Luận văn Thạc sĩ Y học Xây dựng quy trình bào chế và đánh giá độc tính của cao đặc từ bài thuốc KNC trên thực nghiệm trình bày các nội dung chính sau: Xây dựng quy trình bào chế cao đặc từ bài thuốc “KNC”; Xác định độc tính cấp và độc tính bán trường diễn của cao đặc “KNC”
BÀN LUẬN
Về độc tính cấp
Liều dự kiến cho cao đặc KNC có tác dụng ở chuột nhắt là 2,928g/kg/ngày Trong thực nghiệm, chuột được cho uống với các liều 12g, 18g, 24g, 30g, 36g và 42g/kg thể trọng, tương ứng gấp 4 đến 12 lần liều dự kiến Kết quả cho thấy chuột chịu được liều cao nhất là 42,0g/kg/ngày, gấp gần 13 lần liều dự kiến mà vẫn không có dấu hiệu bất thường hay tử vong Theo phân loại độc tính của GHS, các chất có LD50 > 5000 mg/kg thể trọng được coi là gần như không độc, chứng minh rằng cao đặc KNC có tính an toàn cao trong thử nghiệm độc tính cấp đường uống.
Trên lâm sàng, liều có tác dụng dược lý thường chỉ khoảng 1/10 của LD50, vì vậy việc xác định LD50 là cần thiết trước khi tiến hành nghiên cứu dược lý Liều LD50 và liều có tác dụng dược lý trên động vật thí nghiệm là cơ sở quan trọng để suy ra liều dùng trong điều trị cho người thông qua các phương pháp tính ngoại suy Hiểu rõ LD50 giúp xác định chỉ số điều trị, một thông số thiết yếu để quyết định xem có nên đưa thuốc vào sử dụng trên người hay không.
Nghiên cứu độc tính cấp của viên An cung ngưu hoàng hoàn cho thấy không thể xác định LD50, khi nhóm tác giả Nguyễn Minh Hà và cộng sự cho chuột uống liều tối đa 7,5gr/kg nhưng không ghi nhận dấu hiệu ngộ độc hay tử vong trong 72 giờ.
Nhiều loại thuốc có liều cao mà không gây chết cho động vật Ví dụ, khi xác định độc tính cấp của một dược liệu, một con chuột nhắt chỉ có thể uống tối đa 1ml Dược liệu sau khi sắc và cô đặc chỉ có thể đạt đến một mức độ nhất định; nếu cô đặc quá mức sẽ trở thành cao đặc, không thể cho uống Chẳng hạn, một dược liệu có thể cô đặc từ 10g dược liệu thành 1ml cao Khi cho một con chuột nhắt nặng 20g uống 1ml, tức là đã sử dụng liều 10g dược liệu cho 20g trọng lượng cơ thể, tương đương với 500g cho liều tương ứng.
1 kg cân nặng chuột [22] Nếu ở liều này mà chuột vẫn không chết thì không thể xác định được LD50 mà chỉ có thể kết luận là:
“ Đã cho uống đến liều 500 g/kg cân nặng chuột tính theo dược liệu khô, chuột nhắt trắng vẫn không chết”
Nghiên cứu cho thấy một người lớn nặng 50 kg có thể uống 30 mg thuốc mỗi ngày để đạt hiệu quả chữa bệnh, tương đương với liều dùng 0,6 mg/kg.
Khi cho chuột nhắt trắng uống liều thuốc gấp 500 lần liều dùng cho người, tức là 300 mg/kg cân nặng, chuột vẫn sống sót Có hai phương pháp xử trí: một là tiếp tục tăng liều cho đến khi chuột chết để xác định LD50; hai là kết luận rằng thuốc có độ an toàn cao, vì chuột không chết ở liều cao gấp 500 lần, do đó không cần thử nghiệm thêm để xác định LD50.
“Đã cho chuột nhắt trắng uống liều gấp 500 lần (300 mg/kg) liều dùng có tác dụng ở người, chuột vẫn không chết, chứng tỏ thuốc có độ an toàn cao.
Về độc tính bán trường diễn
4.2.1 Ảnh hưởng của dung dịch KNC đến tình trạng chung và sự thay đổi cân nặng của chuột cống :
So sánh giữa các thời điểm cho thấy thể trọng chuột ở cả ba lô nghiên cứu đều tăng Tuy nhiên, thể trọng của chuột ở hai lô uống Cao đặc KNC không khác biệt có ý nghĩa thống kê so với thể trọng của chuột ở lô chứng sinh lý tại tất cả các thời điểm đo.
Cao đặc KNC, khi được sử dụng với các mức liều và thời gian nghiên cứu, không gây ra sự thay đổi nào đáng kể trong sự phát triển thể trọng của chuột.
Khi chọn động vật thí nghiệm để đánh giá độc tính bán trường diễn, chuột cống trắng thường được ưu tiên do ít xảy ra bất thường hơn so với chuột nhắt trắng Mặc dù có thể sử dụng các loại động vật khác, nhưng chi phí cao và kích thước lớn khiến việc sử dụng hóa chất tốn kém hơn Nghiên cứu cho thấy chuột cái nhạy cảm hơn với hóa chất, do đó mang lại kết quả tốt hơn Cần lựa chọn các con vật trưởng thành, khỏe mạnh, tránh sử dụng chuột già, chuột cái mang thai hoặc đang cho con bú, và khối lượng của các con vật nên tương đồng, không chênh lệch quá 20%.
4.2.2 Ảnh hưởng của dung dịch KNC đến chức năng tạo máu:
Khi so sánh các lô trong cùng một thời điểm và giữa các thời điểm thí nghiệm, các chỉ số như số lượng hồng cầu, hàm lượng huyết sắc tố, hematocrit, số lượng bạch cầu và số lượng tiểu cầu trong máu chuột không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Cao đặc KNC, khi được sử dụng với các liều lượng và thời gian nghiên cứu cụ thể, không gây ra sự thay đổi nào đối với các chỉ số chức năng tạo máu ở chuột.
Hồng cầu là các tế bào máu không có nhân, có hình dạng tròn và màu hồng, với phần giữa nhạt hơn khi được nhuộm bằng thuốc nhuộm Giemsa và quan sát qua kính hiển vi.
Số lượng hồng cầu trong máu được đo bằng triệu/mm³ hoặc 10⁶/mm³, nhưng hiện nay thường được biểu thị theo đơn vị quốc tế T/L, trong đó T là tetra (10¹²) và L là lít Đơn vị T/L đơn giản hơn và tương đương với triệu/mm³ Ở chuột cống trắng, số lượng hồng cầu có thể dao động từ 8 đến 10 T/L tùy theo các lô thí nghiệm.
Hemoglobin là chỉ số quan trọng để đánh giá khả năng vận chuyển oxy của hồng cầu, được đo bằng đơn vị g/L Trong các thí nghiệm với chuột cống trắng, mức hemoglobin thường dao động từ 125 đến 145 g/L.
Hematocrit là chỉ số phản ánh tình trạng hồng cầu trong máu Khi máu được ly tâm và chống đông, kết quả sẽ cho ra hai phần: phần huyết tương lỏng ở trên và phần huyết cầu đặc ở dưới Đối với chuột cống trắng, giá trị hematocrit có thể dao động từ 37% đến 43% tùy thuộc vào từng lần thí nghiệm.
Thể tích trung bình hồng cầu (MCV) được đo bằng femto lít trong một đơn vị thể tích máu Ở chuột cống trắng, MCV có sự biến động từ 48 đến 52 fl tùy thuộc vào từng lần thí nghiệm.
Bạch cầu là một nhóm tế bào có nhiều loại khác nhau, và một số loại thuốc có thể ảnh hưởng đến số lượng cũng như chất lượng của chúng Hình dạng của bạch cầu thường thay đổi, nhưng nhìn chung, chúng là những tế bào nhỏ, hơi tròn với đường kính từ 12-14 micromet Khi quan sát dưới kính hiển vi, bạch cầu không có màu sắc, nhưng khi nhuộm, nhân của chúng sẽ hiện rõ với nhiều màu sắc khác nhau Ở chuột cống trắng, số lượng bạch cầu dao động từ 8-12 G/L tùy thuộc vào từng lần thí nghiệm.
Tiểu cầu đóng vai trò quan trọng trong cơ chế đông máu, và việc sử dụng thuốc có thể làm tăng hoặc giảm số lượng tiểu cầu, từ đó ảnh hưởng đến quá trình đông máu Nghiên cứu trên chuột cống trắng cho thấy số lượng tiểu cầu dao động từ 500 đến 700 G/L tùy thuộc vào từng lần thí nghiệm.
4.2.3 Ảnh hưởng của dung dịch KNC đến chức năng gan:
Khi so sánh các lô thí nghiệm trong cùng một thời điểm cũng như giữa các thời điểm khác nhau, các chỉ số hoạt độ enzym AST, ALT, albumin, cholesterol toàn phần và bilirubin toàn phần trong máu chuột không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Như vậy Cao đặc KNC với các mức liều và thời gian sử dụng trong nghiên cứu không gây rối loạn chức năng gan trên chuột nghiên cứu
ST and LT are two transaminases that play a crucial role in the metabolic connection between proteins and carbohydrates AST, or aspartate aminotransferase (previously known as GOT or glutamic-oxaloacetic transaminase), is predominantly found in the heart and liver, followed by the muscles, kidneys, and lungs It catalyzes the reaction between glutamic acid and oxaloacetic acid.
4.2.4 Ảnh hưởng của dung dịch KNC đến chức năng th n
Khi so sánh các lô mẫu với nhau trong cùng một thời điểm và giữa các thời điểm thí nghiệm, nồng độ creatinin máu của chuột không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Như vậy Cao đặc KNC với các mức liều và thời gian sử dụng trong nghiên cứu không gây rối loạn chức năng thận trên chuột nghiên cứu
4.2.5 Ảnh hưởng của cao đặc KNC đến điện tim chuột
Không có sóng bất thường trên điện tim ở đạo trình DII của các lô chuột tại các thời điểm nghiên cứu