: M.Bakhtin
Năm: 1992
3. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 (khảo sát đến những nét lớn), Luận án PTS Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975
Tác giả: Nguyễn Thị Bình
Năm: 1996
4. Nguyễn Minh Châu (1987), Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa, Báo Văn nghệ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa", Báo
Tác giả: Nguyễn Minh Châu
Năm: 1987
5. Châu Diên (2003), Người sông Mê, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Người sông Mê
Tác giả: Châu Diên
Nhà XB: Nxb Hội nhà văn
Năm: 2003
6. Đặng Anh Đào (1994), Tính chất hiện đại của tiểu thuyết, Tạp chí Văn học (4) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tính chất hiện đại của tiểu thuyết", Tạp chí "Văn học
Tác giả: Đặng Anh Đào
Năm: 1994
7. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
Tác giả: Phan Cự Đệ
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2003
8. Nguyễn Đăng Điệp (2004), Kỹ thuật dòng ý thức trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, trong Tự sự học, Nxb Đại học sư phạm Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kỹ thuật dòng ý thức trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh
Tác giả: Nguyễn Đăng Điệp
Nhà XB: Nxb Đại học sư phạm
Năm: 2004
9. Hà Minh Đức (chủ biên), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận văn học
Nhà XB: Nxb Giáo dục
10.Hà Minh Đức(2002), Thành tựu của văn học Việt Nam thời kì đổi mới, Tạp chí Văn học (7) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thành tựu của văn học Việt Nam thời kì đổi mới", Tạp chí "Văn học
Tác giả: Hà Minh Đức
Năm: 2002
11.Alain Robbe Grillet (1997). Vì một nền tiểu thuyết mới (Lê Phong Tuyết dịch và giới thiệu), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vì một nền tiểu thuyết mới
Tác giả: Alain Robbe Grillet
Nhà XB: Nxb Hội nhà văn
Năm: 1997
12.Kristjana Gunnars (2005), Về những tiểu thuyết ngắn, http://vnexpress.net 13.Nguyễn Hương Giang (2001), Người lính sau hòa bình trong tiểu thuyếtthời kì đổi mới, văn học (7) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về những tiểu thuyết ngắn", http://vnexpress.net13.Nguyễn Hương Giang (2001), "Người lính sau hòa bình trong tiểu thuyết "thời kì đổi mới
Tác giả: Kristjana Gunnars (2005), Về những tiểu thuyết ngắn, http://vnexpress.net 13.Nguyễn Hương Giang
Năm: 2001
14.Nguyễn Thị Hải Hà - Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, Nxb Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay
Tác giả: Nguyễn Thị Hải Hà - Nguyễn Thị Bình
Nhà XB: Nxb Hà Nội
Năm: 1995
15.Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên, 2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển thuật ngữ văn học
Nhà XB: Nxb Giáo dục
16.Võ Thị Hảo (2007), Giàn thiêu, Nxb Phụ nữ, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giàn thiêu
Tác giả: Võ Thị Hảo
Nhà XB: Nxb Phụ nữ
Năm: 2007
17.Hoàng Ngọc Hiến (2003), Văn học gần và xa, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học gần và xa
Tác giả: Hoàng Ngọc Hiến
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2003
18.Đỗ Đức Hiểu (2000), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vinh Cư) dịch và giới thiệu), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lí luận và thi pháp tiểu thuyết
Tác giả: Đỗ Đức Hiểu
Năm: 2000
19.Hoàng Thị Thuý Hoà (2007), Đặc điểm tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Xuân Khánh, Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Vinh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đặc điểm tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Xuân Khánh
Tác giả: Hoàng Thị Thuý Hoà
Năm: 2007
20.Tô Hoài (2007), Ba người khác, Nxb Đà Nẵng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ba người khác
Tác giả: Tô Hoài
Nhà XB: Nxb Đà Nẵng
Năm: 2007
22.Mai Hương (2006), Đổi mới tư duy văn hoá và đóng góp của một số cây bút văn xuôi, Tạp chí Nghiên cứu văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đổi mới tư duy văn hoá và đóng góp của một số cây bút văn xuôi", Tạp chí
Tác giả: Mai Hương
Năm: 2006

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w