1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Đánh giá các yếu tố tác động đến sự phát triển liên minh châu âu từ đầu thế kỷ 21 đến nay

100 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đánh Giá Các Yếu Tố Tác Động Đến Sự Phát Triển Liên Minh Châu Âu Từ Đầu Thế Kỷ 21 Đến Nay
Tác giả Bùi Thế Đức
Người hướng dẫn PGS.TS. Phạm Quang Minh
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2013
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 100
Dung lượng 1,77 MB

Cấu trúc

  • MỤC LỤC

  • Danh mục các từ viết tắt

  • LỜI MỞ ĐẦU

  • CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LIÊN MINH CHÂU ÂU TỪ ĐẦU THẾ KỶ 21 ĐẾN NAY

  • 1.1. Liên minh Châu Âu – mô hình điển hình của khu vực hoá

  • 1.1.1. Khái niệm về khu vực hoá

  • 1.1.2. Châu Âu – điển hình của khu vực hoá

  • 1.2. Quá trình phát triển liên minh Châu Âu từ đầu thế kỷ 21

  • 1.2.1. Các hiệp ước xây dựng liên minh Châu Âu

  • 1.2.2. Những lần mở rộng hướng đến một Châu Âu không biên giới

  • CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA CÁC YẾU TỐ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA EU TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI

  • 2.1. Các yếu tố chính trị

  • 2.1.1. Các yếu tố ngoại sinh

  • 2.1.2. Các yếu tố nội sinh

  • 2.2. Các yếu tố kinh tế

  • 2.2.1. Tác động tích cực do yếu tố kinh tế mang lại cho sự phát triển của EU

  • 2.2.2. Những tác động tiêu cực của kinh tế

  • 2.3. Các yếu tố văn hóa

  • 2.3.1. Văn hóa với tư cách là nền tảng

  • 2.3.2. Văn hóa với tư cách là động lực phát triển

  • CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU ĐẾN NĂM 2020.

  • 3.1. Những thách thức đối với Liên minh Châu Âu trong giai đoạn mới

  • 3.1.1. Những thách thức bên trong

  • 3.1.2. Những thách thức bên ngoài

  • 3.2. Những mục tiêu phát triển của Liên minh Châu Âu đến năm 2020

  • 3.2.1. Thúc đẩy thị trường thống nhất mạnh hơn, mở rộng hơn để phát triển

  • 3.2.2. Đầu tư cho phát triển bền vững

  • 3.2.3. Tích cực khai thác công cụ chính sách đối ngoại

  • 3.2.4. Các giải pháp thực hiện mục tiêu phát triển của Liên minh Châu Âu đến năm 2020

  • KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHỤ LỤC

Nội dung

KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LIÊN MINH CHÂU ÂU TỪ ĐẦU THẾ KỶ 21 ĐẾN NAY

Liên minh Châu Âu – mô hình điển hình của khu vực hoá

1.1.1 Khái niệm về khu vực hoá

Trong hơn một thập kỷ qua, xu thế toàn cầu hóa đã gia tăng mạnh mẽ, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều lý giải và thái độ khác nhau về các xu thế phát triển này Khái niệm khu vực hóa đã hình thành khi xu thế toàn cầu hóa được mở rộng tại các quốc gia và khu vực Để hiểu rõ khu vực hóa, trước tiên cần tìm hiểu về khái niệm toàn cầu hóa.

Toàn cầu hóa không chỉ là một hiện tượng mới mà còn được hiểu như chính sách của Mỹ nhằm mở rộng quyền lực và thống trị thế giới theo kiểu Mỹ, thực chất là quá trình Mỹ hóa Quan niệm này dẫn đến thái độ phản đối toàn cầu hóa, nhằm bảo vệ sự phát triển độc lập và đa dạng của các quốc gia.

Quan điểm thứ hai thừa nhận tính tất yếu khách quan của quốc tế hóa và toàn cầu hóa, nhưng trong đó cũng tồn tại nhiều ý kiến khác nhau Một số người cho rằng toàn cầu hóa là quá trình gia tăng mạnh mẽ các mối liên hệ, sự ảnh hưởng và tác động lẫn nhau giữa các khu vực, quốc gia và dân tộc trên toàn cầu Ngược lại, một số ý kiến khác lại có cái nhìn khác về bản chất của toàn cầu hóa.

Toàn cầu hoá đại diện cho giai đoạn phát triển cao nhất của lực lượng sản xuất toàn cầu, phản ánh sự phát triển tất yếu của kinh tế thị trường và tiến bộ trong khoa học công nghệ.

Toàn cầu hoá là quá trình phản ánh sự gia tăng các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, đồng thời thể hiện qui mô của các hoạt động liên quốc gia Điều này cho thấy rằng toàn cầu hoá không chỉ đơn thuần là một xu hướng, mà còn là sự gia tăng mạnh mẽ của các mối quan hệ và tương tác toàn cầu.

Thế giới hoá, hay còn gọi là toàn cầu hoá, là quá trình mở rộng qui mô và cường độ hoạt động giữa các khu vực, quốc gia và dân tộc trên toàn cầu, thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau Quốc tế hoá và toàn cầu hoá không chỉ là khái niệm mà còn là những quá trình thực tiễn, trong đó việc tham gia vào những quá trình này đồng nghĩa với việc thực hiện hội nhập quốc tế.

Toàn cầu hoá là một xu hướng đa diện, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội Trong số đó, toàn cầu hoá kinh tế nổi bật nhất, đóng vai trò trung tâm và là động lực cho các lĩnh vực khác Có nhiều quan điểm khác nhau về toàn cầu hoá kinh tế, nhưng khái niệm phổ biến nhất vẫn được thảo luận rộng rãi.

Toàn cầu hoá kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt biên giới, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế Xu hướng này thể hiện qua sự mở rộng quy mô và mức độ thương mại toàn cầu, cùng với sự lưu chuyển của vốn và lao động trên toàn thế giới.

Xu thế khu vực hóa, bên cạnh toàn cầu hóa, không chỉ là sự phản ứng mà còn là biểu hiện của sự chuẩn bị tiến tới hoàn cầu hóa Đồng thời, khu vực hóa phản ánh thực trạng co cụm nhằm bảo vệ lợi ích chung của một số quốc gia trước những nguy cơ và tác động tiêu cực do toàn cầu hóa mang lại.

Khu vực hóa thể hiện sự khác biệt và mâu thuẫn về lợi ích giữa các quốc gia trong một thế giới đa dạng Mặc dù hợp tác quốc tế đang gia tăng, nhưng cuộc đấu tranh vì lợi ích quốc gia, dân tộc và khu vực vẫn diễn ra rất quyết liệt.

Khu vực hóa có nhiều cấp độ khác nhau, từ việc chỉ có một vài quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia, đến việc nhiều quốc gia hợp tác trong một tổ chức để hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình phát triển.

11 triển, tận dụng những ưu thế của khu vực trong quá trình tham gia nền kinh tế toàn cầu

Khu vực hóa là quá trình liên kết giữa các quốc gia hoặc tổ chức trong cùng một khu vực địa lý, nhằm giải quyết các vấn đề nội bộ và nâng cao sức cạnh tranh quốc tế cho toàn bộ khu vực.

Khu vực hóa là quá trình diễn ra theo hai hướng trái ngược: hướng ngoại (toàn cầu hóa) từ góc độ các quốc gia và hướng nội (bản địa hóa) khi xem xét cạnh tranh toàn cầu Trong những thập niên gần đây, xu hướng khu vực hóa ngày càng gia tăng trên toàn cầu, dẫn đến sự hình thành khái niệm chủ nghĩa khu vực, trở thành một yếu tố quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa.

1.1.2 Châu Âu – điển hình của khu vực hoá

Hiện nay, trên thế giới có nhiều tổ chức và liên minh như ASEAN, OPEC, WTO, EU, được thành lập bởi các quốc gia với mục đích bảo vệ quyền lợi của các thành viên và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội Những liên minh này có quy định khác nhau tùy thuộc vào mục đích hợp tác giữa các quốc gia, nhằm tạo ra một môi trường vững chắc cho sự phát triển chung.

Liên minh châu Âu (EU) là một liên minh kinh tế chính trị gồm 27 quốc gia thành viên tại Châu Âu, được thành lập theo Hiệp ước Maastricht vào ngày 1 tháng 11 năm 1993 Với dân số khoảng 492,9 triệu người (2006), EU chiếm 30% GDP danh nghĩa toàn cầu, tương đương 18,4 nghìn tỉ đô la Mỹ năm 2008, và khoảng 22% GDP sức mua tương đương của thế giới, đạt 15,2 nghìn tỉ đô la Mỹ cùng năm.

Quá trình phát triển liên minh Châu Âu từ đầu thế kỷ 21

Để hiểu rõ quá trình phát triển của Liên minh Châu Âu từ đầu thế kỷ 21 đến nay, trước tiên chúng ta cần xem xét lịch sử hình thành và phát triển của Liên minh này từ khi mới thành lập cho đến hiện tại.

Mốc lịch sử quan trọng trong việc hình thành Liên minh châu Âu (EU) là bản tuyên bố Schuman của Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert Schuman vào ngày 9/5/1950, đề xuất đặt toàn bộ nền sản xuất gang thép của Đức và Pháp dưới một cơ quan quyền lực chung Đề xuất này đã dẫn đến việc ký kết hiệp ước thành lập Cộng đồng Than Thép châu Âu (ECSC), tổ chức tiền thân của EU ngày nay Kể từ đó, sự liên kết giữa các quốc gia châu Âu đã không ngừng mở rộng và phát triển, với đỉnh cao là sự hình thành Liên minh châu Âu, hứa hẹn sẽ đạt được mức độ liên kết cao hơn trong tương lai.

Liên minh châu Âu ban đầu chỉ có 6 quốc gia thành viên, bao gồm Bỉ, Đức, Ý, Luxembourg, Pháp và Hà Lan Số lượng thành viên đã tăng lên 9 vào năm 1973, 10 vào năm 1981, 12 vào năm 1986 và đạt 15 vào năm 1995.

Từ năm 1995, Liên minh Châu Âu duy trì ổn định với 15 thành viên Năm 2004, một bước ngoặt quan trọng diễn ra khi Liên minh kết nạp thêm 10 thành viên, nâng tổng số lên 25 Đến năm 2007, số thành viên tiếp tục tăng lên 27.

Sau đây là danh sách 27 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu xếp theo năm gia nhập

 1951: Bỉ, Đức, Ý, Luxembourg, Pháp, Hà Lan

 1986: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha

 1995: Áo, Phần Lan, Thụy Điển

 Ngày 1/5/2004: Séc, Hungary, Ba Lan, Slovakia, Slovenia, Litva, Latvia, Estonia, Malta, Cộng hòa Síp

Liên minh châu Âu hiện có diện tích 4.422.773 km² và dân số khoảng 492,9 triệu người (năm 2006), với tổng GDP gần 15,2 nghìn tỉ USD vào năm 2008 Hầu hết các quốc gia châu Âu đều là thành viên của Liên minh này.

Từ đầu thế kỷ 21, EU đã có những tiến bộ vượt bậc, khẳng định vị thế mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2000 cao hơn 1,1% so với năm 1999 và đạt trung bình 3% trong giai đoạn 2001-2002 Khoảng cách phát triển giữa các quốc gia trong EU ngày càng thu hẹp, với các nước Bắc Âu phát triển mạnh mẽ nhất, trong khi Đức đã bắt kịp tốc độ tăng trưởng chung Italia, mặc dù có khả năng cạnh tranh yếu, vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 2,6% vào năm 2005 Kinh tế EU tiếp tục phát triển khả quan, với các chuyên gia IMF và OECD lạc quan về tương lai, nhờ vào việc Ngân hàng Trung ương Châu Âu duy trì kiểm soát lãi suất ổn định ở mức 4,5% Theo OECD, tốc độ tăng trưởng của EU ổn định ở mức 2,6% trong năm 2007 và tỷ lệ thất nghiệp dự kiến giảm từ 8,8% vào năm 2008 Các nhà kinh tế dự đoán EU sẽ tiếp tục tăng trưởng chậm nhưng chắc, với triển vọng tích cực cho năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.

1.2.1 Các hiệp ước xây dựng liên minh Châu Âu

Trong hơn 50 năm hình thành và phát triển, Liên minh châu Âu đã trải qua nhiều giai đoạn quan trọng, gắn liền với các hiệp ước chủ yếu từ năm 1952 đến nay Những hiệp ước này đã đóng vai trò quan trọng trong việc định hình cấu trúc và chức năng của EU, tạo nền tảng cho sự hợp tác và phát triển kinh tế, chính trị giữa các quốc gia thành viên.

Hiệp ước Paris, được ký vào ngày 18/4/1951, đã thành lập Cộng đồng Than-Thép châu Âu (ECSC) với sự tham gia của 6 quốc gia: Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg Mục tiêu của hiệp ước là thống nhất sản xuất và phân phối than và thép trên toàn châu Âu Hiệp ước có hiệu lực từ ngày 23/7/1952 và kéo dài đến ngày 23/7/2002, đánh dấu 50 năm hoạt động Đây được xem là nền tảng quan trọng trong việc thúc đẩy hòa bình và hợp tác giữa các quốc gia châu Âu sau Thế chiến thứ hai, khi những kẻ thù cũ giờ đây cùng chia sẻ nguồn tài nguyên then chốt, từng là nguyên nhân chính dẫn đến xung đột.

Hiệp ước Roma, được ký vào ngày 25/3/1957, đã thành lập Cộng đồng Năng lượng Nguyên tử Châu Âu (EURATOM) và Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC) với sự đồng thuận của 6 nước thành viên ECSC Mục tiêu của EURATOM là thống nhất quản lý ngành năng lượng nguyên tử, trong khi EEC nhằm tăng cường liên kết kinh tế và tạo ra một thị trường chung cho phép tự do di chuyển lao động và hàng hóa Hiệp ước này không chỉ là thành quả của những tiến bộ kinh tế và chính trị mà ECSC đạt được, mà còn đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc hình thành một liên minh kinh tế thực sự tại Châu Âu.

Hiệp ước thành lập cộng đồng châu Âu (EC) được ký vào ngày 8/4/1965, đánh dấu sự ra đời của một thị trường thống nhất giữa các quốc gia châu Âu Văn bản này thể hiện sự hợp tác sâu rộng trong lĩnh vực kinh tế, cho phép tự do di chuyển hàng hóa, lao động và vốn đầu tư, đồng thời gỡ bỏ hàng rào thuế quan Ngoài ra, hiệp ước còn thiết lập hệ thống thuế quan và chính sách thương mại chung, cùng với việc thống nhất một số chính sách kinh tế khác, nhằm tăng cường sức cạnh tranh với các khối kinh tế bên ngoài và hướng tới một liên minh chính trị chặt chẽ.

Hiệp ước Maastricht, ký vào ngày 7/2/1992 tại Maastricht, Hà Lan, đã chính thức thành lập Liên minh châu Âu với sự đồng thuận của các nguyên thủ quốc gia của 12 nước thành viên lúc bấy giờ, bao gồm Pháp, Đức, Bỉ, và Italy.

Hà Lan, Luxembourg, Anh, Đan Mạch, Ailen, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã cùng nhau thành lập một “không gian châu Âu” thống nhất về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng và các chính sách xã hội EU đã mở rộng nội dung liên kết mới, bao gồm an ninh, chính trị và đối ngoại, nhằm đạt được các mục tiêu toàn diện như duy trì hòa bình và thịnh vượng, thiết lập nền tảng phát triển và tiến tới hợp nhất kinh tế vì lợi ích chung của các dân tộc châu Âu Qua việc tạo ra một khu vực kinh tế rộng lớn và thị trường tự do, EU tạo điều kiện cho sự thống nhất chính trị và hài hòa xã hội trong liên minh Với những mục tiêu này, EU đã bước vào một thời kỳ mới, tồn tại như một thực thể thống nhất, đóng vai trò như một “Đại quốc gia” ở châu Âu, hay còn được gọi là “Ngôi nhà chung châu Âu”.

Hiệp ước này đánh dấu một bước ngoặt trong tiến trình nhất thể hóa Châu Âu Cụ thể:

- Tất cả các công dân của các nước thành viên được quyền tự do đi lại và cư trú trong lãnh thổ của các nước thành viên

- Được quyền bầu cử và ứng cử chính quyền địa phương và Nghị viện châu Âu tại bất kỳ nước thành viên nào mà họ đang cư trú

Chính sách đối ngoại và an ninh chung cần được thực hiện thông qua hợp tác liên chính phủ, đảm bảo nguyên tắc nhất trí nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực này.

- Tăng cường quyền hạn của Nghị viện châu Âu

- Mở rộng quyền của Cộng đồng trong một số lĩnh vực như môi trường, xã hội, nghiên cứu

- Phối hợp các hoạt động tư pháp, thực hiện chính sách chung về nhập cư, quyền cư trú và thị thực

 Liên minh kinh tế - tiền tệ:

Liên minh kinh tế - tiền tệ trải qua ba giai đoạn quan trọng, bắt đầu từ ngày 1 tháng 7 năm 1990 và kết thúc vào ngày 1 tháng 1 năm 1999 Giai đoạn cuối cùng đánh dấu sự giải thể của Viện tiền tệ châu Âu và sự thành lập Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB).

Để tham gia vào liên minh kinh tế - tiền tệ, các quốc gia cần đáp ứng một số tiêu chí hội nhập quan trọng Cụ thể, lạm phát phải thấp, không vượt quá 1,5% so với mức trung bình của ba nước có lạm phát thấp nhất Thâm hụt ngân sách không được vượt quá 3% GDP, trong khi nợ nhà nước phải dưới 60% GDP Ngoài ra, biên độ giao động tỷ giá giữa các đồng tiền cần ổn định trong hai năm theo cơ chế chuyển đổi (ERM), và lãi suất, tính theo lãi suất công trái có thời hạn từ 10 năm trở lên, không được cao hơn 2% so với mức trung bình của ba nước có lãi suất thấp nhất.

PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA CÁC YẾU TỐ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA EU TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI

Các yếu tố chính trị

2.1.1 Các yếu tố ngoại sinh

Quan hệ với Hoa Kỳ

Mối quan hệ song phương giữa Hoa Kỳ và EU thu hút sự quan tâm toàn cầu do cả hai đều là những trung tâm chính trị và kinh tế quan trọng Quan hệ này không chỉ ảnh hưởng lớn đến tình hình quốc tế hiện nay mà còn đóng vai trò then chốt trong sự phát triển của EU Hoa Kỳ là đồng minh chiến lược lâu dài của EU, vì vậy sự lớn mạnh của khối này phần nào phụ thuộc vào mối quan hệ với Hoa Kỳ Đồng thời, EU cũng nỗ lực phát triển để giảm bớt sự phụ thuộc vào Hoa Kỳ, phản ánh mâu thuẫn cơ bản trong chủ nghĩa tư bản giữa các quốc gia tư bản.

Mặc dù các hội nghị thượng đỉnh giữa hai bên vẫn diễn ra hàng năm từ đầu thế kỷ 21, nhưng sự cạnh tranh trong quan hệ ngày càng gia tăng so với xu hướng hợp tác chiến lược Vì vậy, EU đang nỗ lực không ngừng để phát triển nhằm đối phó với những thách thức này.

Biểu hiện rõ ràng nhất của mối quan hệ này ảnh hưởng đến sự phát triển của EU là nỗ lực thoát khỏi sự phụ thuộc vào an ninh của Mỹ Sau sự kiện 11/9, cả EU và Mỹ đã gặp phải những bất đồng trong cách tiếp cận an ninh và hợp tác quốc tế.

Mối quan hệ song phương với Mỹ đã thúc đẩy sự phát triển của EU trong lĩnh vực an ninh, đặc biệt là khi EU phản ứng trước chủ nghĩa đơn phương của Mỹ, việc rút khỏi Hiệp ước ABM và từ chối phê chuẩn Tòa án Hình sự Quốc tế EU lo ngại rằng những hành động này sẽ làm mất cân bằng trong quan hệ quốc tế và ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của mình Để đối phó với sự cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa Mỹ và EU, EU đã thành lập Lực lượng phản ứng nhanh, dẫn đến sự rạn nứt trong quan hệ với Mỹ trong khuôn khổ NATO.

EU và Mỹ đang có quan điểm đối lập về trật tự thế giới hiện nay; Mỹ muốn duy trì một trật tự thế giới đơn cực với mình là trung tâm, trong khi EU ủng hộ một thế giới đa cực để bảo đảm lợi ích và tính cân bằng trong quan hệ quốc tế EU thường phản đối các quan điểm của Mỹ, đặc biệt là việc duy trì các hiệp định quốc tế, trong khi Mỹ thường có xu hướng hành động đơn phương EU không đồng tình với chiến lược "đánh đòn phủ đầu" của Mỹ, cho rằng đây là cách xâm phạm chủ quyền của các quốc gia khác Cựu Tổng thống Pháp Chirac từng cảnh báo rằng chiến lược này có thể dẫn đến việc hợp thức hóa các cuộc chiến tranh Do đó, EU đang nỗ lực phát triển để trở thành đối trọng với Mỹ, nhằm tự chủ và không còn phụ thuộc vào Hoa Kỳ, qua đó thúc đẩy quá trình mở rộng và nhất thể hóa.

Khía cạnh kinh tế trong quan hệ Mỹ - EU có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của Liên minh này Mỹ là một đối tác thương mại quan trọng, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của EU Tuy nhiên, giữa hai bên không chỉ có sự cạnh tranh mạnh mẽ trong việc giành thị trường mà còn diễn ra xung đột thương mại trực tiếp.

Cuộc chiến tranh chuối giữa Mỹ và EU vào năm 2001 đã làm nổi bật những tranh chấp trong nhập khẩu chuối từ thị trường châu Á - Thái Bình Dương, châu Phi và vùng Caribee Năm 2002, xung đột tiếp tục nảy sinh khi EU phản đối thuế xuất nhập khẩu thép của Hoa Kỳ, nhằm bảo vệ sản xuất trong nước Điều này cho thấy EU đang nỗ lực để trở thành một trung tâm kinh tế cạnh tranh với Hoa Kỳ.

Những phân tích cho thấy rằng mối quan hệ với Hoa Kỳ là yếu tố ngoại sinh quan trọng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của EU trong thập niên đầu thế kỷ XXI.

Kể từ sau khi Liên Xô sụp đổ, vị thế quốc tế của Nga đã giảm sút so với thời kỳ Chiến tranh Lạnh Tuy nhiên, trong thập niên đầu của thế kỷ 21, Nga đã có những chuyển biến tích cực, được ví như sự hồi sinh của “con gấu Bắc cực” Với tiềm lực quân sự mạnh mẽ và nền kinh tế đang phục hồi, Nga đang dần trở thành đối tác quan trọng của nhiều quốc gia và khu vực, bao gồm cả Liên minh châu Âu (EU).

Nga, với vị trí địa lý sát cạnh châu Âu, đóng vai trò quan trọng trong bối cảnh địa chính trị và có ảnh hưởng lớn đến các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu.

Sự tan rã của khối Xô Viết và các nước Đông Âu đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của Liên minh châu Âu (EU), đặc biệt là trong việc mở rộng về phía Đông Do đó, EU cần xem xét mối quan hệ với Nga trong chiến lược phát triển của mình.

Trong quan hệ quốc tế, bên cạnh mối quan hệ với Mỹ, Liên minh Châu Âu (EU) coi Nga là một đối tác quan trọng trong lĩnh vực chính trị và an ninh Hội nghị cấp cao Nga – EU diễn ra tại Moscow vào năm 2002 đã khẳng định tầm quan trọng của quan hệ đối tác chiến lược này, đặc biệt với sự tham gia của hai quốc gia chủ chốt trong EU là Pháp và Đức.

Đức đề xuất thành lập Hội đồng an ninh nội bộ Nga – NATO, nhằm đưa Nga trở thành thành viên chính thức và hợp tác bình đẳng trong NATO, từ đó giảm bớt vai trò của Hoa Kỳ Điều này cho phép EU tăng cường tiềm lực quân sự so với Mỹ Anh, một quốc gia lớn trong EU, cũng đề xuất cơ chế hợp tác 19+1 giữa NATO và Nga, tạo điều kiện cho Nga có vị thế bình đẳng với 19 thành viên khác Nếu Nga trở lại chủ nghĩa khu vực ở châu Âu và gia nhập EU, vị thế và ảnh hưởng của EU trên trường quốc tế sẽ thay đổi đáng kể, góp phần tạo ra sự cân bằng hơn trong quan hệ với Mỹ và các trung tâm quyền lực khác.

Quan hệ giữa Nga và EU không phải lúc nào cũng thuận lợi, mà còn gặp nhiều trở ngại lớn Nga đang theo đuổi một chiến lược độc lập, trong đó việc hợp tác với EU chỉ là một phần trong kế hoạch nhằm khôi phục và mở rộng ảnh hưởng của mình trên toàn châu Âu, đồng thời trở thành một đối trọng với các thế lực khác.

Nga luôn tận dụng lợi thế năng lượng để gây áp lực lên sự phát triển của EU, hiện là đối tác cung cấp dầu mỏ và khí đốt lớn nhất cho Liên minh Năm 2007, Nga đã xuất khẩu 185 triệu tấn dầu thô, chiếm 32,6% tổng kim ngạch nhập khẩu dầu thô của EU, và 100,7 triệu tấn khí tự nhiên, chiếm 38,7% tổng kim ngạch nhập khẩu khí đốt Cuộc tranh chấp giữa Nga và Ukraine về đường ống dẫn gas năm 2009 đã khiến Tổng thống V Putin tuyên bố xem xét lại mối quan hệ với EU.

Các yếu tố kinh tế

2.2.1 Tác động tích cực do yếu tố kinh tế mang lại cho sự phát triển của

Sự thịnh vượng chung được mở rộng

Một trong những tác động tích cực của yếu tố kinh tế đối với sự phát triển của EU là việc tạo ra sự thịnh vượng chung cho toàn bộ Liên minh Khi EU mở rộng, các nước thành viên kém phát triển được hỗ trợ bởi các quốc gia có tiềm lực mạnh hơn, qua đó thúc đẩy sự phát triển chung Giai đoạn 2002 đến 2006 chứng kiến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế của EU, với tốc độ tăng trưởng của 12 nước thành viên mới từ Trung và Đông Âu cao hơn so với 15 nước thành viên cũ Cụ thể, Estonia đạt khoảng 8,4%; Latvia đạt khoảng 9%; và Lithuania đạt khoảng 8% Đến năm 2007, tăng trưởng kinh tế của các nước mới này vẫn duy trì với Estonia đạt khoảng 7,2%; Latvia đạt khoảng 10%; và Lithuania đạt khoảng 9,8%.

Trong khu vực đồng Euro, Ailen dẫn đầu với mức tăng trưởng cao nhất, đạt 5,4% trong giai đoạn 2002-2006 và 6% vào năm 2007 Theo sau là Hy Lạp với mức tăng trưởng 4,1% (2002-2006) và 4,5% (2007), cùng với Tây Ban Nha và Luxembourg Các nền kinh tế lớn của EU như Pháp và Đức cũng duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định từ 1,5% đến 2,5% mỗi năm trong khoảng thời gian từ 2002 đến 2007.

Sự phát triển về thương mại và đầu tư

Sự phát triển của EU đã dẫn đến việc mở rộng và tăng cường tính cạnh tranh trong hoạt động thương mại của liên minh Sự mở rộng về phía đông và tiến triển trong việc thực hiện Hiệp ước Lisbon đã tạo điều kiện cho thị trường EU phát triển nhanh chóng Điều này đã thúc đẩy quan hệ thương mại cả nội khối và bên ngoài, mang lại những cải thiện kinh tế cho toàn bộ khối Đặc biệt, thương mại nội khối đã có những bước tiến rõ rệt nhờ vào chính sách nhất thể hóa khu vực.

Vào đầu thế kỷ XXI, EU với 27 nước thành viên đã trở thành khối kinh tế và thị trường lớn nhất thế giới Năm 2005, xuất khẩu hàng hóa chế tạo của EU chiếm 44,4% tổng giá trị toàn cầu, trong đó 30,7% là giao dịch nội bộ giữa các nước thành viên Đến năm 2006, EU đã vượt qua Hoa Kỳ để trở thành đối tác thương mại lớn nhất thế giới, chiếm 27,1% thương mại toàn cầu, trong khi Hoa Kỳ chỉ chiếm 16% Các đối tác thương mại chính của EU bao gồm Hoa Kỳ, với 29,6% xuất khẩu và 20,6% nhập khẩu, cùng khu vực châu Á, nơi EU xuất khẩu 21,7% và nhập khẩu 45,8%.

Về thương mại dịch vụ, kim ngạch xuất khẩu của EU chiếm 48% so với thế giới và kim ngạch nhập khẩu của Liên mạnh này đạt 45%

Sự mở rộng của EU không chỉ thúc đẩy hoạt động thương mại mà còn nâng cao sức hấp dẫn của khối này đối với các nhà đầu tư quốc tế Theo báo cáo của UNCTAD ngày 15/11/2009, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của EU đã có sự tăng trưởng đáng kể từ năm 2000 đến 2008.

So với các tổ chức như ASEAN, NAFTA và Mercosur, Liên minh Châu Âu (EU) nổi bật trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Năm 2008, FDI của ASEAN chỉ đạt 60 tỷ USD, NAFTA đạt 383 tỷ USD và Mercosur đạt 56 tỷ USD Trong giai đoạn khó khăn từ 2008 đến 2010, EU vẫn duy trì vị trí dẫn đầu trong việc thu hút FDI so với các khu vực khác.

Yếu tố kinh tế đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển tích cực của EU, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng, thương mại và đầu tư Một trong những tác động tích cực này là sự hình thành Liên minh kinh tế và tiền tệ EU, góp phần thúc đẩy sự liên kết và ổn định trong khu vực.

Sự đóng góp của Liên minh kinh tế và tiền tệ EU (EMU)

Trước khi đồng Euro chính thức lưu hành vào năm 1999, Khu vực đồng Euro (EMU) đã trải qua ba giai đoạn quan trọng trong 10 năm Giai đoạn 1 (7/1990 – 12/1993) tập trung vào việc các nước thành viên tăng cường phối hợp chính sách tiền tệ và thu hẹp khoảng cách kinh tế Giai đoạn 2 (1/1994 - 12/1998) đánh dấu sự thành lập Viện tiền tệ châu Âu Giai đoạn 3 bắt đầu từ 1/1999 với đồng Euro lưu hành không bằng tiền mặt, và từ 7/2002, đồng Euro được phát hành dưới dạng tiền giấy và kim loại, thay thế hoàn toàn các đồng tiền bản địa Sự ra đời của đồng Euro đã hoàn thiện thị trường chung châu Âu và mang lại nhiều lợi ích cho sự phát triển của Liên minh châu Âu (EU).

Mức lạm phát của EU hiện ổn định ở 2% mỗi năm, trong khi lãi suất danh nghĩa đã giảm xuống còn 9% mỗi năm.

46 giai đoạn 1999 – 2009 giảm xuống chỉ gần 16 triệu việc làm đã được tạo ra, làm cho tỉ lệ thất nghiệp của khu vực Euro zone thấp đáng kể

Các điều kiện ràng buộc của EMU đã giúp duy trì lạm phát thấp ở các nước trong khu vực Euro Trong giai đoạn 2002 – 2006, lạm phát trung bình ở Euro zone đạt 2,2%, với mức 2,1% vào năm 2007 và tăng lên 3,3% vào năm 2008.

Năm 2009, tỷ lệ lạm phát là 0,3%, đánh dấu sự ra đời của đồng Euro và sự hình thành Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) độc lập, thay thế cho các ngân hàng trung ương thành viên Điều này đã tạo ra một chính sách tiền tệ và tài khóa thống nhất, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo sự phát triển ổn định cho khu vực.

EMU đã củng cố mối liên kết tài chính giữa các nước thành viên, với đồng Euro tạo ra sự kết nối về tiền tệ và giảm chi phí giao dịch Đồng Euro ngày càng khẳng định vị thế là ngoại tệ mạnh thứ hai sau USD, giúp các quốc gia tránh áp lực phá giá đột ngột và hạn chế đầu cơ tiền tệ, từ đó thúc đẩy sự phát triển chung của toàn khối.

Đồng Euro đã gia tăng ảnh hưởng của EU trên trường quốc tế sau 10 năm lưu hành, làm thay đổi căn bản hệ thống tài chính toàn cầu trong các lĩnh vực như thương mại dịch vụ, chứng khoán và dự trữ ngoại hối Điều này cho thấy EU không chỉ tác động đến thị trường hàng hóa hữu hình mà còn ảnh hưởng đến các thị trường tài chính và tiền tệ toàn cầu.

2.2.2 Những tác động tiêu cực của kinh tế

Chi ngân sách tăng cho việc giảm thiểu khoảng cách phát triển

Việc mở rộng EU yêu cầu chi phí lớn để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các quốc gia Chẳng hạn, trong lĩnh vực nông nghiệp, 26% dân số ở các nước thành viên mới làm việc trong ngành này, trong khi ở các nước thành viên cũ chỉ có 4,3% Do đó, EU đã quyết định thành lập quỹ phát triển nông nghiệp lên tới 10 tỷ Euro từ năm 2023.

Từ năm 2004 đến 2006, EU đã nỗ lực thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các khu vực thành viên cũ và mới, cung cấp 29,3 tỷ Euro hỗ trợ cho 10 nước Đông Âu trước khi gia nhập EU Tính tổng cộng từ 5/2004 đến 12/2006, số tiền viện trợ đã lên tới 69,5 tỷ Euro, chiếm 0,85% GDP hàng năm của EU-15 Dự đoán của các nhà phân tích cho thấy, thu nhập bình quân đầu người của EU có thể giảm từ 10 đến 15% do các nước cũ phải hỗ trợ các nước mới kém phát triển hơn Điều này dẫn đến tác động tiêu cực về mặt kinh tế, làm ngân sách của EU không chỉ không gia tăng mà còn phải chi tiêu nhiều hơn cho việc trợ cấp các thành viên mới.

Các yếu tố văn hóa

Liên minh châu Âu thường được biết đến qua các vấn đề chính trị và kinh tế, trong khi khía cạnh văn hóa lại ít được chú ý Điều này dễ hiểu bởi những thành tựu nổi bật của EU trong phát triển kinh tế và liên kết chính trị, mà chưa có tổ chức khu vực nào đạt được Đáng chú ý, khi các quốc gia thành viên (27) đàm phán gia nhập EU, họ không gặp nhiều khó khăn về văn hóa Vậy, văn hóa đóng vai trò gì trong sự phát triển của Liên minh châu Âu trong những năm đầu thế kỷ?

Trong thế kỷ XXI, văn hóa đóng vai trò quan trọng không chỉ là nền tảng mà còn là động lực phát triển của Liên minh Các phân tích dưới đây sẽ làm rõ vai trò thiết yếu của yếu tố này trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và gắn kết giữa các quốc gia.

2.3.1 Văn hóa với tư cách là nền tảng

Trong quá trình giao thoa giữa các quốc gia và dân tộc, sự tiếp xúc sẽ thuận lợi hơn khi có nhiều điểm tương đồng về văn hóa S.Huntington trong tác phẩm "Sự va chạm giữa các nền văn minh" đã chỉ ra rằng con người thường yêu thích những gì giống mình và gắn bó qua niềm tin và hiểu biết chung, mà văn hóa là yếu tố then chốt tạo nên sự tin cậy Con người xác định danh phận qua dòng dõi, tôn giáo, ngôn ngữ và các giá trị văn hóa Điều này thể hiện rõ trong sự liên kết và phát triển của châu Âu, nơi cội nguồn văn hóa chung và các quan điểm giá trị là nền tảng cho quá trình khu vực hóa thành công Văn hóa đã đóng vai trò quan trọng ngay từ khi hình thành tổ chức khu vực này.

Tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các giá trị nhân văn cốt lõi của các quốc gia và dân tộc Sự đồng nhất về tôn giáo, như trong trường hợp Liên minh châu Âu với Thiên Chúa giáo, có thể gây khó khăn trong việc chấp nhận các quốc gia thành viên có tôn giáo khác Thổ Nhĩ Kỳ là một ví dụ rõ ràng về điều này, khi nước này đã nộp đơn xin gia nhập EU từ rất sớm nhưng vẫn gặp phải những rào cản do sự khác biệt về tôn giáo.

52 nhưng đến nay, Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chưa được chấp thuận trở thành thành viên của

Liên minh châu Âu (EU) đã kết nạp các nước láng giềng ở Đông và Nam Âu vào năm 2004 và 2007, trong khi Hy Lạp là một ví dụ điển hình về sự khác biệt văn hóa ở châu Âu Với vị trí địa lý và lịch sử đặc trưng, Hy Lạp thuộc khu vực Đông Nam Âu và chịu ảnh hưởng của Chính thống giáo.

Có thể thấy, khác biệt văn hóa sẽ còn là một vấn đề lâu dài, đòi hỏi thêm nhiều thời gian để giải quyết thấu đáo

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa hiện nay, nhiều khái niệm văn hóa như đa văn hóa, đa dạng văn hóa và liên văn hóa đã được hình thành Đa văn hóa đề cập đến sự kết hợp của nhiều bản sắc văn hóa trong một quốc gia, trong khi đa dạng văn hóa phản ánh sự hiện hữu của nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới Liên văn hóa, được hiểu là quá trình tương tác giữa các nền văn hóa, nhấn mạnh sự giao tiếp và hiểu biết lẫn nhau, tạo ra mối tương quan năng động giữa các thực thể văn hóa Phương pháp tiếp cận văn hóa cần mang tính đa ngành, xem xét môi trường và điều kiện bên ngoài trước khi phân tích xung đột văn hóa Một kết quả của tiến trình liên văn hóa là sự hình thành các liên minh văn hóa khu vực, với Liên minh châu Âu được xem là mô hình thành công nhất về mặt liên văn hóa, mặc dù vẫn còn nhiều thách thức về kinh tế và chính trị.

2.3.2 Văn hóa với tư cách là động lực phát triển

Châu Âu đã trải qua nhiều cuộc xung đột và chiến tranh đẫm máu, với các dân tộc thường sử dụng vũ lực để giải quyết mâu thuẫn và tranh giành lợi ích như đất đai, tài nguyên và quyền lực Tuy nhiên, EU cũng là nơi khởi nguồn cho ý tưởng liên kết các quốc gia nhằm xây dựng một tương lai hòa bình, ổn định và thịnh vượng cho toàn khu vực.

Lịch sử không thể bị thay đổi, nhưng nó mang đến những bài học quý giá cho nhân loại trong việc định hình tương lai Bài học từ đế chế La Mã đã thúc đẩy con người phát triển các phương pháp liên kết khu vực đa dạng Những cuộc đại chiến tại châu Âu, cùng với ước mơ về hòa bình và công bằng, đã tạo ra ý tưởng thống nhất giữa các quốc gia Sau mỗi cuộc chiến, thế giới lại bị phân chia theo ưu thế của các bên, đặc biệt là sau Chiến tranh thế giới thứ II, khi châu Âu bị chia cắt thành hai khối đối lập: xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, Tây Âu dần tụt hậu và mất đi vai trò trung tâm Để đối phó với tình hình này, Tây Âu cần tìm ra các biện pháp ngăn chặn chiến tranh và phục hồi vị thế, trong đó hợp tác hòa bình được coi là giải pháp khả thi.

Sự hình thành liên minh khu vực xuất phát từ sự phát triển của lực lượng sản xuất và xu thế hòa bình, hợp tác toàn cầu Điều này cho thấy rằng rào cản biên giới quốc gia không còn đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển Do đó, cần thiết phải có một tổ chức siêu quốc gia để điều tiết sự phát triển khu vực và thúc đẩy tự do hóa, liên kết và hội nhập giữa các quốc gia.

Văn hóa không chỉ đáp ứng nhu cầu chính trị và kinh tế, mà còn thể hiện khát vọng về một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển, phản ánh bản chất nhân văn của nó Điều này tạo ra cầu nối vững chắc trong liên kết khu vực châu Âu Khi tính nhân văn được phát huy và cụ thể hóa qua các chính sách chung của Liên minh, nó sẽ hình thành một không gian xã hội châu Âu đặc sắc, điều mà các chính sách kinh tế hay chính trị khó có thể đạt được.

Nước Pháp, qua Ngoại trưởng Robert Schuman, đã khởi xướng sáng kiến đưa toàn bộ sản xuất than, thép của Pháp và Đức dưới sự quản lý của một cơ quan quyền lực chung, mở cửa cho các nước châu Âu khác tham gia Sáng kiến này nhận được sự ủng hộ từ năm quốc gia Tây Âu: Đức, Bỉ, Italia, Hà Lan và Luxembourg Trong số này, chỉ có Đức nằm ở Trung Âu, còn lại đều thuộc Tây Âu, tạo thành một khu vực địa lý và văn hóa gắn kết Các quốc gia này có lịch sử tương tác lâu dài và trình độ phát triển tương đồng, với Đức và Hà Lan mang bản sắc văn hóa German, trong khi Pháp, Italia và Luxembourg thể hiện văn hóa Roman, và Bỉ là sự giao thoa của hai nền văn hóa này.

Một trong những yếu tố cơ bản của văn hóa là tôn giáo, và hầu hết các quốc gia trong nhóm 6 nước này chủ yếu theo Công giáo La Mã, ngoại trừ Đức và Hà Lan, nơi tôn giáo chính là tin lành.

Sự khác biệt về tôn giáo giữa các quốc gia không mang tính chất đối kháng hay xung đột, mà chỉ là sự khác biệt ở một khía cạnh nào đó Cả hai dòng tôn giáo đều có nền tảng chung là Kitô giáo nguyên thủy, một trong những "cây đại thụ" của văn minh phương Tây.

Nhóm 6 quốc gia nòng cốt đầu tiên của EU chia sẻ những đặc điểm văn hóa chính trị tương đồng, bắt nguồn từ lịch sử chung khi từng là một phần của đế chế La Mã cổ đại, với nền tảng văn minh Hy Lạp - La Mã Sau đó, các quốc gia này tiếp nhận các giá trị Cơ Đốc giáo, tạo nên hệ giá trị nhân văn cốt lõi, như chế độ dân chủ và hệ thống chính trị đa nguyên, vẫn phổ biến đến ngày nay Vào tháng 4 năm 1951, nhờ những điều kiện kinh tế, chính trị và văn hóa tương đồng, nhóm 6 nước đã ký kết Hiệp ước tại Pháp, thành lập Cộng đồng than - thép châu Âu, chính thức có hiệu lực từ ngày 25/7/1952, đánh dấu sự chuyển mình trong lịch sử châu Âu từ các quốc gia riêng biệt sang một khối liên kết chặt chẽ và phát triển.

Mỗi lần Liên minh Châu Âu (EU) mở rộng, yếu tố văn hóa luôn đóng vai trò quan trọng bên cạnh các yếu tố khác Lần mở rộng đầu tiên của Cộng đồng Châu Âu (EC) vào năm 1973 đã đưa Anh, Ailen và Đan Mạch trở thành thành viên mới Yếu tố văn hóa không chỉ không tạo ra rào cản mà còn hỗ trợ tích cực cho quá trình hòa nhập của các quốc gia này, nhờ vào sự tương đồng về địa - văn hóa với nhóm 6 nước còn lại.

ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU ĐẾN NĂM 2020

Ngày đăng: 12/07/2021, 16:02

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đỗ Thanh Bình – Phạm Anh (2008), “Từ hiến pháp chung đến Hiệp ước Lisbon: quá trình tiến tới Liên minh châu Âu thống nhất, hiện đại và năng động trong thế kỷ XXI”, tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ hiến pháp chung đến Hiệp ước Lisbon: quá trình tiến tới Liên minh châu Âu thống nhất, hiện đại và năng động trong thế kỷ XXI”, "tạp chí nghiên cứu châu Âu
Tác giả: Đỗ Thanh Bình – Phạm Anh
Năm: 2008
3. Crane Brinton, R.L.Wonff, J.B. Christopher, Văn minh phương Tây, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn minh phương Tây
Nhà XB: Nxb Văn Hóa Thông Tin
4. Đỗ Lộc Diệp (2007), “Liên minh Châu Âu và những vấn đề của nó đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và chính trị thế giới, số 8 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Liên minh Châu Âu và những vấn đề của nó đầu thế kỷ XXI”, "Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và chính trị thế giới
Tác giả: Đỗ Lộc Diệp
Năm: 2007
5. Hoàng Thị Ngọc Diệp (2008), Liên minh châu Âu nhìn từ góc độ liên văn hóa, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Trường ĐH KHXH-NV, ĐHQG Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Liên minh châu Âu nhìn từ góc độ liên văn hóa
Tác giả: Hoàng Thị Ngọc Diệp
Năm: 2008
6. Đặng Minh Đức (2007), “Những vấn đề đặt ra và xu hướng phát triển của Nghị viện Châu Âu trong quá trình cải cách thể chế chính trị ở Liên minh Châu Âu, Viện Nghiên cứu Châu Âu”, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, số 5 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vấn đề đặt ra và xu hướng phát triển của Nghị viện Châu Âu trong quá trình cải cách thể chế chính trị ở Liên minh Châu Âu, Viện Nghiên cứu Châu Âu
Tác giả: Đặng Minh Đức
Năm: 2007
7. G.F. Mclean (2007), Con người, dân tộc và các nền văn hóa: Chung sống trong thời đại toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Con người, dân tộc và các nền văn hóa: Chung sống trong thời đại toàn cầu hóa
Tác giả: G.F. Mclean
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2007
8. Nguyễn An Hà (2010), “Một số điều chỉnh chính sách sau khủng hoảng của Liên minh châu Âu”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu số 8 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số điều chỉnh chính sách sau khủng hoảng của Liên minh châu Âu”, "Tạp chí nghiên cứu châu Âu
Tác giả: Nguyễn An Hà
Năm: 2010
9. Nguyễn An Hà (2010), “Một số vấn đề chính trị, kinh tế nổi bậc của EU năm 2009 và tác động đến Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 1 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề chính trị, kinh tế nổi bậc của EU năm 2009 và tác động đến Việt Nam”, "Tạp chí nghiên cứu châu Âu
Tác giả: Nguyễn An Hà
Năm: 2010
10. Trần Phương Hoa (2005), “Tính thống nhất của Liên minh châu Âu từ góc độ văn hóa”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 2 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tính thống nhất của Liên minh châu Âu từ góc độ văn hóa”, "Tạp chí nghiên cứu châu Âu
Tác giả: Trần Phương Hoa
Năm: 2005
11. Dương Vũ Hiệp (2001), Toàn cầu hóa Kinh tế, Nxb Văn hóa xã hội, Hà Nội 12. Đỗ Hồng Huyền (2010), “Mở rộng NATO và những tác động của nó”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 6 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn cầu hóa Kinh tế", Nxb Văn hóa xã hội, Hà Nội 12. Đỗ Hồng Huyền (2010), “Mở rộng NATO và những tác động của nó”, "Tạp chí nghiên cứu châu Âu
Tác giả: Dương Vũ Hiệp (2001), Toàn cầu hóa Kinh tế, Nxb Văn hóa xã hội, Hà Nội 12. Đỗ Hồng Huyền
Nhà XB: Nxb Văn hóa xã hội
Năm: 2010
13. Lương Văn Kế (2008), “Quá trình ra đời và mở rộng Liên minh Châu Âu nhìn từ góc độ liên văn hóa”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 7 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quá trình ra đời và mở rộng Liên minh Châu Âu nhìn từ góc độ liên văn hóa”, "Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu
Tác giả: Lương Văn Kế
Năm: 2008
14. Lương Văn Kế (2002), “Nhân tố văn hóa trong tiến trình khu vực hóa và toàn cầu hóa – trường hợp Liên minh châu Âu”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 6 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhân tố văn hóa trong tiến trình khu vực hóa và toàn cầu hóa – trường hợp Liên minh châu Âu”, "Tạp chí nghiên cứu châu Âu
Tác giả: Lương Văn Kế
Năm: 2002
15. Lương Văn Kế (2007), Thế giới đa chiều – Lý thuyết và kinh nghiệm nghiên cứu khu vực, Nxb Thế giới, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thế giới đa chiều – Lý thuyết và kinh nghiệm nghiên cứu khu vực
Tác giả: Lương Văn Kế
Nhà XB: Nxb Thế giới
Năm: 2007
16. Phạm Thị Anh Nga (2006), “Định hướng trong giao tiếp và nghiên cứu liên văn hóa”, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, số 11 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Định hướng trong giao tiếp và nghiên cứu liên văn hóa”, "Tạp chí văn hóa nghệ thuật
Tác giả: Phạm Thị Anh Nga
Năm: 2006
17. Lò Thị Phương Nhung (2010), “Khủng hoảng nợ công – mối lo không chỉ của Hy Lạp”, Tạp chí những vấn đề kinh tế - chính trị thế giới, số 6 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khủng hoảng nợ công – mối lo không chỉ của Hy Lạp”, "Tạp chí những vấn đề kinh tế - chính trị thế giới
Tác giả: Lò Thị Phương Nhung
Năm: 2010
18. Viễn Phố (Lược thuật) (2004), “Về ảnh hưởng của nhân tố văn hóa trong tiến trình nhất thể hóa châu Âu”, Tạp chí thông tin KHXN, số 8 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về ảnh hưởng của nhân tố văn hóa trong tiến trình nhất thể hóa châu Âu”, "Tạp chí thông tin KHXN
Tác giả: Viễn Phố (Lược thuật)
Năm: 2004
19. Samuel Huntington (2006), Sự va chạm giữa các nền văn minh, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự va chạm giữa các nền văn minh
Tác giả: Samuel Huntington
Năm: 2006
20. T.L.Friedman (2007), Thế giới phẳng – Tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ XXI, Nxb Trẻ, TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thế giới phẳng – Tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ XXI
Tác giả: T.L.Friedman
Nhà XB: Nxb Trẻ
Năm: 2007
21. Lê Duy Thắng (2009), “Quan hệ Nga – NATO từ sau Chiến tranh lạnh đến nay:những vấn đề và triển vọng”, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quan hệ Nga – NATO từ sau Chiến tranh lạnh đến nay:những vấn đề và triển vọng”, "Tạp chí nghiên cứu châu Âu
Tác giả: Lê Duy Thắng
Năm: 2009
22. Thông tấn Xã Việt Nam (2010), “Giải pháp toàn châu Âu cho cuộc khủng hoảng tài chính”,Tài liệu tham khảo đặc biệt, 6/5/2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải pháp toàn châu Âu cho cuộc khủng hoảng tài chính”,"Tài liệu tham khảo đặc biệt
Tác giả: Thông tấn Xã Việt Nam
Năm: 2010

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN