Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, nhiều nghiên cứu pháp lý và bài báo đã bàn về các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp từ góc độ vĩ mô đến chuyên sâu về từng loại hình doanh nghiệp Các tác phẩm này đã tiếp cận địa vị pháp lý của doanh nghiệp từ nhiều khía cạnh khác nhau Đến nay, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về doanh nghiệp nói chung, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, từ nhiều bình diện khác nhau, tiêu biểu là các nghiên cứu của một số tác giả nổi bật.
Bài viết "Vài bình luận về pháp luật doanh nghiệp tư nhân" của Ngô Huy Cương, đăng trên Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 26 (2010), phân tích thực trạng pháp luật doanh nghiệp tư nhân còn thiếu sót Tác giả đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết tranh chấp và khắc phục những bất cập trong việc điều tiết mối quan hệ của doanh nghiệp tư nhân, từ đó làm rõ bản chất pháp lý của loại hình doanh nghiệp này.
Luận văn thạc sĩ Luật học của Hoàng Yến, khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013, với đề tài "Địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay", tập trung nghiên cứu địa vị pháp lý và vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường Tuy nhiên, luận văn chưa liên kết với thực trạng phát triển doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam từ năm 2000 đến nay và thực tiễn thành lập doanh nghiệp tư nhân ở các địa phương.
Luận văn thạc sỹ Luật học của Nguyễn Thị Nga, khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2016, với đề tài "Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay", phân tích những điểm mới và hạn chế trong quy trình đăng ký doanh nghiệp Tác giả đề xuất các phương án giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tạo ra môi trường cạnh tranh và cởi mở cho nhà đầu tư, từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế trong nước.
Hiện nay, doanh nghiệp tư nhân chưa phát huy hết tiềm năng do thiếu kinh nghiệm trong nền kinh tế thị trường và chưa có khung chính sách rõ ràng từ Nhà nước Điều này gây khó khăn trong sản xuất kinh doanh và hạn chế khả năng đóng góp vào sự phát triển kinh tế quốc gia Cần có các giải pháp hiệu quả để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân phát triển bền vững.
Việc xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân là cần thiết thông qua nghiên cứu tổng quan về tổ chức và hoạt động của họ, đặc biệt trong bối cảnh phát triển doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam từ năm 2000 đến nay Luận văn với đề tài “Địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân” hy vọng sẽ đóng góp thiết thực vào các quy định pháp lý liên quan đến doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh luật
Chương 1 tập trung vào việc phân tích khái niệm và đặc điểm pháp lý của tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp tư nhân Phương pháp này giúp làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến quy định pháp luật về địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân.
Chương 2 sử dụng phương pháp phân tích luật để làm rõ tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp tư nhân, đồng thời đánh giá thực trạng quy định pháp luật liên quan đến địa vị pháp lý của loại hình doanh nghiệp này Bài viết cũng xem xét tính thống nhất, hợp lý và khả thi của các quy định pháp luật hiện hành đối với doanh nghiệp tư nhân.
Phương pháp tổng hợp được áp dụng nhằm chỉ ra những vướng mắc và bất cập trong pháp luật liên quan đến doanh nghiệp tư nhân, từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật này.
Tham khảo tài liệu từ sách, báo, các phương tiện thông tin đại chúng liên quan đến đề tài;
Suy diễn và quy nạp dựa trên kiến thức cũng như mức độ hiểu biết của cá nhân, kết hợp với việc kiểm soát thông qua thực nghiệm và số liệu thu thập được.
Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 02 chương:
Chương 1: Tổng quan về doanh nghiệp tư nhân
Chương 2: Tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp tư nhân, kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Danh mục tài liệu tham khảo
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
Khái niệm Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp đại diện là hình thức sở hữu tư nhân xuất hiện muộn hơn so với các hình thức doanh nghiệp khác.
Vào ngày 09/3/1988, Nghị định số 27/HĐBT-1988 của Hội đồng Bộ trưởng đã cho phép các cá nhân kinh doanh có lợi nhuận cao mở rộng quy mô hoạt động, chuyển đổi thành Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) hoặc hợp tác để hình thành các công ty tư doanh lớn hơn.
Mặc dù đã được pháp luật công nhận, nhưng phải mất hơn 10 năm sau mới có các quy định pháp lý hoàn chỉnh để xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân Luật Doanh Nghiệp năm đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp lý cho loại hình doanh nghiệp này.
Luật Doanh Nghiệp 1999 ra đời đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp luật cho các loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam Luật này không chỉ bổ sung mà còn cơ cấu lại các quy định liên quan đến doanh nghiệp tư nhân, bao gồm cơ cấu tổ chức, quy trình thành lập, cũng như quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp tư nhân.
Vào ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Doanh nghiệp mới, thay thế cho Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 và Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
1996 Luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời một lần nữa khẳng định vị trí vai trò của DNTN bên cạnh các loại hình doanh nghiệp khác
Vào ngày 26/11/2014, Luật doanh nghiệp năm 2014 đã được thông qua và có hiệu lực từ 01/7/2015 Luật mới không chỉ kế thừa các quy định phù hợp từ Luật doanh nghiệp năm 2005 mà còn sửa đổi, bổ sung nhiều điều khoản mới để khắc phục những hạn chế của luật cũ, nhằm tạo ra môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Khi nghiên cứu các quy định về DNTN, vấn đề đầu tiên cần làm sáng tỏ là định nghĩa DNTN và các đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp
Luật doanh nghiệp 2014 đã định nghĩa rõ ràng về doanh nghiệp tư nhân (DNTN) tại khoản 1 Điều 183, cho rằng DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình cho mọi hoạt động của doanh nghiệp Điều này chứng tỏ DNTN không phải là một thực thể độc lập, mà chủ doanh nghiệp phải đầu tư vốn và có quyền quyết định về việc bán hoặc cho thuê doanh nghiệp Trách nhiệm của chủ doanh nghiệp gắn liền với mọi hoạt động của doanh nghiệp trong suốt quá trình tồn tại Khi đăng ký kinh doanh, chủ doanh nghiệp cần kê khai số vốn ban đầu rõ ràng, từ đó xác định tư cách pháp lý, quyền và nghĩa vụ cơ bản của DNTN, nhằm hướng đến sự phát triển và quản lý hiệu quả hệ thống doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) được công nhận là chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, có quyền tham gia vào các hoạt động thương mại và quan hệ kinh tế Tuy nhiên, các hoạt động này phải phù hợp với địa vị pháp lý của doanh nghiệp, tức là trong phạm vi quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định Quyền và nghĩa vụ của DNTN được xác định theo bản chất pháp lý của nó và được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014 Bên cạnh đó, chủ DNTN cũng có thể phát sinh các quyền và nghĩa vụ khác thông qua các hành vi pháp lý, thiết lập quan hệ theo quy định của pháp luật dân sự, hành chính, lao động, môi trường và đất đai mà DNTN tham gia.
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là một đơn vị sản xuất và kinh doanh có quyền và nghĩa vụ như mọi doanh nghiệp khác, hoạt động độc lập theo quy định của pháp luật Vị trí và vai trò của DNTN trong nền kinh tế thể hiện sự phân công lao động xã hội, đồng thời xác định địa vị doanh nghiệp với tên riêng, tài sản và trụ sở giao dịch ổn định Việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp phù hợp với tính chất, quy mô và khả năng của người sáng lập là rất quan trọng, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
Bài viết này sẽ xem xét một cách thống nhất và chặt chẽ về địa vị pháp lý và thực trạng của Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) Trong khuôn khổ luận văn, tác giả sẽ phân tích chi tiết địa vị pháp lý của DNTN dựa chủ yếu vào các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014.
Đặc điểm của Doanh nghiệp tư nhân
1.2.1 Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ
Khoản 1 Điều 183 Luật doanh nghiệp 2014 quy định: “DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp” Ngay từ quy định này tính chất một chủ của DNTN đã được khẳng định rất rõ ràng
Theo Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014, cả cá nhân Việt Nam và cá nhân nước ngoài đáp ứng điều kiện quy định đều có quyền thành lập Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) Đây là một điểm mới so với Luật Doanh nghiệp 2005, khi mà các văn bản pháp luật trước đó như Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Đầu tư nước ngoài chỉ cho phép cá nhân Việt Nam thành lập DNTN, trong khi cá nhân nước ngoài phải thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
* Tính chất doanh nghiệp một chủ được thể hiện qua nhiều khía cạnh
Theo Điều 184 Luật Doanh Nghiệp 2014, vốn của Doanh Nghiệp Tư Nhân (DNTN) được quy định rõ ràng, trong đó chủ DNTN là người duy nhất chịu trách nhiệm về vốn đầu tư Vốn đầu tư này do chủ doanh nghiệp tự đăng ký và có thể bao gồm Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng và các tài sản khác Tuy nhiên, việc chỉ có một chủ sở hữu hạn chế khả năng huy động vốn, đặc biệt là vốn đầu tư, vì nếu phá vỡ nguyên tắc này, doanh nghiệp sẽ không còn được coi là DNTN.
Chủ DNTN có quyền điều chỉnh vốn đầu tư vào doanh nghiệp, bao gồm việc tăng hoặc giảm Mọi thay đổi về vốn đầu tư cần được ghi chép đầy đủ trong sổ kế toán Đặc biệt, nếu giảm vốn đầu tư xuống dưới mức đã đăng ký, chủ DNTN phải thực hiện thủ tục đăng ký với Cơ quan đăng ký kinh doanh trước khi tiến hành giảm vốn.
Quy định này khẳng định rằng chủ doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có quyền tự do quyết định về tài sản của doanh nghiệp, không chỉ giới hạn trong việc bán hoặc cho thuê doanh nghiệp.
- Về quyền quyết định đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Khoản 1 Điều 185 Luật doanh nghiệp 2014 quy định: “Chủ DNTN có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật” Quy định này đã làm cho DNTN khác với doanh nghiệp nhiều chủ, vì ở các doanh nghiệp đó, việc quyết định về hoạt động kinh doanh phải do ý chí của các chủ sở hữu chứ không phải do ý chí của một cá nhân, kể cả cá nhân đó nắm quyền quản lý, điều hành công ty
- Về quyền quản lý điều hành doanh nghiệp
1 Trích theo Ngô Huy Cương (2010), “Vài bình luận về pháp luật doanh nghiệp tư nhân”, Tạp chí Khoa học, Số 1 (26)
Khoản 2 Điều 185 Luật doanh nghiệp 2014 quy định: “ Chủ DNTN có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý doanh nghiệp thì vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp” Theo đó, chủ DNTN sẽ có toàn quyền quản lý, điều hành DNTN
- Về quyền sử dụng lợi nhuận và nghĩa vụ chịu rủi ro
Khoản 1 Điều 185 Luật doanh nghiệp 2014 quy định rõ chủ DNTN có quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật Đồng thời chủ DNTN cũng phải gánh chịu mọi rủi ro phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà không có sự chia sẻ với ai Khi chịu rủi ro, chủ DNTN tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình Cũng chính đặc điểm này nên DNTN không thích hợp với những ngành nghề kinh doanh đòi hỏi rủi ro cao, vì có thể dẫn đến phá sản đối với chủ doanh nghiệp
- Về quyền định đoạt của DNTN
Chủ doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến doanh nghiệp, bao gồm việc thành lập, giải thể, hoặc phá sản Họ cũng có quyền bán, cho thuê, và tạm ngừng hoạt động kinh doanh Điều này cho thấy DNTN là tài sản riêng của chủ doanh nghiệp, và họ hoàn toàn có quyền quản lý và định đoạt với tư cách là chủ sở hữu duy nhất.
1.2.2 Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân
Theo quy định tại Điều 74 Bộ luật dân sự 2015, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Được thành lập theo quy định của pháp luật (Bộ luật dân sự, luật khác có liên quan)
Khi thành lập doanh nghiệp tư nhân, chủ sở hữu cần nắm rõ hai đặc điểm quan trọng: Thứ nhất, chủ sở hữu là cá nhân duy nhất và chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp Thứ hai, doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân, do đó, mọi hoạt động kinh doanh đều gắn liền với cá nhân chủ sở hữu Việc hiểu rõ các đặc điểm này giúp chủ sở hữu quản lý và vận hành doanh nghiệp hiệu quả hơn.
Pháp nhân phải tuân theo cơ cấu tổ chức theo quy định của pháp luật, bao gồm việc có cơ quan điều hành Tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan này được quy định trong điều lệ hoặc quyết định thành lập pháp nhân Ngoài ra, pháp nhân có thể có các cơ quan khác theo quyết định của chính mình hoặc theo quy định của pháp luật.
- Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập
* Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhânthể hiện ở các điểm sau:
- Xét về điều kiện “được thành lập theo quy định của pháp luật”: DNTN được cá nhân thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp
Cơ cấu tổ chức của Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) được quy định bởi Điều 185 của Luật Doanh nghiệp, cho phép chủ DNTN trực tiếp quản lý hoặc thuê người khác để điều hành hoạt động kinh doanh.
- Xét về tính độc lập của tài sản và trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ:
Theo Điều 81 Bộ luật Dân sự 2015, tài sản của pháp nhân bao gồm vốn góp từ chủ sở hữu, sáng lập viên và thành viên, cùng với các tài sản khác mà pháp nhân có quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật và các luật liên quan.
Theo Luật Doanh nghiệp 2014, vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp tư nhân (DNTN) được chủ doanh nghiệp tự đăng ký Đồng thời, tài sản sử dụng cho hoạt động kinh doanh của DNTN không cần thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp.
Chủ DNTN có quyền điều chỉnh vốn đầu tư của mình trong quá trình kinh doanh, bao gồm cả việc tăng hoặc giảm vốn Đồng thời, họ phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản cá nhân cho mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp tư nhân
1.3.1 Quyền của Doanh nghiệp tư nhân
DNTN là một doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh Nghiệp 2014, do đó được hưởng các quyền chung tương tự như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh Tuy nhiên, mỗi quyền chung này sẽ có những quy định đặc thù khác nhau tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp Đối với DNTN, các quyền chung của doanh nghiệp được áp dụng theo quy định cụ thể của loại hình này.
DNTN có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của doanh nghiệp, đây là quyền cơ bản nhất của DNTN Do chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp, không có sự phân biệt giữa tài sản cá nhân và tài sản của DNTN Mặc dù DNTN có toàn quyền quản lý tài sản, thực tế chỉ có chủ DNTN mới đủ điều kiện và khả năng để thực hiện quyền này.
Việc công nhận quyền sở hữu tài sản cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, là một quy định quan trọng giúp các loại hình doanh nghiệp hoạt động hiệu quả trong nền kinh tế thị trường Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự quyết định và linh hoạt trong việc sử dụng vốn.
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có quyền tự do kinh doanh trong các ngành nghề không bị pháp luật cấm Họ có thể tự chọn lựa ngành nghề, địa bàn, hình thức đầu tư, đồng thời điều chỉnh quy mô và lĩnh vực kinh doanh Bên cạnh đó, DNTN cũng được phép tìm kiếm thị trường khách hàng và ký kết hợp đồng một cách chủ động.
Luật Doanh Nghiệp 2014 đã khẳng định quyền tự do kinh doanh của người dân, cho phép họ hoạt động trong các lĩnh vực mà pháp luật không cấm.
Sự thay đổi trong Luật doanh nghiệp đã giảm thiểu đáng kể rủi ro thương mại và pháp lý, đồng thời cắt giảm chi phí giao dịch Điều này không chỉ nâng cao độ an toàn mà còn khuyến khích sự chủ động và sáng tạo của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh Nhờ vậy, các doanh nghiệp có thể tận dụng tối đa tiềm năng và cơ hội để phát triển.
DNTN có quyền tự tìm kiếm khách hàng và ký kết hợp đồng, quyết định đối tác trên thị trường Điều này giúp DNTN tồn tại và phát triển trong môi trường kinh doanh cạnh tranh Chủ DNTN cần tìm kiếm những cơ hội đầu tư và đối tác có lợi Nhà nước không can thiệp vào mối quan hệ của DNTN, miễn là các quan hệ này tuân thủ pháp luật.
- DNTN có quyền chọn lựa hình thức và phương thức huy động vốn
Vốn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt đối với doanh nghiệp tư nhân (DNTN) khi nguồn vốn thường chỉ đến từ tài sản của một cá nhân Tình trạng thiếu thốn vốn là đặc điểm thường gặp ở DNTN Luật doanh nghiệp cho phép DNTN linh hoạt trong việc huy động vốn, và quyền này thuộc về chủ doanh nghiệp.
- DNTN có quyền kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu
Luật doanh nghiệp 2014 đã khẳng định quyền kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu là quyền tự nhiên của tất cả các doanh nghiệp, không chỉ riêng các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Doanh nghiệp có quyền tự quyết định phương án xuất nhập hàng hóa, dịch vụ mà không cần giấy phép xuất khẩu Điều này có nghĩa là doanh nghiệp tư nhân (DNTN) cũng được hưởng quyền này, tạo cơ hội cho họ cạnh tranh với các loại hình doanh nghiệp khác trên thị trường Khi pháp luật mở rộng quyền cho doanh nghiệp, họ có thể phát huy sự sáng tạo trong hoạt động kinh doanh, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh Do đó, việc chủ doanh nghiệp DNTN tối đa hóa sự sáng tạo trong kinh doanh là điều thiết yếu.
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có quyền tự chủ trong việc tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động phù hợp với nhu cầu kinh doanh Họ được phép áp dụng các phương thức quản lý khoa học hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh Quyền này thể hiện rõ nét hơn quyền tự do kinh doanh và khả năng tự quyết trong mọi vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của DNTN.
DNTN có quyền từ chối yêu cầu cung cấp nguồn lực không được pháp luật quy định cho bất kỳ cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào, ngoại trừ những đóng góp tự nguyện vì mục đích nhân đạo và công ích Ngoài ra, DNTN còn có quyền khuyến nại, tố cáo và tham gia tố tụng trực tiếp hoặc thông qua người đại diện theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) sở hữu tất cả các quyền của một doanh nghiệp thông thường, đồng thời còn có những quyền đặc thù riêng biệt, giúp DNTN trở thành một loại hình doanh nghiệp đặc sắc Những quyền này được pháp luật quy định cụ thể cho chủ sở hữu DNTN.
Theo Điều 186 Luật Doanh nghiệp năm 2014, chủ Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình Hình thức cho thuê này cho phép chủ DNTN chuyển quyền sử dụng doanh nghiệp đã đăng ký cho bên thuê trong một khoảng thời gian nhất định Khác với việc cho thuê một số tài sản như trụ sở hay cơ sở vật chất, việc cho thuê toàn bộ doanh nghiệp bao gồm cả quyền sử dụng tài sản vô hình như tên doanh nghiệp, thương hiệu, uy tín trên thị trường và hệ thống khách hàng.
Việc sử dụng tài sản trong hợp đồng thuê giữa chủ doanh nghiệp tư nhân (DNTN) và người thuê phụ thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên Cho thuê doanh nghiệp không làm thay đổi tư cách pháp lý hay chủ sở hữu của DNTN, do đó, chủ DNTN vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý trước các bên thứ ba trong suốt thời gian cho thuê Mối quan hệ giữa chủ DNTN và người thuê được xác lập dựa trên hợp đồng cho thuê, trong đó phân chia quyền và nghĩa vụ, xác định giới hạn trách nhiệm của các bên đối với rủi ro trong hoạt động kinh doanh của DNTN cho thuê.
Thứ hai, quyền bán Doanh nghiệp tư nhân
Quyền bán doanh nghiệp được quy định tại Điều 187 Luật Doanh Nghiệp 2014, cho phép chủ doanh nghiệp chuyển nhượng quyền sở hữu cho người khác Trước khi tiến hành bán, doanh nghiệp tư nhân cần thanh toán đầy đủ các khoản nợ và hoàn tất các hợp đồng đã ký kết Việc bán doanh nghiệp đồng nghĩa với việc chuyển nhượng toàn bộ tài sản còn lại Tuy nhiên, việc này không làm mất đi tư cách của chủ doanh nghiệp; sau khi bán, họ vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện.
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
Quy định pháp luật về mối quan hệ giữa Doanh nghiệp tư nhân và chủ Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là loại hình doanh nghiệp do một cá nhân sở hữu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản cá nhân về mọi hoạt động của doanh nghiệp Tài sản góp vốn vào DNTN không yêu cầu phải đăng ký chuyển quyền sở hữu, dẫn đến việc không có sự phân biệt giữa tài sản của chủ doanh nghiệp và tài sản của DNTN Mối quan hệ giữa chủ DNTN và doanh nghiệp là rất chặt chẽ, thể hiện sự gắn bó về tài sản và trách nhiệm.
Thứ nhất, quy định của pháp luật về DNTN Điều 183 Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định về DNTN như sau:
- DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp
- DNTN không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào
Mỗi cá nhân chỉ được phép thành lập một Doanh Nghiệp Tư Nhân (DNTN) và không được đồng thời giữ vai trò chủ hộ kinh doanh hay thành viên công ty hợp danh.
DNTN không có quyền tham gia góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong các loại hình doanh nghiệp như công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
DNTN (Doanh nghiệp tư nhân) là loại hình doanh nghiệp do một chủ thể duy nhất thành lập, tương tự như Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Chủ sở hữu DNTN đầu tư tài sản cá nhân vào hoạt động kinh doanh mà không có sự liên kết hay chia sẻ vốn với ai khác Trong DNTN, không có sự hùn vốn hay liên kết giữa nhiều thành viên, do đó, chủ DNTN là người duy nhất quyết định về tổ chức và quản lý doanh nghiệp Mặc dù chỉ có một chủ sở hữu, DNTN vẫn hoạt động như một tổ chức kinh tế, với người quản lý và nhân viên làm việc, đáp ứng các tiêu chí cơ bản của một doanh nghiệp.
Thứ hai, mối quan hệ về quản lý doanh nghiệp
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là loại hình doanh nghiệp do một cá nhân sở hữu, cho phép chủ doanh nghiệp có quyền quyết định toàn bộ hoạt động kinh doanh Chủ DNTN cũng có quyền sử dụng lợi nhuận sau thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo quy định pháp luật.
Chủ DNTN có quyền tự mình quản lý hoặc thuê người khác để điều hành hoạt động kinh doanh Tuy nhiên, nếu thuê Giám đốc quản lý doanh nghiệp, chủ vẫn phải chịu trách nhiệm về tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Chủ DNTN có thể đóng vai trò là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các tranh chấp doanh nghiệp trước Trọng tài hoặc Tòa án.
Chủ DNTN là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Những quyền hạn này của Chủ DNTN được pháp luật thừa nhận và quy định tại Điều 185 Luật doanh nghiệp 2014.
Chủ DNTN có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp theo quy định tại Điều 186 Luật Doanh nghiệp 2014 Trong thời gian cho thuê, DNTN vẫn giữ trách nhiệm pháp lý với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân (DNTN) có quyền bán doanh nghiệp của mình theo Điều 187 Luật Doanh Nghiệp 2014 Tuy nhiên, sau khi thực hiện giao dịch bán, chủ DNTN vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác phát sinh trước ngày chuyển giao, trừ khi có thỏa thuận khác giữa người mua, người bán và chủ nợ.
Mối quan hệ giữa Chủ DNTN và DNTN là gắn kết không thể tách rời, vì DNTN chỉ có một chủ sở hữu duy nhất Nếu chủ sở hữu thay đổi, DNTN sẽ chấm dứt tồn tại, và người mua phải đăng ký kinh doanh lại Sự thay đổi về số lượng chủ sở hữu cũng dẫn đến việc DNTN phải giải thể Trong trường hợp chủ DNTN qua đời hoặc không đủ điều kiện quản lý, DNTN sẽ phải giải thể Người thừa kế chỉ được thừa kế tài sản mà không được thừa kế tư cách chủ sở hữu Nếu người thừa kế muốn tiếp tục hoạt động kinh doanh, họ phải đăng ký kinh doanh lại Nếu số lượng chủ sở hữu tăng lên, DNTN cần chuyển đổi sang hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn với ít nhất hai thành viên.
Chủ doanh nghiệp tư nhân (DNTN) chỉ có quyền thành lập một DNTN duy nhất và không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh hay thành viên công ty hợp danh Trong trường hợp DNTN vẫn còn tồn tại về mặt pháp lý, Chủ doanh nghiệp không được phép đăng ký làm chủ một DNTN khác.
Thứ ba, mối quan hệ về sở hữu vốn doanh nghiệp
Chủ doanh nghiệp tư nhân (DNTN) chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản cá nhân cho mọi hoạt động của doanh nghiệp, dẫn đến việc không có sự phân tách rõ ràng giữa tài sản của chủ DNTN và vốn của DNTN Ranh giới này có thể dễ dàng bị xóa bỏ do ý chí chủ quan của chủ DNTN, điều này được quy định cụ thể tại Điều 184, Luật Doanh nghiệp năm.
Nguồn vốn ban đầu của Doanh Nghiệp Tư Nhân (DNTN) chủ yếu đến từ tài sản cá nhân của chủ sở hữu Chủ DNTN cần đăng ký chính xác tổng số vốn đầu tư, bao gồm vốn bằng Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng và các tài sản khác Đối với vốn bằng tài sản, cần ghi rõ loại tài sản, số lượng và giá trị còn lại của từng loại.
Tất cả vốn và tài sản, bao gồm cả vốn vay và tài sản thuê, cần được ghi chép đầy đủ trong sổ kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp theo quy định pháp luật.
Chủ DNTN có quyền điều chỉnh vốn đầu tư vào hoạt động kinh doanh, bao gồm việc tăng hoặc giảm Mọi thay đổi này phải được ghi chép đầy đủ trong sổ kế toán Nếu giảm vốn đầu tư xuống dưới mức đã đăng ký, chủ doanh nghiệp cần thực hiện thủ tục đăng ký với Cơ quan đăng ký kinh doanh trước khi thực hiện việc giảm vốn.
Thứ tư, mối quan hệ trong việc phân phối lợi nhuận
Thực trạng phát triển Doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến nay và thực tiễn thành lập Doanh nghiệp tư nhân tại tỉnh Bình Định
từ năm 2000 đến nayvà thực tiễn thành lập Doanh nghiệp tư nhân tại tỉnh Bình Định
2.2.1 Thực trạng phát triển Doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh thông qua việc hoàn thiện khung pháp lý, với những đổi mới mạnh mẽ Năm 2014, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự do kinh doanh trong các ngành nghề không bị cấm, đồng thời minh bạch hóa điều kiện kinh doanh và giảm rào cản gia nhập thị trường Chính phủ cũng chú trọng chuyển đổi từ tiền kiểm sang hậu kiểm, ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng như Luật đất đai, Luật thương mại, và Luật sở hữu trí tuệ Để nâng cao chất lượng phục vụ, Chính phủ đã triển khai các giải pháp cải cách hành chính, xóa bỏ rào cản và đảm bảo quyền tự do kinh doanh Các Nghị quyết như 19/NQ-CP, 35/NQ-CP, và 98/NQ-CP đã được ban hành nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và phát triển kinh tế tư nhân, coi đây là động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính phủ đang nỗ lực tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng và minh bạch cho tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt chú trọng vào việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân (DNTN) Để nâng cao hiệu lực pháp lý và thực hiện hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV, vào ngày 12 tháng 6 năm 2017, các biện pháp đã được triển khai.
Kỳ họp thứ 3 Quốc hội Khóa XIV đã thông qua Luật Hỗ trợ DNNVV (Luật số 04/2017/QH14), có hiệu lực từ 01/1/2018 Luật này không chỉ cung cấp các hỗ trợ cơ bản như tín dụng, thông tin, phát triển nguồn nhân lực, tư vấn và công nghệ mà còn đánh dấu bước tiến quan trọng trong chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Điều này được kỳ vọng sẽ tạo ra cú hích cho sự phát triển của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong thời gian tới.
Trong 5 năm qua, tình hình đăng ký doanh nghiệp tại Việt Nam đã có những tín hiệu tích cực với 504.073 doanh nghiệp mới được thành lập trong giai đoạn 2011-2016, gần bằng tổng số doanh nghiệp đăng ký trong 10 năm trước đó Sau khủng hoảng năm 2011, xu hướng thanh lọc doanh nghiệp diễn ra mạnh mẽ, khiến số lượng doanh nghiệp đăng ký mới giảm trong giai đoạn 2011-2014 Tuy nhiên, vào năm 2015 và 2016, số lượng doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động đã có sự phục hồi đáng kể.
Sự gia tăng mạnh mẽ của số lượng doanh nghiệp mới từ năm 2015 trùng với việc Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư 2014 có hiệu lực, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong kinh doanh Doanh nghiệp có quyền tự quyết về con dấu và tự do hoạt động trong các ngành nghề không bị cấm Luật doanh nghiệp 2014 cũng quy định thời gian đăng ký doanh nghiệp chỉ còn 03 ngày, dẫn đến năm 2017 ghi nhận 126.859 doanh nghiệp mới và 26.448 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động Tổng vốn đăng ký vào nền kinh tế đạt 3.165.233 tỷ đồng, trong đó vốn của doanh nghiệp mới là 1.295.911 tỷ đồng và vốn tăng thêm là 1.869.322 tỷ đồng Các Bộ ngành cũng chú trọng cắt giảm chi phí khởi sự doanh nghiệp, với lệ phí đăng ký giảm 50% từ ngày 20/1/2018 và miễn phí hoàn toàn cho đăng ký trực tuyến.
Trong hơn một thập kỷ qua, khu vực doanh nghiệp tư nhân (DNTN) đã phát triển mạnh mẽ về số lượng nhờ vào những cải cách đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Sự bùng nổ của doanh nghiệp tư nhân (DNTN) đã đóng góp quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, tạo ra nhiều cơ hội việc làm và thu hút lao động từ lĩnh vực nông nghiệp Đồng thời, DNTN cũng tham gia đầu tư vào các thị trường ngách, góp phần thúc đẩy sự phát triển sản xuất và kinh doanh.
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển và chuyển mình của nền kinh tế, với những vai trò thiết yếu trong giai đoạn 2015-2020.
Năm 2016, khu vực kinh tế tư nhân, với vai trò chủ đạo của doanh nghiệp tư nhân (DNTN), đã đóng góp gần 50% GDP, 33% thu ngân sách nhà nước và 45% vốn đầu tư toàn xã hội Tốc độ tăng năng suất lao động của khu vực này cũng duy trì ở mức ổn định.
Trong những năm gần đây, tốc độ tăng năng suất lao động (NSLĐ) của cả nước đã có nhiều biến động, tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân (DNTN), cho thấy sự ổn định hơn với mức tăng NSLĐ dao động từ 4,8% đến 5,8% trong các năm 2015 và 2016, so với khu vực kinh tế nhà nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Trong giai đoạn 2011-2016, trung bình mỗi năm, khu vực DNTN tạo hơn
Trong khối doanh nghiệp, có khoảng 500 ngàn việc làm, chiếm 62% tổng số việc làm Thu nhập bình quân của lao động trong khu vực này đã tăng từ 46 triệu đồng/năm vào năm 2011 lên 76 triệu đồng/năm vào năm 2016 Điều này cho thấy, mặc dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, các doanh nghiệp tư nhân vẫn kiên trì hoạt động và đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội quốc gia.
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) đóng vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp hỗ trợ, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam Chúng hình thành các cụm liên kết trong các lĩnh vực như điện tử, dệt may và thủy sản Sự phát triển của DNTN không chỉ tạo ra việc làm mà còn thúc đẩy hiệu quả kinh tế, quyết định sự tăng trưởng bền vững của GDP và nâng cao thu nhập cho người lao động.
Đa số doanh nghiệp tư nhân (DNTN) tại Việt Nam thuộc quy mô nhỏ và vừa, với 99% là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Trong đó, doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ chiếm hơn 90% tổng số doanh nghiệp trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp xây dựng, và thương mại, dịch vụ Mặc dù số lượng doanh nghiệp chiếm ưu thế, với hơn 96% tổng số doanh nghiệp, nhưng tổng tài sản cố định và đầu tư dài hạn của khu vực DNTN chỉ chiếm khoảng 40% tổng tài sản cố định và đầu tư dài hạn của toàn bộ khối doanh nghiệp.
Sự liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNTN) tại Việt Nam còn yếu, với chỉ 21% DNNVV tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, theo Báo cáo triển vọng phát triển châu Á của Ngân hàng Phát triển châu Á So với Thái Lan và Malaysia, lần lượt là 30% và 46%, tỷ lệ này cho thấy Việt Nam cần cải thiện mối liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp lớn hơn để nâng cao khả năng cạnh tranh trong khu vực.
Sự hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế tư nhân tại Việt Nam chủ yếu diễn ra sau một giai đoạn tích lũy ngắn, dựa vào vốn tự có và ít nhận được sự hỗ trợ từ Nhà nước Hiện nay, các tập đoàn này đang đối mặt với nhiều khó khăn về quản trị và mô hình phát triển, do phần lớn xuất phát từ quy mô doanh nghiệp gia đình Hơn nữa, các liên kết trong mô hình tập đoàn vẫn còn đơn giản và chưa được triển khai hiệu quả.
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật của Doanh nghiệp tư nhân
2.3.1 Bổ sung quy định của pháp luật về việc xác định sản nghiệp kinh doanh của Doanh nghiệp tư nhân
Chủ sở hữu DNTN chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả tài sản dùng cho kinh doanh và tài sản cá nhân Điều này có nghĩa là tất cả tài sản của chủ doanh nghiệp có thể bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp Tuy nhiên, việc xác định tài sản của chủ doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do quy trình kê khai tài sản và thu nhập còn hình thức Các quy định về minh bạch tài sản chưa đủ hiệu quả để giúp cơ quan Nhà nước theo dõi biến động tài sản của người có nghĩa vụ kê khai Hơn nữa, việc xác minh tính trung thực của kê khai tài sản và thu nhập vẫn chưa được thực hiện thường xuyên, và kết quả kê khai chưa được công khai rộng rãi.
Xác định tài sản của chủ Doanh Nghiệp Tư Nhân (DNTN) tại tỉnh Bình Định, bao gồm tài sản dùng cho kinh doanh và tài sản không dùng cho kinh doanh, hiện đang gặp nhiều khó khăn Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch - Đầu tư tỉnh Bình Định cung cấp 7 nguồn thông tin quan trọng để hỗ trợ quá trình này.
Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền cho thuê hoặc bán doanh nghiệp Tuy nhiên, việc phân định giữa "sản nghiệp kinh doanh" và tài sản dân sự của chủ doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong việc xác định giới hạn rõ ràng.
Để đáp ứng yêu cầu giao dịch thương mại và khắc phục những hạn chế trong việc kiểm soát tài sản, cần thiết phải có quy định chi tiết của pháp luật về kê khai và sử dụng tài sản kinh doanh trong doanh nghiệp Điều này sẽ tạo cơ sở pháp lý cho các giao dịch thương mại và xác định trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp, từ đó giảm thiểu rủi ro cho chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động.
2.3.2 Làm rõ mối quan hệ giữa chủ doanh nghiệp với người quản lý, điều hành Doanh nghiệp tư nhân
Khi nghiên cứu đặc điểm của Doanh Nghiệp Tư Nhân (DNTN), một vấn đề quan trọng cần xem xét là mối quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người quản lý, điều hành doanh nghiệp.
Chủ DNTN có quyền tự quản lý hoặc thuê người khác điều hành doanh nghiệp Tuy nhiên, nếu thuê Giám đốc, chủ doanh nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của DNTN theo quy định tại Khoản 2 Điều 185 Luật Doanh Nghiệp 2014.
Trong các giao dịch, giám đốc điều hành có quyền quyết định về hoạt động kinh doanh, và hợp đồng do đại diện doanh nghiệp ký kết có giá trị pháp lý mà không cần biết ai là chủ sở hữu Tuy nhiên, trách nhiệm của giám đốc điều hành cần được làm rõ, đặc biệt trong trường hợp chủ doanh nghiệp không có chuyên môn nhưng vẫn đầu tư và thuê chuyên gia Câu hỏi đặt ra là liệu chủ doanh nghiệp có phải chịu trách nhiệm hoàn toàn cho các quyết định của chuyên gia hay không Đây là vấn đề cần được các nhà làm luật xem xét và giải quyết.
2.3.3 Bổ sung các quy định pháp luật làm rõ bản chất pháp lý của chủ Doanh nghiệp tư nhân và Doanh nghiệp tư nhân
Trong quá trình nghiên cứu về vốn và tài sản của doanh nghiệp một vấn đề đặt ra về mặt lý luận cần được giải quyết đó là:
Vốn và tài sản của Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, tuy nhiên, trên phương diện pháp lý, tất cả tài sản đều phụ thuộc vào chủ sở hữu Khi DNTN được xem như một thực thể pháp lý, tài sản và vốn cần phải được quản lý qua người đại diện của DNTN Điều này đặt ra câu hỏi về quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp đối với tài sản, liệu có bị xâm phạm hay không, và liệu chủ doanh nghiệp có quyền định đoạt tài sản mà không cần sự đồng ý của người đại diện Hiện tại, pháp luật chưa có quy định cụ thể về những vấn đề này, do đó cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện.
2.3.4 Cần thống nhất quy định: Chủ Doanh nghiệp tư nhânkhông được đồng thời là thành viên công ty hợp danh và thành viên hợp danh có thể làm chủ Doanh nghiệp tư nhân
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 183 Luật doanh nghiệp 2014 thì chủ sở hữu DNTN không được đồng thời là thành viên công ty hợp danh.Tuy nhiên, tại Khoản
Theo Điều 175 của Luật, thành viên hợp danh có quyền làm chủ doanh nghiệp tư nhân nếu được sự đồng ý của các thành viên hợp danh khác.
Từ các quy định trên, cho thấy có hai sự việc như sau:
Một thành viên hợp danh trong công ty hợp danh có thể trở thành chủ doanh nghiệp tư nhân nếu nhận được sự đồng thuận từ các thành viên hợp danh khác.
Chủ doanh nghiệp tư nhân không thể trở thành thành viên hợp danh trong công ty hợp danh, dù có được sự chấp thuận nhất trí từ tất cả các thành viên hợp danh.
Hai sự việc nêu trên về bản chất giống nhau, đều cần sự nhất trí của các thành viên hợp danh, nhưng quy định pháp luật lại khác nhau, tạo ra sự mâu thuẫn Trong thực tế, có trường hợp thành viên hợp danh muốn thành lập doanh nghiệp tư nhân và đã nhờ luật sư tư vấn Sau khi xem xét, luật sư nhận định rằng quy định của Luật doanh nghiệp có mâu thuẫn và khuyên khách hàng nên lựa chọn thành lập các loại hình doanh nghiệp khác.
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là hình thức doanh nghiệp cần được khuyến khích, vì nó hiệu quả trong việc huy động vốn và biến các khoản tiền đang phân tán thành nguồn vốn đầu tư Bên cạnh đó, công ty hợp danh cũng là loại hình công ty phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và tâm lý kinh doanh tại Việt Nam.
Việc sửa đổi và thống nhất các quy định liên quan là cần thiết để tránh mâu thuẫn, từ đó giúp các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 về doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh được áp dụng hiệu quả hơn trong thực tiễn.