NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐIỀU KIỆN KINH
Tổng quan về kinh doanh dịch vụ logistics
1.1.1 Khái niệm dịch vụ logistics
Theo PGS.TS Lê Xuân Đình (2011, 26), logistics là quá trình tối ưu hóa địa điểm và thời điểm, nhằm tối ưu hóa lưu chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ nguyên liệu ban đầu đến tay người tiêu dùng cuối cùng Mục tiêu của logistics là đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng với chi phí hợp lý thông qua các hoạt động kinh tế đa dạng Ngoài ra, nhiều khái niệm về logistics cũng được các tổ chức và nhà nghiên cứu đưa ra, phản ánh sự phong phú trong cách tiếp cận vấn đề này.
Logistics, theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc (UNESCAP), là sự lưu chuyển đồng bộ của các yếu tố đầu vào và đầu ra trong quá trình sản xuất và cung ứng hàng hóa, dịch vụ đến khách hàng Cũng như UNESCAP, Hội đồng quản lý logistics Hoa Kỳ xem logistics là một phần quan trọng trong quản lý chuỗi cung ứng, bao gồm việc lập kế hoạch, triển khai và kiểm soát hiệu quả dòng lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ và thông tin từ nguồn gốc đến điểm tiêu thụ, nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Cho đến nay, chưa tồn tại một định nghĩa thống nhất về logistics, vì có nhiều cách tiếp cận khác nhau tùy thuộc vào góc độ và mục đích nghiên cứu Dù được hiểu theo nghĩa rộng hay hẹp, tất cả các định nghĩa này đều hướng đến việc đạt được yêu cầu cuối cùng của logistics.
PGS.TS Lê Xuân Đình (2011) đã chỉ ra vai trò quan trọng của ngành logistics trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam Ông nhấn mạnh rằng logistics không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất và phân phối hàng hóa mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa Việc cải thiện hệ thống logistics sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời hỗ trợ chính sách phát triển kinh tế đất nước.
GS.TS.NGƯT Đặng Đình Đào, TS Vũ Thị Minh Loan, TS Nguyễn Minh Ngọc, TS Đặng Thu Hương, Ths
Phạm Thị Minh Thảo (Đồng chủ biên), Nhà Xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 26-51
Logistics and supply chain management, as defined by the United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, involves the coordinated movement of inputs and outputs throughout the production and delivery processes of goods and services to customers.
The Council of Logistics Management defines logistics as a critical component of supply chain management that ensures the efficient and effective movement and storage of goods, services, and information from the point of origin to the point of consumption, fulfilling customer requirements While the Vietnamese term for logistics translates to "giao nhận hàng hóa," this interpretation is limited and does not encompass the full scope of logistics, which involves a comprehensive series of interconnected tasks The term "logistics" is recognized internationally and should not be reduced to mere warehousing and transportation; it reflects a broader spectrum of services The concept of logistics services was officially introduced in the Commercial Law, emphasizing its significance in the global marketplace.
Theo quy định năm 2005, logistics được định nghĩa là hoạt động thương mại, trong đó thương nhân tổ chức thực hiện nhiều công đoạn như nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, làm thủ tục hải quan, tư vấn khách hàng và giao hàng, nhằm mục đích sinh lợi Dịch vụ logistics, hay còn gọi là dịch vụ lô-gic-tíc, thuộc phạm trù lớn hơn của hoạt động thương mại và bao gồm nhiều công việc khác nhau Theo định nghĩa này, thương nhân chỉ cần thực hiện một hoạt động theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao cũng đã được coi là cung ứng dịch vụ logistics.
Khái niệm dịch vụ logistics (DV logistics) có nhiều cách tiếp cận khác nhau, tương tự như khái niệm logistics Tùy thuộc vào việc hiểu logistics theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, các quan điểm về DV logistics cũng sẽ khác biệt.
DV logistics gắn liền cũng được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp Theo nghĩa hẹp,
DV logistics là hoạt động thương mại bao gồm các dịch vụ vận chuyển, giao nhận, kho bãi, hải quan và nhiều dịch vụ liên quan đến hàng hóa Mục tiêu của DV logistics là tổ chức một cách hợp lý và khoa học nhằm đảm bảo quá trình phân phối và lưu chuyển hàng hóa hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
DV logistics là hoạt động thương mại bao gồm chuỗi dịch vụ được tổ chức và quản lý một cách khoa học, liên quan đến các giai đoạn của quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu dùng.
Một điểm quan trọng là định nghĩa về logistics tại Việt Nam không bao gồm yếu tố dịch vụ, có thể do quan niệm rằng logistics đã tự thân là một loại dịch vụ.
1.1.2 Đặc điểm dịch vụ logistics
Khi nghiên cứu về DV logistics, tuy có nhiều ý kiến khác nhau nhưng cho thấy
DV logistics có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Dịch vụ logistics là một hoạt động thương mại đa ngành, bao gồm nhiều quy trình và chịu sự quản lý của các Bộ ngành khác nhau Logistics không chỉ là việc hoạch định và kiểm soát dòng chảy hàng hóa và dịch vụ từ điểm xuất phát đến tay khách hàng, mà còn liên quan chặt chẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh và lĩnh vực thương mại, nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Dịch vụ logistics đóng vai trò quan trọng trong toàn bộ quy trình sản xuất, từ việc quản lý dòng chảy nguyên vật liệu trong khâu mua sắm, lưu kho, sản xuất cho đến phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng Nó đảm bảo quá trình sản xuất diễn ra liên tục bằng cách bảo quản và cung cấp nguyên phụ liệu cần thiết Khi sản phẩm hoàn thành, logistics cũng tham gia vào việc vận chuyển hàng hóa đến khách hàng, cho thấy sự liên kết chặt chẽ của logistics với mọi giai đoạn từ sản xuất đến tiêu dùng.
DV logistics phát triển mạnh mẽ nhờ việc áp dụng triệt để công nghệ thông tin Sự tiến bộ của công nghệ giúp doanh nghiệp cải thiện quy trình xử lý đơn hàng, tăng cường khả năng phản hồi thông tin nhanh chóng, giảm lượng hàng tồn kho và quản lý tình hình nhập hàng hiệu quả hơn.
- xuất - tồn kho vật tư
DV logistics đại diện cho sự phát triển toàn diện của dịch vụ vận tải giao nhận, kết hợp chặt chẽ với xu hướng thuê ngoài ngày càng gia tăng Logistics đã mở rộng khái niệm vận tải giao nhận truyền thống, từ việc thực hiện các khâu riêng lẻ như thuê tàu và làm thủ tục thông quan, đến cung cấp dịch vụ trọn gói từ kho đến kho Vai trò của các đơn vị logistics đã chuyển từ đại lý, người được ủy thác sang chủ thể chính trong các hoạt động vận tải giao nhận, với trách nhiệm rõ ràng trước các quy định pháp luật.
Tổng quan về điều kiện kinh doanh
1.2.1 Khái niệm ĐKKD được hiểu chính là những yêu cầu mà chủ thể kinh doanh (nhất là doanh nghiệp) phải đáp ứng để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh hợp pháp trong ngành, nghề lĩnh vực đó Đây là hình thức giới hạn quyền tự do kinh doanh của chủ thể kinh doanh được nhà nước đặt ra nhằm bảo đảm lợi ích công như để bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
Khái niệm về ĐKKD trước đây cũng đã được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 (Luật DN 2005) nhưng hiện nay, Luật Doanh nghiệp năm 2014 (Luật DN
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 8 của Luật Đầu tư năm 2014, doanh nghiệp có nghĩa vụ đáp ứng đầy đủ các điều kiện kinh doanh khi hoạt động trong các ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và phải duy trì các điều kiện này trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Luật Đầu tư đã định nghĩa rõ về các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện Cụ thể, Khoản 1 Điều 7 quy định rằng những ngành, nghề này phải đáp ứng các điều kiện liên quan đến quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội, đạo đức, và sức khỏe cộng đồng Văn bản hướng dẫn tại Khoản 7 Điều 2 Nghị định 118/2015/NĐ-CP nêu rõ rằng điều kiện đầu tư kinh doanh là những yêu cầu mà cá nhân, tổ chức phải tuân thủ theo quy định của pháp luật Theo Khoản 1 Điều 9, cá nhân và tổ chức kinh tế được phép kinh doanh trong các ngành, nghề này khi đã đáp ứng đủ các điều kiện và phải duy trì những điều kiện đó trong suốt quá trình hoạt động đầu tư kinh doanh, tương tự như quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật Doanh nghiệp.
Năm 2014, lần đầu tiên trong văn bản cấp luật, mục tiêu ban hành các quy định về ĐKKD được xác định rõ ràng, nhằm đảm bảo "lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội và sức khỏe của cộng đồng".
Theo phân tích, "Điều kiện kinh doanh" trong Luật ĐT tương tự như khái niệm điều kiện đầu tư kinh doanh tại Khoản 7 Điều 2 Nghị định 118/2015/NĐ-CP, tức là các yêu cầu mà doanh nghiệp cần đáp ứng để tham gia thị trường.
Quyền tự do kinh doanh lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và được khẳng định mở rộng trong Hiến pháp năm 2013, quy định rằng “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.” Điều này thể hiện sự cởi mở và khuyến khích của Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của cá nhân và doanh nghiệp, đồng thời là tiền đề quan trọng cho sự thay đổi tư duy quản lý nhà nước về kinh doanh Trong những năm gần đây, hệ thống pháp luật kinh doanh của Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp, với những đặc điểm nổi bật trong điều kiện kinh doanh.
Điều kiện đầu tư kinh doanh trong các ngành nghề có điều kiện phải tuân theo các quy định của luật, pháp lệnh, nghị định và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia Các bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp, cũng như các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác không có quyền ban hành quy định riêng về điều kiện đầu tư kinh doanh.
Có một số ngành nghề có giới hạn quyền tự do kinh doanh, yêu cầu các hoạt động đầu tư phải đáp ứng điều kiện về quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội và sức khoẻ cộng đồng.
Thứ ba, chỉ áp dụng với các tổ chức, cá nhân khi thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh
Theo Nghị định 118/2015/NĐ-CP, ĐKKD bao gồm các hình thức như giấy phép, giấy chứng nhận đủ điều kiện, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, văn bản xác nhận, và các hình thức văn bản khác theo quy định pháp luật Ngoài ra, còn có các điều kiện mà cá nhân, tổ chức kinh tế cần đáp ứng để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh mà không cần xác nhận hay chấp thuận bằng các hình thức văn bản nêu trên.
Khi cá nhân hoặc tổ chức đáp ứng điều kiện đầu tư kinh doanh, họ có quyền được cấp giấy phép đầu tư, bao gồm các văn bản quy định từ mục (1) đến (6) và được phép thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh nếu thỏa mãn điều kiện tại mục (7) Đối với nhà đầu tư nước ngoài, Nghị định 118/2015/NĐ-CP quy định các điều kiện đầu tư tại khoản 1 Điều 10, bao gồm tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ, hình thức đầu tư, phạm vi hoạt động đầu tư, đối tác Việt Nam tham gia, và các điều kiện khác theo quy định của pháp luật.
Theo Khoản 2 Điều 9 Nghị định 118/2015/NĐ-CP, nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện hoạt động đầu tư trong các ngành, nghề khác nhau phải đảm bảo đáp ứng đầy đủ các điều kiện đầu tư quy định cho từng ngành, nghề cụ thể.
Các quy định hiện hành đã bước đầu định hình khái niệm và mục tiêu của điều kiện đầu tư kinh doanh (ĐKKD) Tuy nhiên, nhiều Bộ ngành vẫn còn lúng túng trong việc xác định và thống nhất nội hàm của ĐKKD Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông đã đề nghị cần có sự đồng nhất trong cách hiểu ĐKKD theo Nghị định 118/2015/NĐ-CP Điều kiện đầu tư kinh doanh áp dụng cho tổ chức, cá nhân trong hoạt động đầu tư, khác với tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng cho hàng hóa, dịch vụ Các Bộ ngành sẽ tiếp tục ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn, nhưng những điều này không phải là ĐKKD.
Điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics
1.3.1 Sự cần thiết ban hành điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics
Trước khi Luật Thương mại 2005 được ban hành, nhiều văn bản pháp luật đã quy định về đăng ký kinh doanh các dịch vụ trong chuỗi logistics, nhưng chỉ điều chỉnh riêng lẻ từng dịch vụ như giao nhận và kho vận mà không đề cập đến khái niệm dịch vụ logistics, dẫn đến tình trạng lách luật Luật Thương mại năm 1997 và các văn bản hướng dẫn liên quan đã tạo ra khe hở pháp lý, cho phép nhà đầu tư nước ngoài cung cấp dịch vụ mà không tuân thủ quy định Chẳng hạn, Nghị định 10/2001/NĐ-CP quy định rằng nhà đầu tư nước ngoài chỉ được thành lập liên doanh với vốn góp tối đa 49% trong lĩnh vực dịch vụ hàng hải, nhưng nhiều nhà đầu tư đã lợi dụng điều này để đăng ký kinh doanh dịch vụ logistics với 100% vốn đầu tư nước ngoài Do đó, Luật Thương mại 2005 và Nghị định 140/2007/NĐ-CP đã được ban hành để khắc phục tình trạng này.
Theo bài viết của Hà Chinh (2018) trên Báo Chính phủ, dịch vụ giao nhận đã được đổi tên thành dịch vụ logistics, trong đó dịch vụ logistics được phân chia thành nhiều loại khác nhau.
03 nhóm và quy định ĐKKD tương ứng của mỗi nhóm
Định nghĩa và phân loại dịch vụ logistics theo Nghị định 140/2007/NĐ-CP không còn phù hợp, vì nhiều hoạt động trong lĩnh vực này đã được quy định chi tiết trong các văn bản pháp luật chuyên ngành như vận tải, bán buôn, bán lẻ, bưu chính và đại lý thủ tục hải quan Việc chỉ quy định một công việc đơn thuần như là dịch vụ logistics dẫn đến sự trùng lặp lớn giữa các quy định điều chỉnh cùng một hoạt động.
Việt Nam đã gia nhập WTO, dẫn đến sự mâu thuẫn giữa luật trong nước và cam kết quốc tế về dịch vụ logistics Để giải quyết vấn đề này, vào ngày 30/12/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định 163/2017/NĐ-CP quy định về kinh doanh dịch vụ logistics, nhằm hoàn thiện và cập nhật các quy định pháp luật liên quan theo các cam kết quốc tế.
Kinh doanh dịch vụ logistics liên quan trực tiếp đến hàng hóa của khách hàng thông qua việc thực hiện các công việc theo thỏa thuận để nhận thù lao Tuy nhiên, loại hình dịch vụ này tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn tài sản và tổn thất hàng hóa Nếu nhà nước không quản lý chặt chẽ, thương nhân có thể tự ý cung cấp dịch vụ mà không đảm bảo đủ điều kiện, dẫn đến tranh chấp và tổn thất cho khách hàng Do đó, việc đặt ra các điều kiện kinh doanh là cần thiết để kiểm soát hoạt động của dịch vụ logistics, nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng và giảm thiểu rủi ro.
ĐKKD dịch vụ logistics là yêu cầu mà thương nhân cung cấp dịch vụ này phải tuân thủ khi kinh doanh Các yêu cầu này chủ yếu liên quan đến vốn và loại hình hoạt động, đóng vai trò quan trọng trong việc xác định loại hình dịch vụ logistics mà doanh nghiệp cung cấp.
1.3.2 Đặc điểm điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics
Pháp luật về kinh doanh dịch vụ logistics, đặc biệt là đăng ký kinh doanh dịch vụ logistics, là khung pháp lý điều chỉnh hoạt động thương mại đặc thù này, liên quan đến các lĩnh vực như vận tải, kho bãi và hải quan Hoạt động này không chỉ tuân theo các quy định chung về thương mại mà còn phải tuân thủ các quy định pháp luật chuyên ngành, thể hiện rõ vai trò quản lý của Nhà nước Các đặc điểm cơ bản của pháp luật về đăng ký kinh doanh dịch vụ logistics bao gồm sự kết hợp giữa các quy định chung và chuyên ngành, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả trong lĩnh vực logistics.
Các quy định về ĐKKD dịch vụ logistics nhấn mạnh vai trò quan trọng của quản lý nhà nước trong việc đảm bảo an toàn và hạn chế sai sót trong quá trình cung cấp dịch vụ Kinh doanh dịch vụ logistics liên quan đến hàng hóa thông qua nhiều hoạt động khác nhau, do đó, việc tuân thủ các quy định pháp luật là yếu tố quyết định cho sự thành công trong lĩnh vực này.
Các quy định pháp luật về ĐKKD dịch vụ logistics liên quan chặt chẽ đến các quy định trong các hoạt động thương mại dịch vụ chuyên ngành như dịch vụ vận tải, kho bãi, chuyển phát và đại lý hải quan.
Hình thức thể hiện của pháp luật về ĐKKD dịch vụ logistics được quy định trong nhiều văn bản khác nhau, do các cấp và cơ quan như Chính phủ, Bộ Công Thương, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài chính ban hành Để đảm bảo hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics an toàn và đáp ứng nhu cầu, quyền lợi của khách hàng, đồng thời ngăn ngừa thiệt hại cho các bên liên quan, ĐKKD dịch vụ logistics cần bao gồm một hệ thống các yếu tố cấu thành chứ không chỉ đơn thuần là một yếu tố.
1.3.3 Nội dung quy định điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics
Bản chất của hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics yêu cầu doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật Cụ thể, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics cần có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, như trong trường hợp doanh nghiệp vận tải biển nội địa, phải có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh vận tải biển do Cục Hàng hải cấp.
Bộ Giao thông Vận tải quy định rằng đối với nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) trong lĩnh vực logistics, tỷ lệ vốn góp không được vượt quá 49% khi kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa biển Thêm vào đó, các thương nhân cần đảm bảo phương thức kết nối điện tử phải tuân thủ các quy định về thương mại điện tử, phù hợp với sự phát triển của công nghệ và thương mại điện tử hiện nay.
Ngoài ra, còn tồn tại các điều kiện về hình thức thành lập, quốc tịch của thuyền viên và lái xe Những yếu tố cấu thành điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics không phải do ý chí chủ quan của người quản lý hay nhà làm luật quyết định, mà được hình thành dựa trên yêu cầu khách quan của xã hội.
Vai trò quản lý nhà nước trong kinh doanh dịch vụ logistics
Chủ thể quản lý kinh doanh dịch vụ logistics bao gồm các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương như Bộ Công Thương, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ, cùng với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương Đối tượng quản lý trong lĩnh vực này là thương nhân hoạt động trong dịch vụ logistics và các tổ chức, cá nhân liên quan.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo trật tự hoạt động, bảo vệ quyền lợi và giảm thiểu tranh chấp Điều này không chỉ đáp ứng nhu cầu của chủ hàng và khách hàng mà còn nâng cao chất lượng dịch vụ, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia Để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, cần có sự quản lý hiệu quả trong lĩnh vực kinh doanh logistics.
Theo Thủ tướng Chính phủ (2017), cần phát triển dịch vụ logistics thành một ngành có giá trị gia tăng cao, liên kết với sản xuất hàng hóa, xuất nhập khẩu và thương mại nội địa Việc phát triển hạ tầng giao thông và công nghệ thông tin cũng rất quan trọng, cùng với việc tạo ra một thị trường logistics lành mạnh, bình đẳng cho tất cả doanh nghiệp Đồng thời, cần khuyến khích thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, phù hợp với pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế Cuối cùng, việc mở rộng số lượng và quy mô các doanh nghiệp logistics, nâng cao trình độ nhân lực và khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế là cần thiết để phục vụ xã hội một cách đa dạng hơn.
Quản lý nhà nước về kinh doanh dịch vụ logistics đóng vai trò quan trọng trong cả kinh tế và xã hội Về mặt xã hội, quản lý này ảnh hưởng đến lưu thông hàng hóa giữa chủ hàng, nhà cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng, đảm bảo quá trình này diễn ra thuận lợi và nhanh chóng Nó cũng bảo vệ lợi ích của thương nhân trong lĩnh vực logistics, đồng thời tạo ra việc làm và thu nhập cho người lao động Về mặt kinh tế, quản lý nhà nước góp phần tạo nguồn thu ngân sách thông qua thuế từ các doanh nghiệp logistics, đồng thời xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh và bình đẳng Hơn nữa, nó tạo điều kiện pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, đảm bảo chất lượng dịch vụ logistics cao, nhanh chóng, thuận tiện và chi phí hợp lý cho người sử dụng.
Trong chương 1, tác giả đã trình bày tổng quan về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics, làm rõ các vấn đề cơ bản như khái niệm, phân loại, đặc điểm và vai trò của dịch vụ này Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu rõ những quy định pháp luật hiện hành liên quan đến kinh doanh dịch vụ logistics.
Dựa trên phân tích, có thể thấy rằng dù tiếp cận theo nhiều khía cạnh khác nhau, vẫn chưa có sự phân định rõ ràng giữa logistics, dịch vụ logistics và quản trị logistics Điều này cho thấy sự cần thiết phải làm rõ các khái niệm này để phục vụ tốt nhất cho người tiêu dùng trong chuỗi cung ứng.
Vào ngày 14/02/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 200/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics tại Việt Nam đến năm 2025 Kế hoạch này hướng đến việc cải thiện hạ tầng logistics, tăng cường chất lượng dịch vụ và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững của đất nước.
Vào năm 2017, logistics chính thức được đưa vào Luật Thương mại 2005 (Điều 233), định nghĩa rằng “dịch vụ logistics là hoạt động thương mại mà thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn.” Định nghĩa này coi logistics là một dạng dịch vụ với nhiều công việc khác nhau, nhưng không đề cập đến yếu tố dịch vụ thuộc phạm vi logistics, cho thấy rằng logistics đã tự bản thân là một dịch vụ Hiện tại, Việt Nam chưa có văn bản pháp lý chuyên ngành điều chỉnh dịch vụ logistics, mà các nội dung liên quan được quy định tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau, như dịch vụ xếp dỡ, kho bãi, chuyển phát, và vận tải hàng hóa Do đó, các quy định hiện hành về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics cần được xem xét và thay đổi để đảm bảo quản lý công bằng, chặt chẽ, đáp ứng lợi ích cao nhất cho khách hàng và sự phát triển của xã hội.
Trong chương 2, luận văn sẽ phân tích các điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics theo từng phân ngành cụ thể, dựa trên phân loại dịch vụ logistics của pháp luật Việt Nam và các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, nhằm so sánh và đánh giá mức độ phù hợp.
ĐIỀU KIỆN KINH DOANH VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Điều kiện chuyên ngành
Điều kiện chuyên ngành được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 4 Nghị đinh
Theo Nghị định 163/2017/NĐ-CP, thương nhân kinh doanh các dịch vụ logistics cụ thể phải tuân thủ các điều kiện đầu tư và kinh doanh theo quy định pháp luật Điều này được nêu rõ tại Khoản 1 Điều 4 của Nghị định.
Theo Nghị định 163/2017/NĐ-CP, thương nhân kinh doanh 17 loại hình dịch vụ trong lĩnh vực logistics phải đáp ứng các điều kiện đầu tư và kinh doanh theo quy định pháp luật Các dịch vụ cụ thể bao gồm dịch vụ xếp dỡ container (trừ tại sân bay), dịch vụ kho bãi container hỗ trợ vận tải biển, và dịch vụ kho bãi cho tất cả các phương thức vận tải Ngoài ra, dịch vụ chuyển phát và các dịch vụ khác cũng cần được thỏa thuận giữa thương nhân và khách hàng, phù hợp với nguyên tắc của Luật Thương mại.
Nghị định 163/2017/NĐ-CP phân loại và đặt tên cho các dịch vụ, cho thấy sự trùng khớp đáng kể với các dịch vụ mà Việt Nam đã cam kết khi gia nhập.
WTO có liên quan đến DV logistics
2.1.1 Dịch vụ xếp dỡ container, trừ dịch vụ cung cấp tại các sân bay
Nhu cầu vận tải đi kèm với nhu cầu bốc xếp, xếp dỡ hàng hóa, vì nguyên liệu và hàng hóa không thể tự di chuyển lên phương tiện vận tải Hoạt động bốc xếp và xếp dỡ do con người thực hiện, thường sử dụng các thiết bị hỗ trợ để tăng hiệu quả Quá trình này có thể xảy ra ở bất kỳ giai đoạn nào trong chuỗi dịch vụ logistics Tùy thuộc vào tính chất hàng hóa, bốc xếp và xếp dỡ được phân loại thành hai loại chính: hàng rời (như gạo, phân bón, sắt thép) và hàng container (hàng hóa đóng trong container).
Khi gia nhập WTO, Việt Nam không mở cửa thị trường cho tất cả các hình thức dịch vụ bốc xếp, đặc biệt là dịch vụ xếp dỡ hàng rời, do đây là những mặt hàng phổ biến và có sản lượng lớn qua các cảng của một nước nông nghiệp và đang phát triển như Việt Nam Do đó, dịch vụ này không nằm trong danh mục cam kết mở cửa thị trường.
Việt Nam đã loại trừ dịch vụ xếp dỡ container tại sân bay khỏi cam kết khi gia nhập WTO, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong nước cạnh tranh trên thị trường nhỏ hơn Theo Nghị định 163/2017/NĐ-CP, dịch vụ xếp dỡ container được xác định rõ và chỉ cho phép đầu tư nước ngoài dưới hình thức liên doanh với tỷ lệ vốn không vượt quá 50% Pháp luật Việt Nam hiện không yêu cầu giấy phép kinh doanh cho nhà đầu tư trong nước trong lĩnh vực này, chỉ áp dụng hạn chế cho nhà đầu tư nước ngoài, phù hợp với cam kết quốc tế.
Hiện nay, ĐKKD chuyên ngành cho dịch vụ xếp dỡ container không yêu cầu ĐKKD đối với nhà đầu tư trong nước, chỉ áp dụng cho nhà đầu tư nước ngoài Điều này phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và quy định về đầu tư kinh doanh cho nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm hình thức đầu tư như thành lập tổ chức kinh tế, góp vốn, mua cổ phần hoặc hợp tác kinh doanh.
2.1.2 Dịch vụ kho bãi container thuộc dịch vụ hỗ trợ vận tải biển và dịch vụ kho bãi container thuộc dịch vụ hỗ trợ mọi phương thức vận tải
Kho bãi đóng vai trò quan trọng trong sản xuất và chuỗi cung ứng logistics, giúp lưu trữ nguyên liệu và sản phẩm để phân phối hiệu quả Với sự phát triển hiện nay, kho bãi không chỉ là nơi cất trữ hàng hóa mà còn là trung tâm trung chuyển, nơi kết hợp nhiều lô hàng nhỏ thành lô hàng lớn hoặc chia nhỏ lô hàng lớn theo nhu cầu của khách hàng, từ đó giảm chi phí vận tải Hệ thống thông tin về cung cầu hàng hóa luôn được cập nhật, và nếu quá trình vận hành kho bãi gặp trục trặc, hệ thống logistics có thể trở nên không thống nhất và kém hiệu quả.
Dịch vụ kho bãi container là một phần quan trọng trong dịch vụ hỗ trợ vận tải biển, bao gồm các hoạt động lưu kho, chất/dỡ hàng và chuẩn bị container cho vận chuyển Theo Nghị định 163/2017/NĐ-CP, dịch vụ này được phân loại theo cam kết trong WTO, bao gồm cả dịch vụ hỗ trợ vận tải biển và mọi phương thức vận tải Việt Nam đã mở cửa thị trường dịch vụ kho bãi, không hạn chế hiện diện thương mại, cho phép liên doanh với vốn nước ngoài không quá 51% từ ngày gia nhập (11/01/2007) và không còn hạn chế sau 7 năm Các quy định pháp luật liên quan đến kho bãi tại Việt Nam tương đối ít và nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp lý như Luật Thương mại 2005, Luật Đất đai, và các nghị định, thông tư khác, đảm bảo lộ trình mở cửa thị trường phù hợp với các cam kết quốc tế.
Dịch vụ kho bãi tại Việt Nam không chỉ bao gồm các dịch vụ thông thường mà còn bao hàm các kho đặc thù như kho gom tách hàng lẻ cho vận tải biển và kho ngoại quan Những loại kho này có yêu cầu giám sát hải quan nghiêm ngặt và điều kiện thành lập riêng Tiêu chí phân loại dịch vụ kho bãi dựa trên loại hàng hóa lưu giữ, chẳng hạn như hàng lạnh, chất lỏng hoặc khí, mà không theo hình thức pháp lý cụ thể Do đó, cam kết dịch vụ kho bãi của Việt Nam cũng bao gồm kho ngoại quan Điều này có nghĩa là các nhà đầu tư nước ngoài muốn xây dựng và vận hành kho ngoại quan sẽ cần tuân thủ các hạn chế được nêu trong biểu cam kết dịch vụ kho bãi.
Thủ tục hành chính liên quan đến ĐKKD kho bãi hiện đang thiếu minh bạch và có sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư Các nhà đầu tư lớn, có ảnh hưởng trong các tổ chức như Hiệp hội, thường nhận được nhiều ưu đãi trong việc lập dự án và xin thuê đất Ngược lại, nhiều doanh nghiệp nhỏ gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn quỹ đất sạch và thông tin quy hoạch công khai, dẫn đến sự giảm sút lòng tin của các nhà đầu tư, bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài.
Theo Điều 1 Thông tư 84/2017/TT-BTC, khái niệm kho bãi bao gồm kho ngoại quan, kho bảo thuế, kho chứa tang vật vi phạm tại kho ngoại quan và kho hàng không kéo dài Cơ chế cấp phép thành lập kho ngoại quan và kho bảo thuế được giao cho Tổng cục Hải quan theo Nghị định 68/2016/NĐ-CP, trong đó quy định Điều kiện công nhận kho ngoại quan tại Điều 10.
Khu vực đề nghị công nhận kho ngoại quan cần phải nằm trong các khu vực quy định tại khoản 1 Điều 62 Luật Hải quan 2014, bao gồm các khu vực đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trong quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics trên toàn quốc, khu vực ưu đãi đầu tư, và khu vực phục vụ cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa nông, lâm, thủy sản sản xuất tập trung.
Kho ngoại quan được bao quanh bởi tường rào nhằm đảm bảo yêu cầu kiểm tra và giám sát của cơ quan hải quan, ngoại trừ những kho nằm trong khu vực cửa khẩu hoặc cảng đã có hệ thống tường rào riêng biệt.
Đảm bảo các điều kiện làm việc cho cơ quan hải quan bao gồm việc thiết lập nơi làm việc, khu vực kiểm tra hàng hóa, địa điểm lắp đặt trang thiết bị kiểm tra hải quan, và kho chứa tang vật vi phạm theo quy định của Bộ Tài chính.
Điều kiện về thương mại điện tử
Theo Nghị định 163/2017/NĐ-CP, thương nhân thực hiện hoạt động kinh doanh logistics qua phương tiện điện tử phải tuân thủ quy định về thương mại điện tử và các điều khoản pháp luật liên quan đến dịch vụ cụ thể.
Hiện nay, có hai cách hiểu về mối quan hệ giữa logistics và thương mại điện tử Cách hiểu thứ nhất cho rằng các hoạt động logistics áp dụng công nghệ thông tin và điện tử (e-logistics) nhằm giảm thiểu thủ tục và rào cản địa lý Cách hiểu thứ hai là logistics phục vụ cho kênh thương mại điện tử, tương ứng với các quy định về thương mại điện tử Bộ Công Thương đã định nghĩa thương mại điện tử theo Nghị định 52/2013/NĐ-CP và thay "hoạt động thương mại" bằng "hoạt động kinh doanh logistics", từ đó thể hiện sự tương ứng giữa e-commerce và e-logistics Tuy nhiên, báo cáo logistics Việt Nam năm 2018 chỉ phản ánh các dịch vụ logistics cho thương mại điện tử như chuyển phát nhanh, giao hàng COD và giao hàng chặng cuối.
Pháp luật về thương mại điện tử tại Việt Nam hiện nay được quy định chủ yếu bởi Nghị định 52/2013/NĐ-CP, Nghị định 08/2018/NĐ-CP, cùng với các Thông tư 47/2014/TT-BCT, 59/2015/TT-BCT và 21/2018/TT-BCT Doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh logistics qua phương tiện điện tử phải tuân thủ các quy định về website thương mại điện tử và sàn giao dịch thương mại điện tử Để thiết lập website bán hàng, doanh nghiệp cần có mã số thuế cá nhân và thông báo với Bộ Công Thương theo quy định tại Điều 53 Nghị định 52/2013/NĐ-CP Thủ tục thông báo này được quy định chi tiết tại Điều 9, 10 Thông tư 47/2014/TT-BCT Đối với website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, doanh nghiệp cần thành lập hợp pháp, có đề án cung cấp dịch vụ rõ ràng và đã đăng ký với Bộ Công Thương theo Điều 54 Nghị định 52/2013/NĐ-CP Quy trình đăng ký được quy định tại Điều 14, 15, 16 Thông tư 47/2014/TT-BCT Đối với ứng dụng bán hàng, chủ sở hữu phải thông báo theo Điều 2 Thông tư 21/2018/TT-BCT, và quy trình thông báo được quy định tại Điều 11, 12 Thông tư này Đối với ứng dụng cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, doanh nghiệp cũng cần đăng ký theo quy định tại Điều 2 Thông tư 21/2018/TT-BCT, với quy trình chi tiết tại Điều 14, 15 Thông tư này.
Nghị định 08/2018/NĐ-CP và Thông tư 21/2018/TT-BCT đã loại bỏ các quy định không rõ ràng về điều kiện cho cá nhân và tổ chức khi thiết lập website điện tử bán hàng và cung cấp dịch vụ thương mại điện tử Đối với doanh nghiệp dịch vụ logistics, các quy định thương mại điện tử chủ yếu tập trung vào điều kiện thiết lập website cung cấp dịch vụ và đăng ký ứng dụng cung cấp dịch vụ thương mại điện tử trong lĩnh vực logistics.
Thương nhân thực hiện hoạt động kinh doanh logistics qua phương tiện điện tử kết nối Internet hoặc mạng viễn thông di động phải tuân thủ quy định về thương mại điện tử Hình thức đăng ký hoặc thông báo sẽ được áp dụng cho ĐKKD trong trường hợp này.
Điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài
Tác giả đã tích hợp các điều kiện cụ thể cho nhà đầu tư nước ngoài theo quy định tại Nghị định 163/2017/NĐ-CP và các luật chuyên ngành vào từng dịch vụ cụ thể được đề cập.
Khoản 4 Điều 4 Nghị định 163/2017/NĐ-CP quy định rằng nhà đầu tư nước ngoài có thể lựa chọn áp dụng điều kiện đầu tư theo các điều ước quốc tế khác nhau về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics Điều này phản ánh sự hội nhập sâu rộng của Việt Nam với thế giới và việc tham gia ký kết các Hiệp định Thương mại tự do.
Dịch vụ logistics cần một hệ thống cung cấp đồng bộ và tích hợp nhiều loại dịch vụ, kết nối chuỗi logistics toàn cầu Để đáp ứng nhu cầu phát triển này, hệ thống pháp luật liên quan đến dịch vụ logistics phải được hoàn thiện và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Với những nội dung về ĐKKD DV logistics quy định tại Nghị định 163/2017/NĐ-CP và các văn bản pháp luật chuyên ngành quy định về ĐKKD của các
Chương 2 của bài viết chỉ ra rằng dịch vụ logistics đang gặp nhiều vấn đề, dẫn đến gia tăng chi phí cho doanh nghiệp và tạo áp lực cho cơ quan quản lý Nhà nước Nguyên nhân chính là do các quy định pháp luật còn mơ hồ, thiếu cụ thể và không phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ.
Pháp luật về ĐKKD dịch vụ logistics cần được hoàn thiện hơn nữa, nhằm điều chỉnh những vấn đề chưa phù hợp và tạo ra hành lang pháp lý thống nhất Điều này sẽ giúp nâng cao hiệu quả áp dụng và gia tăng tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ logistics.
Chương 3 của luận văn sẽ phân tích thực trạng dịch vụ logistics tại Việt Nam bằng cách so sánh với các yêu cầu của hệ thống pháp luật hiện hành Qua đó, luận văn sẽ chỉ ra những thiếu sót cần bổ sung và sửa đổi, đồng thời đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý cho dịch vụ logistics tại Việt Nam.