1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

TRUYỀN DẠY HÁT THEN CHO HỌC SINH NĂNG KHIẾU TẠI CUNG THIẾU NHI LẠNG SƠN LUẬN VĂN THẠC SĨ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC ÂM NHẠC

128 9 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Truyền Dạy Hát Then Cho Học Sinh Năng Khiếu Tại Cung Thiếu Nhi Lạng Sơn
Tác giả Hà Thị Minh Tuyền
Người hướng dẫn PGS. TS. Vũ Tự Lân
Trường học Trường Đại Học Sư Phạm Nghệ Thuật Trung Ương
Chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học Âm nhạc
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2018
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 128
Dung lượng 4,15 MB

Cấu trúc

  • Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN (12)
    • 1.1. Một số khái niệm (12)
      • 1.1.1. Then (12)
      • 1.1.2. Truyền dạy (12)
      • 1.1.3. Năng khiếu (13)
    • 1.2. Giá trị trong Then Lạng Sơn (14)
      • 1.2.1. Nguồn gốc xuất xứ (14)
      • 1.2.2. Giá trị nghệ thuật (16)
      • 1.2.3. Đặc điểm âm nhạc (19)
      • 1.2.3. Thời gian, không gian diễn xướng (27)
      • 1.2.4. Nhạc cụ trong hát Then (29)
      • 1.2.5. Múa trong Then (33)
      • 1.2.6. Phân loại bài hát Then (34)
    • 1.3. Thực trạng truyền dạy hát Then tại Lạng Sơn (35)
    • 1.4. Thực trạng dạy hát Then tại Cung Thiếu nhi Lạng Sơn (0)
      • 1.4.1. Đôi nét về Cung thiếu nhi Lạng Sơn (0)
      • 1.4.2. Thực trạng dạy và học hát Then tại Cung thiếu nhi Lạng Sơn (0)
      • 1.4.3. Thực trạng học sinh năng khiếu tại Cung thiếu nhi Lạng Sơn (0)
  • Chương 2: CÁC BIỆN PHÁP TRUYỀN DẠY HÁT THEN (41)
    • 2.1. Tiêu chí giáo viên (41)
      • 2.1.1. Năng lực hát Then (41)
      • 2.1.2. Kỹ năng sử dụng Tính tẩu (42)
      • 2.1.3. Năng lực ký âm, dàn dựng hát Then (44)
    • 2.2. Tiêu chí học sinh (45)
      • 2.2.1. Sức khỏe và hình thể (45)
    • 2.3. Tiêu chí lựa chọn bài (47)
      • 2.3.1. Nội dung (47)
      • 2.3.2. Nghệ thuật (47)
      • 2.3.3. Giáo trình (49)
      • 2.3.4. Một số bài hát dự kiến đưa vào chương trình truyền dạy (50)
    • 2.4. Một số phương pháp truyền dạy (50)
      • 2.4.1. Phương pháp làm mẫu, truyền dạy (50)
      • 2.4.2. Phương pháp phân tích, thuyết trình (52)
      • 2.4.3. Phương pháp sử dụng trực quan (54)
      • 2.4.4. Phương pháp dàn dựng hát Then (55)
      • 2.4.5. Phương pháp trải nghiệm (58)
    • 2.5. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị truyền dạy (65)
    • 2.6. Thực nghiệm (66)
      • 2.6.1 Mục đích thực nghiệm (66)
      • 2.6.2. Đối tượng thực nghiệm (66)
      • 2.6.3. Thời gian, địa điểm thực nghiệm (67)
      • 2.6.4. Nội dung thực nghiệm (67)
      • 2.6.5. Kiểm tra, đánh giá và kết quả thực nghiệm (67)
  • KẾT LUẬN (72)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (75)
  • PHỤ LỤC (79)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Một số khái niệm

Then là một loại hình nghệ thuật và sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng lâu đời, được người dân ưa chuộng Đây là hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, mang tính nguyên hợp Trong tiếng Hán, Then được gọi là Sliên (tiên), có nghĩa là người trời, thể hiện tín ngưỡng của người Tày, Nùng Lạng Sơn Những người làm Then được xem như sứ giả, giữ mối liên hệ giữa trần gian và Ngọc Hoàng, Long Vương Điệu hát Then không chỉ là âm nhạc mà còn là biểu hiện của thần tiên, với những nghệ sĩ đa tài vừa hát, vừa đánh đàn và múa điêu luyện, nhằm cứu nhân độ thế.

Người Tày gọi là Then, trong khi người Nùng gọi là sliên (tiên) Khi gia chủ mời bà Then đến làm lễ cầu cúng, giải hạn hay lễ cấp sắc, họ gọi đó là Hắt phựt, Hắt then, hay Lẩu phựt (Lẩu then) Lời cầu cúng của Then được thể hiện qua hát, khác với thầy Mo, Tào chủ yếu cúng bằng lời Khái niệm Then mới xuất hiện khoảng vài chục năm gần đây, trước đó chỉ có khái niệm Then hay hội Then Ban đầu, Then chỉ dùng trong các nghi lễ cầu cúng, nhưng theo thời gian, nó đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu cho những người yêu thích loại hình nghệ thuật này.

Khái niệm "Truyền" trong cuốn Từ điển Tiếng Việt của tác giả Hoàng

Phê được định nghĩa là hành động "để lại cái mình đang nắm giữ cho người khác" Truyền khẩu, hay truyền miệng, là quá trình truyền đạt thông tin bằng lời nói mà không có văn bản, diễn ra từ người này sang người khác và từ thế hệ này sang thế hệ khác Khái niệm dạy được định nghĩa là việc "truyền lại tri thức hoặc kỹ năng một cách có hệ thống và có phương pháp".

Truyền dạy là một quá trình quan trọng trong hoạt động dạy học, bao gồm cách tổ chức và chỉ đạo việc học Hoạt động này diễn ra đồng thời giữa giáo viên và học sinh, trong đó giáo viên đóng vai trò tổ chức và lãnh đạo Học tập của học sinh tương tự như quá trình nhận thức của các nhà bác học, nhưng khác ở chỗ học sinh khám phá chân lý mới cho bản thân dưới sự hướng dẫn của giáo viên, dù những chân lý đó có thể đã được biết đến trước đó.

Truyền dạy là quá trình chuyển giao tri thức hoặc kỹ năng từ người này sang người khác một cách có hệ thống và có phương pháp.

Trong bài viết "Thế nào là trẻ có năng khiếu" trên website Khoa học phổ thông, tác giả Lê Thị Ngọc Thương đã trích dẫn định nghĩa về năng khiếu từ các tác giả Vũ Dũng và Nguyễn Thị Ngọc Bích.

Theo từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng, năng khiếu được định nghĩa là sự kết hợp của các tư chất bẩm sinh, đặc điểm và tính chất riêng biệt, tạo thành nền tảng tự nhiên cho khả năng phát triển.

Cuốn Tâm lý học nhân cách của tác giả Nguyễn Ngọc Bích có ghi:

Năng khiếu là những yếu tố bẩm sinh, bao gồm các đặc điểm tâm sinh lý và khuynh hướng tâm lý, tạo điều kiện cho sự phát triển của năng lực và tài năng Theo tác giả Hoàng Phê, năng khiếu được định nghĩa là tổng thể những phẩm chất sẵn có giúp con người thực hiện tốt một hoạt động cụ thể mà chưa cần trải qua quá trình học tập hay rèn luyện, như trong trường hợp có năng khiếu âm nhạc.

Theo nghiên cứu của Trần Thu Hà và các cộng sự (2001), những tiêu chí xác định năng khiếu âm nhạc được đề xuất nhằm tuyển chọn học sinh cho các cơ sở đào tạo âm nhạc trên toàn quốc bao gồm khả năng nghe nhạc, cảm thụ âm nhạc, và khả năng biểu diễn Nghiên cứu này đóng góp quan trọng vào việc phát hiện và phát triển tài năng âm nhạc trong giới trẻ.

Thính giác âm nhạc, hay còn gọi là tai nghe, đóng vai trò quan trọng trong việc giúp người học âm nhạc phân biệt độ cao thấp và độ dài ngắn của âm thanh Nó cũng hỗ trợ trong việc nhận diện sắc thái và âm điệu, từ đó cải thiện trí nhớ âm nhạc và thúc đẩy sự phát triển liên tục trong lĩnh vực này.

Tiết tấu, nhịp điệu âm nhạc: liên quan những vấn đề về thời gian và chuyển động có tổ chức trong âm nhạc

Trí nhớ âm nhạc: khả năng ghi nhận và tái tạo âm thanh

Cảm xúc âm nhạc: phản xạ về cao độ, tiết tấu, cảm xúc (đoạn nhạc vui hay buồn, nhịp điệu giống hành khúc hay múa).

Giá trị trong Then Lạng Sơn

Hát Then là thể loại ca nhạc tín ngưỡng đặc trưng của các dân tộc Tày, Nùng, Thái, thể hiện hành trình lên thiên giới để cầu xin Ngọc Hoàng giải quyết những vấn đề của gia chủ.

Hát then là một nghệ thuật dân gian có nguồn gốc từ xa xưa, gắn liền với sự hình thành của các làng bản Mặc dù chưa có thông tin chính xác về thời điểm và người sáng tạo ra hát then, nhưng nhiều câu chuyện truyền miệng như sự tích về cây Tính tẩu của đồng bào Tày, Nùng tại Lạng Sơn vẫn được lưu giữ Những câu chuyện này, như Pụt Luông - Bụt lớn và Chàng Xiên Cân, thể hiện sự kết nối văn hóa và lịch sử của nghệ thuật hát then trong cộng đồng.

Trong cuốn "Then Tày" của Nguyễn Thị Yên, tác giả sử dụng tư liệu thực địa và so sánh về tôn giáo, tín ngưỡng giữa các nhóm Tày, Nùng ở Việt Nam và người Choang ở Trung Quốc để đưa ra giả thuyết về sự hình thành và biến đổi của Then Theo tác giả, sự hình thành của Then gắn liền với quá trình giao lưu và biến đổi của nhiều tầng lớp tín ngưỡng, trong đó sự xuất hiện của nhà Mạc ở Cao Bằng được coi là một mốc quan trọng đánh dấu sự hình thành Then Tày như hiện nay.

Có ý kiến cho rằng Then xuất phát từ một phường hát chuyên nghiệp của cung đình, theo các đoàn quan đi sứ "Tàu", dựa trên một số câu trong lời hát như "Pắt phu", "Khảm hải" Tuy nhiên, giả thuyết thuyết phục hơn là Then xuất hiện từ thời nhà Mạc, khi người dân chạy lên Cao Bằng vào cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII Từ đó, Then đã được lưu truyền qua các thế hệ và phát triển cho đến ngày nay.

Then ở Lạng Sơn có một lịch sử lâu dài, mặc dù không có ghi chép cụ thể về nguồn gốc của nó trước thế kỷ XX Theo cuốn "Tục lệ Lạng Sơn", các tài liệu về phong tục chỉ nhấn mạnh vai trò của thầy cúng mà không đề cập đến Then Nghiên cứu về các dòng Then cho thấy nó đã tồn tại trong đời sống của đồng bào Tày, Nùng tại Lạng Sơn từ rất lâu Qua thời gian và những biến động lịch sử, Then vẫn giữ được vị trí quan trọng trong văn hóa của người dân nơi đây.

Văn hóa tinh thần của người dân nơi đây vẫn duy trì sự sống mãnh liệt, thể hiện sức sống trường tồn của tinh thần và bản sắc dân tộc.

Then thu hút người nghe bởi sức cuốn hút thiêng liêng, tạo nên không gian ấm cúng bên bếp lửa, nơi gia đình và bạn bè quây quần Trong đêm khuya tĩnh lặng, âm thanh Tính hòa quyện cùng tiếng hát Then đưa con người vào thế giới mộng mơ, phản ánh những ước mơ giản dị của cuộc sống Hình ảnh này đã trở thành biểu tượng cho những đêm Then truyền thống ở Xứ Lạng, khẳng định vị trí quan trọng của Then trong các hoạt động văn hóa nghệ thuật hiện nay.

Then là một loại hình nghệ thuật tổng hợp bao gồm văn học, âm nhạc, mỹ thuật và múa, mang trong mình giá trị nghệ thuật to lớn, đặc biệt là Then cổ Thể loại này thường được sử dụng trong các nghi lễ như lễ kỳ yên, lễ giải hạn và lễ cầu tự Âm nhạc trong Then rất phong phú, thể hiện qua nội dung và độ dài khác nhau của từng chương đoạn, với lời ca thường được nhắc lại liên tục mà không có kết thúc trọn vẹn Sự kết hợp giữa giai điệu, tiết tấu và nhịp điệu là yếu tố quan trọng trong các buổi hát Then, nơi người trình diễn không chỉ hát mà còn đệm đàn và múa, thể hiện nội dung câu hát qua nhiều hình thức nghệ thuật khác nhau.

Trong một bài Then, có thể xuất hiện hai cách diễn đạt khác nhau, phụ thuộc vào cảm thụ của người biểu diễn Cách thứ nhất là tiết tấu nhanh, mạnh mẽ và sôi nổi, tạo nên sự dồn dập Cách thứ hai lại mang đến sự khoan thai, thanh thản, với nhịp điệu bay bổng khi đánh chậm, thể hiện sự tinh tế trong âm nhạc.

Lời ca trong Then chủ yếu được ghi chép bằng chữ Nôm và được truyền miệng qua nhiều thế hệ Mỗi bà Then, ông Then thường thêm bớt lời ca để phù hợp với nội dung và phong tục địa phương, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều dị bản khác nhau.

Ngôn ngữ trong hát Then cho thấy rằng thể loại này không có tác giả cụ thể, nhưng lại phản ánh sự giao lưu văn học giữa các dân tộc Lời ca của Then có sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các tộc người Một giả thuyết cho rằng những nhà nho học người Tày, Nùng có thể là tác giả đầu tiên của các lời ca Then, vì nhiều bài hát chứa đựng điển tích và từ Hán Nôm khó hiểu.

Xem như thời Tam Quốc tức cầm,

Như Tào Tháo ngồi hăm huyền ước

Lẩu Then - Lạng Sơn là một thể loại âm nhạc truyền thống độc đáo, trong đó có nhiều làn điệu được viết hoàn toàn bằng Tiếng Việt, như đoạn "Đàn nỉ non ngũ âm cửu khúc" Những giai điệu này không chỉ thể hiện sự phong phú của văn hóa địa phương mà còn góp phần gìn giữ bản sắc dân tộc.

Vui nhân tình khéo dục lòng thôi

Giải cơn buồn, vui chơi tiên thánh

Thắm duyên nàng mến cảnh say xưa

(Then Lẩu Khao sluông - Lạng Sơn) [19, tr.44]

Trong các chương đoạn Then, cảnh vật và động vật được nhân cách hóa để thể hiện nỗi khổ của chúng, phản ánh cuộc sống cơ cực của người dân dưới chế độ phong kiến Điều này mở ra cái nhìn sâu sắc về phong tục, triết lý và tôn giáo của người Xứ Lạng xưa Những người làm nghề Mo, Then được tôn trọng, và tiếng hát Then được xem như có sức mạnh chữa bệnh, mang lại tài lộc, thể hiện sự đa dạng văn hóa của dân tộc.

Ngày nay, hát Then đã trải qua nhiều biến đổi, không chỉ giữ nguyên các làn điệu cổ được trình diễn trong các buổi lễ tín ngưỡng mà còn xuất hiện nhiều làn điệu cải biên phù hợp với hoạt động văn hóa cộng đồng Điều này cho thấy hát Then không chỉ là nghệ thuật dân gian đặc trưng của dân tộc Tày, Nùng Lạng Sơn mà còn trở nên quen thuộc với các dân tộc khác sống tại các tỉnh vùng núi phía Bắc Việt Nam.

Yếu tố mỹ thuật trong Then được thể hiện qua trang phục, mũ, vật phẩm trang trí và màu sắc, chia thành hai mảng: trang trí trên y phục và đạo cụ, cùng với trang trí trong nghi lễ Trang trí trên y phục và đạo cụ có tính tẩu tuy cấu tạo đơn giản nhưng lại được chạm trổ tinh xảo với hoa văn hình đầu rồng, chim hoặc phượng, kèm theo tua rua ngũ sắc và hạt cườm bắt mắt Hoa văn trên y phục, khăn, mũ, đệm xóc nhạc, đệm ngồi và túi đựng đạo cụ được thêu bằng chỉ màu và kim tuyến với nhiều họa tiết khác nhau Đặc biệt, mũ Then được trang trí tỉ mỉ với thân mũ bằng vải đen, tua vải màu buông rủ, và các họa tiết phượng hoàng cùng mảnh gương tròn nhỏ trên đỉnh.

Thực trạng truyền dạy hát Then tại Lạng Sơn

Lạng Sơn là địa phương nổi bật trong việc bảo tồn nghệ thuật hát Then, một hình thức văn hóa truyền thống của người Tày và Nùng Hát Then không chỉ là một hoạt động văn hóa mà còn phản ánh chân thực tín ngưỡng và cuộc sống của người dân nơi đây Nghệ thuật hát Then xứ Lạng bao gồm hai loại hình chính: Then cổ và Then đặt lời mới.

Hiện nay, phong trào học hát Then - Tính tẩu tại tỉnh Lạng Sơn đã trở thành một nhu cầu thiết yếu, là món ăn tinh thần được quần chúng nhân dân yêu thích Nhiều tiết mục hát Then và Tính tẩu đã trở thành những màn biểu diễn tiêu biểu, thường xuyên xuất hiện trong các chương trình nghệ thuật chuyên nghiệp và không chuyên.

Các nghệ sĩ như Triệu Thủy Tiên và Hoàng Huy Ấm đang sáng tạo và đặt lời mới cho các điệu then cổ, phù hợp với cuộc sống hiện đại và thế hệ trẻ Một số làn điệu nổi bật bao gồm Điệu tính Văn Quan, Tràng Định biên cương, và Hoa hướng dương Hiện nay, tỉnh Lạng Sơn có hơn 50 CLB hát Then đàn tính với khoảng 500 hội viên, điển hình như CLB Cẩu Pung, CLB Chợ Bãi và Nộc Khảm Khắc Ông Nguyễn Phúc Hà, Giám đốc Sở VHTT&DL tỉnh, cho biết ngành sẽ tiếp tục mở lớp truyền dạy và tổ chức biểu diễn trong lễ hội Xuân Xứ Lạng, đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành để quảng bá và khuyến khích sáng tác mới cho các làn điệu Then cổ, nhằm thu hút sự quan tâm của giới trẻ trong việc gìn giữ di sản văn hóa này.

1.3.1 Thực trạng dạy hát Then tại Cung Thiếu nhi Lạng Sơn

1.3.1.1 Đôi nét về Cung thiếu nhi Lạng Sơn

Cung Thiếu nhi Lạng Sơn tọa lạc tại Số 1 đường Nhị Thanh, phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn Cung được thành lập theo Quyết định Số 17/2001 QĐ-UB ngày 16/5/2001, nhằm phục vụ nhu cầu vui chơi, học tập và phát triển cho thiếu nhi trong khu vực.

Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn Cắt băng khánh thành ngày 19/5/2001 đến

Năm 2018 đánh dấu 17 năm phát triển, trong đó Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn đã cử 6 cán bộ chuyên trách để tiếp cận và làm việc, đồng thời tuyển dụng 12 nhân viên hợp đồng và thành lập 2 phòng chuyên môn Ban Giám đốc bao gồm 2 người, với Giám đốc là Bí thư Tỉnh Đoàn kiêm nhiệm và Phó Giám đốc trực tiếp điều hành các hoạt động của Cung Thiếu nhi theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao.

Cung Thiếu nhi Lạng Sơn có nhiệm vụ tổ chức các hoạt động Đội và phong trào thiếu niên, nhi đồng, nhằm tạo ra môi trường giáo dục toàn diện Thông qua các mô hình văn hóa, văn nghệ và thể dục thể thao, cơ sở này giáo dục tinh thần và nâng cao thể chất cho thiếu nhi Đồng thời, Cung cũng nghiên cứu, tổng kết và hướng dẫn phương pháp công tác Đội, phát hiện năng khiếu và tài năng của trẻ em thông qua đào tạo và hoạt động thực tiễn.

Tổ chức các lớp học năng khiếu và câu lạc bộ cho thiếu nhi về văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao và các hoạt động giải trí bổ ích, nhằm phát hiện và phát triển năng khiếu của trẻ Các hoạt động này không chỉ thu hút đông đảo thiếu nhi tham gia mà còn góp phần bồi dưỡng kỹ năng và tạo sân chơi lành mạnh cho các em.

Tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn và Hội đồng Đội tỉnh trong việc hướng dẫn phương pháp hoạt động của các câu lạc bộ thiếu nhi và điểm vui chơi, đồng thời mở lớp tập huấn cho cán bộ Đội Quản lý hiệu quả cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ theo quy định, đồng thời duy trì và phát triển Câu lạc bộ Tổng phụ trách Đội Ngoài ra, Cung thiếu nhi còn tổ chức các hoạt động khác theo yêu cầu từ cấp trên.

1.3.1.2 Thực trạng dạy và học hát Then tại Cung thiếu nhi Lạng Sơn

Cung Thiếu nhi đã mời các nghệ nhân, nghệ sĩ và giáo viên âm nhạc có kinh nghiệm về hát Then để truyền dạy Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, nhiều nghệ nhân chưa xác định tiêu chí chọn bài hát phù hợp với tầm cỡ giọng của học viên, chủ yếu tập trung vào các bài Then cổ mang yếu tố tâm linh và tín ngưỡng, chỉ dạy những bài đã quen thuộc và từng được biểu diễn Đối với các giáo viên trẻ, do thiếu kinh nghiệm và chỉ học qua trường lớp, họ thường chỉ dạy những bài hát đã được học trong quá trình đào tạo chuyên nghiệp, dẫn đến sự hạn chế về vốn bài hát.

Dạy đánh Tính tẩu: phương pháp chính là truyền ngón, giáo viên làm mẫu, học sinh quan sát và bắt chước làm theo

Trong quá trình dạy Tính tẩu, giáo viên cần chú ý đến tư thế cầm và tư thế chơi để đảm bảo đúng và đẹp Bài tập luyện ngón là bước đầu tiên quan trọng cho học sinh, bao gồm bài tập dây buông và bài luyện ngón ngắn Tuy nhiên, giáo viên thường chưa sửa các ngón bấm 2, 3, 4, 5 của tay trái, dẫn đến âm thanh khi đánh bị bẹt, rè hoặc không đúng cao độ.

Cách đệm Tính tẩu khi hát: Trước khi ghép đàn với lời ca giáo viên thường hướng dẫn học sinh tập nhạc dạo đầu trước

VD3: Câu nhạc dạo đầu bài Sắc Xuân (phụ lục 1, tr 90)

Giáo viên thường yêu cầu học sinh chép lại tên hoặc ký hiệu các nốt nhạc, như Mi Son, La Si, dựa trên giai điệu của câu nhạc dạo.

La Son Các âm viết, Rê hay Rề được qui ước cách nhau một quãng 8 Sau khi học sinh đã đánh được phần nhạc dạo, giáo viên hướng dẫn học sinh đệm theo hát bằng cách sử dụng dây buông, dùng ngón trỏ tay phải để búng cả 3 dây cùng lúc vào các phách mạnh của mỗi ô nhịp Phương pháp đệm này là cách đơn giản nhất trong hát then, nhưng chỉ phù hợp với một số bài đơn giản hoặc những đoạn ngắn trong tác phẩm.

Dạy hát chủ yếu dựa vào phương pháp truyền khẩu, trong đó giáo viên sẽ hát mẫu toàn bộ bài hát trước, sau đó hướng dẫn từng câu một Những từ có luyến láy sẽ được giáo viên thể hiện một cách mượt mà và tình cảm Thông thường, các từ luyến láy được giáo viên quy ước rõ ràng để học sinh dễ tiếp thu.

Hát luyến lên được thực hiện bằng cách sử dụng mũi tên hướng lên hoặc hình vòng cung quay xuống, trong khi hát luyến xuống thì dùng mũi tên hướng xuống hoặc hình vòng cung quay lên.

Những từ ngân dài: dùng kí hiệu bằng số như 2,3,4 để đếm tương ứng với số phách cần ngân

Giáo viên hiện nay chưa xác định rõ tiêu chí chọn bài hát để giảng dạy, chủ yếu tập trung vào các bài Then cổ có yếu tố tâm linh.

Thực trạng dạy hát Then tại Cung Thiếu nhi Lạng Sơn

Trong quá trình dạy hát Then, giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc truyền đạt kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo cho học sinh Để đảm bảo hiệu quả giảng dạy, giáo viên cần phải có hiểu biết sâu sắc về hát Then, kỹ năng biểu diễn tốt, và am hiểu về tiếng dân tộc, tránh nói ngọng Điều này giúp học sinh nắm vững lời bài hát và hát đúng, không bị ngọng.

Giáo viên cần nắm vững kiến thức về hát Then, bao gồm việc hát nhiều làn điệu Then một cách chính xác về cao độ, trường độ và tiết tấu Để dạy một bài hát Then mới, giáo viên phải thuộc lời và giai điệu, chú ý đến cách phát âm những từ dân tộc khó Đặc biệt, phải phát âm đúng theo địa phương, như từ "người" trong tiếng Kinh được phát âm là "Gần" trong tiếng Tày ở Bắc Sơn, trong khi ở Văn Quan lại có cách phát âm khác.

"Cần" Vì vậy, giáo viên phải chú ý cách phát âm để không bị lẫn giữa cách phát âm của từng địa phương với nhau

Giáo viên cần nắm vững kỹ thuật hơi thở khi dạy hát Then, vì các bài hát Then thường có giai điệu mượt mà và kể lể Đối với những bài hát này, cần lấy hơi dài và sâu để hát liền mạch Trong khi đó, những bài Then nhanh yêu cầu lấy hơi nhanh, nhẹ nhưng vẫn đủ sâu Khi hát Then, không cần mở khẩu hình quá to như trong các bài nhạc mới, chỉ cần mở vừa đủ để âm thanh rõ lời và tròn tiếng Do đó, giáo viên cần hát rõ ràng, âm thanh không được quá nhỏ hay quá to, và tránh tình trạng bẹt tiếng.

CÁC BIỆN PHÁP TRUYỀN DẠY HÁT THEN

Tiêu chí giáo viên

Trong việc dạy hát Then, giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc truyền đạt kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo cho học sinh Để đạt được hiệu quả, giáo viên cần có hiểu biết sâu sắc về hát Then, sở hữu kỹ năng hát tốt, và thông thạo tiếng dân tộc mà không nói ngọng Điều này giúp học sinh hiểu rõ lời bài hát, hát đúng và tránh những lỗi phát âm không mong muốn.

Giáo viên cần có kiến thức vững về hát Then, bao gồm khả năng hát đúng cao độ, trường độ và tiết tấu của nhiều làn điệu Then Để dạy một bài hát Then mới, giáo viên phải thuộc lời và giai điệu, chú ý đến việc phát âm chính xác các từ dân tộc khó Điều này đặc biệt quan trọng vì cách phát âm có thể khác nhau tùy theo địa phương, chẳng hạn như từ "người" được phát âm là "Gần" trong tiếng Tày ở Bắc Sơn và có cách phát âm khác ở Văn Quan.

"Cần" Vì vậy, giáo viên phải chú ý cách phát âm để không bị lẫn giữa cách phát âm của từng địa phương với nhau

Giáo viên cần nắm vững kỹ thuật hơi thở khi dạy hát Then, vì các bài hát Then thường có giai điệu mượt mà và kể lể Đối với những bài hát này, cần lấy hơi dài và sâu, hát liền tiếng Trong khi đó, với những bài Then nhanh, cần lấy hơi nhanh, nhẹ và đủ sâu Không cần mở khẩu hình quá to như khi hát nhạc mới, chỉ cần mở vừa đủ để âm thanh rõ lời và tròn tiếng Do đó, giáo viên phải hát rõ lời, đảm bảo âm thanh phát ra không quá nhỏ hoặc quá to, tránh tình trạng bẹt tiếng.

2.1.2 Kỹ năng sử dụng Tính tẩu

Tính tẩu là yếu tố cốt lõi trong hát Then, bởi nếu thiếu nó, thể loại này sẽ không còn được gọi là hát Then hay diễn xướng Then Do đó, giáo viên cần phải thành thạo trong việc sử dụng Tính tẩu và xử lý các kỹ năng như vuốt, vê, búng một cách điêu luyện.

Yêu cầu đầu tiên đối với giáo viên dạy Tính tẩu là biết cách lên dây đàn phù hợp với từng loại bài Trong hát Then, có hai làn điệu phổ biến: Điệu Tàng bốc với dây lên theo quãng 4 đúng và Điệu Tàng nặm với dây lên theo quãng 5 đúng Khi chuyển dây đàn giữa quãng 4 và quãng 5, cần phải chỉnh dây hậu, tức là thay đổi độ cao của dây thấp (nốt Đô thành nốt Rê và ngược lại), trong khi giữ nguyên cao độ của dây tiền.

Để biểu diễn hát Then hiệu quả, giáo viên cần nắm vững cách cầm Tính tẩu phù hợp với từng tư thế như đứng, ngồi trên ghế hoặc ngồi chiếu Việc này giúp nâng cao chất lượng biểu diễn và tạo sự thu hút cho người xem.

Tư thế đứng khi biểu diễn yêu cầu thân hình thẳng, hai chân rộng bằng vai, mặt tươi cười hướng về phía trước, và bầu đàn được áp sát vào người, đặt cạnh hông.

Tư thế ngồi trên ghế đúng cách bao gồm việc khép hai chân, giữ lưng thẳng và mặt hướng về phía trước Bầu đàn nên được đặt trên đùi phải, tạo góc 45 độ với cơ thể để có thể biểu diễn hiệu quả.

Tư thế ngồi chiếu: Khi biểu diễn, hai chân xếp chéo vào nhau, thẳng lưng, mặt hướng về phía trước, bầu đàn đặt trên đùi phải

Khi chơi đàn, tư thế cầm cần đàn nghiêng 45 độ là tối ưu, với ngón cái tay trái giữ cần đàn và các ngón 2, 3, 4, 5 dùng để bấm Tay phải đặt ở vị trí tiếp giáp giữa bầu đàn và cần đàn, ngón cái ở trên, trong khi các ngón 3, 4, 5 hỗ trợ phía dưới, và ngón 2 được sử dụng để búng hoặc gẩy dây.

Hướng dẫn xác định vị trí các nốt nhạc Đô, Rê, Mi, Pha, Son, La, Si trên dây đàn Tính tẩu cho học sinh Cần lưu ý cách xác định vị trí nốt nhạc trên dây hậu khi chuyển từ quãng 4 sang quãng 5 hoặc ngược lại, giúp học sinh hiểu rõ hơn về cấu trúc âm nhạc.

Nhạc dạo là một đặc điểm chung của các bài hát Then, bao gồm phần dạo đầu và dạo giữa, hiếm khi chỉ có một trong hai phần này Phần dạo đầu, trước khi vào lời hát chính, giúp người hát bắt đúng giọng của bài hát Do đó, giáo viên cần luyện tập thành thục phần nhạc dạo, chú ý đến các kỹ thuật vuốt, láy và những câu luyến để đạt được sự chính xác và thuần thục.

Cách đệm tính tẩu: Giáo viên biết đệm thành thục những cách đệm

Tính tẩu như: Đệm dây buông, đệm tỉa nốt theo giai điệu, đệm hợp âm ở phách mạnh,

Cách đệm dây buông là phương pháp đệm đơn giản nhất trong hát, thường được áp dụng cho những học sinh mới bắt đầu học Tính tẩu Phương pháp này chỉ phù hợp với những câu nhạc ngắn trong bài, nhưng có thể gây nhàm chán do sự lặp lại đều đặn.

Để đệm nhạc hiệu quả, bạn sử dụng ngón trỏ tay phải để búng cả ba dây cùng lúc ra ngoài vào các phách mạnh của bài hát nhằm giữ nhịp khi hát Đối với các phách nhẹ, chỉ cần búng vào dây tiền mà không búng đồng thời cả ba dây như khi búng ra ngoài.

Cách đệm tỉa nốt theo giai điệu là phương pháp phổ biến nhất trong hát Then Để thực hiện, người chơi sử dụng ngón trỏ tay phải để đánh theo giai điệu của câu hát, có thể lược bớt nốt cho những câu có giai điệu luyến quãng xa Trong cách đệm này, Tính tẩu đóng vai trò điểm nốt theo giai điệu, kết hợp với việc đệm theo phách trong bài Hợp âm được đệm ở phách mạnh, với tay trái bấm các nốt trong hợp âm và tay phải thực hiện tỉa theo giai điệu lời ca.

Sử dụng kết hợp nhiều cách đệm trong một bài Then là rất quan trọng để tạo sự hấp dẫn cho người nghe Thay vì chỉ áp dụng một cách đệm đơn điệu, việc linh hoạt trong việc chọn lựa và sử dụng các cách đệm khác nhau cho từng đoạn nhạc và ý nhạc sẽ giúp bài hát trở nên sinh động hơn Người đệm cần nắm vững kỹ thuật và biết cách điều chỉnh để phù hợp với từng phần của bài hát, từ đó mang lại trải nghiệm thú vị cho khán giả.

Ví dụ minh hoạ cách đệm này như sau:

2.1.3 Năng lực ký âm, dàn dựng hát Then

Tiêu chí học sinh

2.2.1 Sức khỏe và hình thể

Học sinh ở độ tuổi thiếu nhi trải qua giai đoạn phát triển mạnh mẽ, với chiều cao tăng trung bình 4cm mỗi năm và trọng lượng cơ thể tăng 2kg hàng năm Các cơ quan trong cơ thể cũng đang trong quá trình hoàn thiện và phát triển.

Vì vậy, các em cần có sức khỏe tốt đảm bảo việc học tập không bị gián đoạn, giúp học sinh không bị quên bài,

Sự đồng đều về lứa tuổi và hình thể trong lớp học là yếu tố quan trọng cần lưu ý Khi học sinh có độ tuổi tương đồng, nhận thức của các em sẽ gần gũi hơn, giúp giáo viên áp dụng phương pháp giảng dạy hiệu quả hơn Ngoài ra, khi biểu diễn trên sân khấu, một nhóm diễn viên đồng đều về hình thể sẽ tạo ấn tượng tốt với khán giả nhờ sự đồng nhất về chiều cao và cân nặng.

Lứa tuổi từ 6 đến 15, đặc biệt là từ 6 đến 11, trẻ em có bộ máy hô hấp và giọng hát phát triển chậm, với dây thanh còn non nớt và tầm cữ giọng hẹp trong khoảng quãng 6 đến quãng 8 Âm sắc giọng hát chưa phân biệt giới tính Từ 11 đến 15 tuổi, giọng hát của học sinh Trung học cơ sở dần ổn định, với tầm cữ giọng phát triển hơn, có thể hát trong quãng 9 từ Si đến Đô 2 Mặc dù âm vực không rộng, giọng vẫn vang và trong trẻo Sự phân biệt âm sắc giọng giữa các em trai và em gái bắt đầu rõ rệt vào cuối cấp.

Với đặc điểm tầm cữ giọng như trên học sinh tại cung thiếu nhi Lạng Sơn có đủ khả năng học hát Then trong chương trình truyền dạy

Trong cuốn Phương pháp dạy học âm nhạc của tác giả Nguyễn Hải

Phượng nhận định rằng học sinh tiểu học có đặc điểm âm nhạc đặc biệt, với khả năng nghe và nhớ âm nhạc rất nhạy bén, cùng với giọng hát và hơi thở tự nhiên.

Học sinh tiểu học có khả năng tiếp thu nghiêm túc kiến thức và kỹ năng âm nhạc cơ bản, đồng thời cảm nhận được vẻ đẹp trong nghệ thuật.

Theo tác giả Nguyễn Hải Phượng, lứa tuổi Trung học cơ sở thể hiện khả năng cảm thụ âm nhạc độc lập và phức tạp Ở giai đoạn này, các cơ quan phát âm của học sinh đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện.

Học sinh Trung học cơ sở có khả năng nghe nhạc tốt, nhạy cảm và nhanh nhạy trong việc nhận biết cao độ, trường độ, âm hình tiết tấu và giai điệu Nếu được tiếp xúc thường xuyên với âm nhạc có phương pháp, các em có thể phát triển năng khiếu Mặc dù yêu thích hoạt động âm nhạc, lứa tuổi này thường hiếu động, nóng vội và thiếu tập trung Tại Cung thiếu nhi Lạng Sơn, các em nằm trong độ tuổi này đáp ứng tiêu chí học hát Then - Tính tẩu theo chương trình.

Tiêu chí lựa chọn bài

Nội dung hát Then cổ chủ yếu là các bài hát nghi lễ với chủ đề cầu cúng như giải hạn, cầu tự, cầu mùa, cầu an, không phù hợp với trẻ em Do đó, trong luận văn này, chúng tôi chọn những bài hát Then đã được cải biên và đặt lời mới để giảng dạy tại Cung Thiếu nhi Lạng Sơn.

Học sinh tại Cung thiếu nhi Lạng Sơn chủ yếu là học sinh tiểu học và Trung học cơ sở, với trình độ văn hóa và vốn hiểu biết còn hạn chế Để phù hợp với độ tuổi và nhận thức của các em, chúng tôi lựa chọn những bài hát dễ hiểu, đặc biệt là các bài hát Then mới và những bài quen thuộc, có nội dung gần gũi như ca ngợi quê hương, con người và cảnh sắc thiên nhiên.

Trong giáo trình Phân tích tác phẩm âm nhạc (2013) của tác giả Phạm

Âm vực là khoảng cách từ âm thấp nhất đến âm cao nhất mà một bài hát, bản nhạc, nhạc cụ, giọng người hoặc dàn nhạc có thể biểu diễn Đối với lứa tuổi thiếu nhi, âm vực thường không rộng, nằm trong khoảng quãng 6 đến quãng 9 Do đó, khi lựa chọn bài hát Then để dạy, giáo viên cần chú ý chọn những bài hát phù hợp với âm vực giọng của học sinh, tránh những bài có âm vực quá cao so với khả năng của các em.

Lời ca trong Then thường sử dụng ẩn dụ thông qua các hình tượng như đất, trời, cỏ cây, hoa lá và muông thú Phân tích một số bài bản và làn điệu cụ thể trong Then cho thấy rằng lời ca cổ chủ yếu được viết bằng tiếng dân tộc Tày và Nùng.

Noọng ơi oóc thồng noọng thổm chúp liền slai

Pây nà noọng béc bjải liền pjạ

Em ơi em ra đồng đội nón liền quai Đi ruộng em gánh sọt cùng dao [12, tr 107]

Lời ca trong hát Then được truyền miệng qua các thế hệ, dẫn đến nhiều dị bản phù hợp với phong tục từng địa phương Những bài hát này thường có ca từ dễ hiểu, lấy cảm hứng từ thể thơ dân tộc và được trau chuốt theo thời gian Bên cạnh các bài hát cổ, nhiều bài hát Then đã được cải biên và đặt lời mới, thu hút sự yêu thích từ công chúng Điều này đặc biệt quan trọng vì những bài hát này có nội dung dễ hiểu, phù hợp với nhận thức của học sinh.

Ngoài ra, lời ca của những bài hát Then cần ít hình ảnh mang tính ẩn dụ, để học sinh dễ tưởng tượng và dễ hiểu hơn

Thông thường một bài hát Then có cấu trúc như sau: Nhạc dạo đầu, lời ca, dạo giữa, lời ca, dạo kết

Nhạc dạo đầu trong bài Then có độ dài khác nhau, tùy thuộc vào từng bài hát Nó giúp người hát xác định đúng giọng và cao độ trước khi vào lời ca Sau khi hoàn thành phần dạo đầu, người hát sẽ chuyển sang lời ca và sau mỗi ý nhạc hoặc khổ nhạc, sẽ tiếp tục đánh dạo giữa để duy trì sự liên kết âm nhạc.

Dạo giữa đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các câu hát hoặc kết thúc một đoạn, giúp chuẩn bị cho phần hát tiếp theo hoặc tạo khoảng nghỉ Sau đó, người trình bày sẽ tiếp tục với phần lời ca của bài Then.

Dạo kết là phần thường thấy ở cuối bài hát Then, nhưng không phải tất cả các bài hát Then đều cần có đoạn này Chẳng hạn, bài Then mới "Sắc xuân" của nhạc sĩ Hoàng Huy Ấm không có phần dạo kết.

Bài hát có cấu trúc bao gồm: phần dạo đầu, tiếp theo là lời ca, sau đó là các đoạn dạo giữa xen kẽ với lời ca Cấu trúc này lặp lại nhiều lần và kết thúc bằng một đoạn dạo giữa, không có phần dạo kết.

Hiện tại, chưa có bộ giáo trình thống nhất nào về giảng dạy hát Then tại các trường chuyên nghiệp như Trường Trung Cấp Văn Hóa Nghệ Thuật Lạng Sơn, Cao Đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật Việt Bắc, và Đại học Văn Hóa Các cơ sở đào tạo như Cung Thiếu nhi, Trung tâm văn hóa, và các câu lạc bộ đều tự biên soạn giáo trình riêng, dẫn đến sự thiếu thống nhất trong phương pháp giảng dạy Do đó, cần thiết phải nhanh chóng hoàn thiện một bộ giáo trình chung về dạy hát Then ở cấp tỉnh hoặc khu vực, với tài liệu được biên soạn dựa trên cơ sở khoa học về âm nhạc và tính truyền thống của nhạc cụ trong loại hình nghệ thuật này.

Nhìn chung, giáo trình ở những cơ sở truyền dạy hát Then trong tỉnh Lạng Sơn hầu hết khi truyền dạy đều có những bài giảng như sau:

Hát Then là một loại hình nghệ thuật truyền thống có nguồn gốc từ các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, nổi bật với các thể loại như Then cổ và Then mới Nghệ thuật này thường gắn liền với các nhạc cụ đặc trưng như tính tẩu và chùm xóc nhạc, mỗi nhạc cụ đều có cấu tạo và vai trò riêng trong việc tạo nên âm thanh đặc sắc của hát Then Việc tìm hiểu về nguồn gốc, phân loại và nhạc cụ trong hát Then không chỉ giúp bảo tồn di sản văn hóa mà còn nâng cao nhận thức về giá trị nghệ thuật truyền thống của dân tộc.

Trong phần thực hành Tính tẩu, người chơi cần nắm vững cách cầm đàn và các tư thế chơi đúng, cũng như vị trí nốt nhạc trên đàn Việc lên dây và các kỹ thuật chơi Tính tẩu cũng rất quan trọng Người học có thể thực hành đánh một số bài Then nổi tiếng như Lạng Sơn quê noọng, Sắc xuân, Mùa hoa lê, Câu Then hội xuân, và Cằm slắng vằn xuân để nâng cao kỹ năng.

Giáo trình dạy hát Then tại Cung thiếu nhi Lạng Sơn được điều chỉnh với một số bài hát phù hợp với độ tuổi học sinh.

2.3.4 Một số bài hát dự kiến đưa vào chương trình truyền dạy

Chúng tôi lựa chọn những bài Then mới trong chương trình truyền dạy, bao gồm các bài đã được đặt lời mới bằng tiếng Kinh, nhằm giúp học sinh dễ dàng hiểu nội dung và lời ca của bài hát.

+ Mùa hoa lê (Then Tràng Định - Lạng Sơn)

+ Ai thăm Xứ Lạng (Then miền Tây và miền Đông - Cao Bằng)

Một số phương pháp truyền dạy

2.4.1 Phương pháp làm mẫu, truyền dạy Đây là phương pháp chủ yếu mà các nghệ nhân, nghệ sĩ, giáo viên thường sử dụng trong truyền dạy hát Then Với cách dạy và học này, học sinh tiếp cận với âm nhạc bằng tai nghe chứ không phải bằng mắt Học sinh được nghe và học các âm thanh bằng giọng thật của các nghệ nhân, nghệ sĩ Bởi vậy, ngay từ lúc bắt đầu học, học sinh đã làm quen được với tính chất của bài học, khi mà tính chất đó không thể hiện được trên bản kí âm có thể đọc được bằng mắt Với phương pháp này, người học không cần thuộc bản nhạc, nốt nhạc mà được người dạy tập cho từng câu, hướng dẫn cách hát, thể hiện được tính chất của bài Vì vậy, người học dễ dàng hơn trong việc thẩm thấu tính chất của bài trong cả quá trình học và sẽ "ngấm" nhanh hơn và nhớ lâu hơn

Phương pháp dạy học truyền khẩu khiến giáo viên chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân để giảng dạy, thay vì sử dụng bản nhạc chính thức Họ thường ghi chú tên nốt nhạc và sử dụng ký hiệu để hướng dẫn học viên cách chơi nhạc, đặc biệt trong việc truyền dạy Tính tẩu.

Phương pháp học này yêu cầu người học dựa hoàn toàn vào tai nghe và trí nhớ, giúp họ thuộc lòng và nắm vững tính chất của bài hát Mặc dù quá trình học diễn ra chậm, nhưng điều này mang lại lợi ích lớn, giúp người học hiểu sâu và thể hiện tốt hơn nội dung bài học Nhờ vậy, họ có thể ứng dụng hiệu quả các bài hát trong môi trường diễn xướng và phản ứng nhanh nhạy hơn trong các tình huống thực tế.

Trong việc truyền dạy hát Then, người dạy thường ngồi đối diện với người học, tạo không gian gần gũi và thân thiện Người học thường quây quần xung quanh, thậm chí cả hai có thể đứng cùng nhau để thực hành Phương pháp này thể hiện sự kết nối và tương tác giữa thầy và trò, giúp quá trình học tập trở nên hiệu quả hơn.

VD 4: Truyền dạy bài hát Then "Ai thăm Xứ Lạng", đặt lời: Kim Bông, ký âm: Duy Quang (phụ lục 1, tr 96)

Giáo viên dạy hát bằng cách trình bày toàn bộ bài hát, hướng dẫn học sinh đọc lời ca và giải thích những từ khó hiểu như "bác mẹ" và "hoa rừng hồi" Sau đó, giáo viên hướng dẫn học sinh tập hát từng câu theo phương pháp móc xích cho đến khi hoàn thành bài hát.

Khi chơi Tính tẩu, tư thế cầm đàn rất quan trọng Bầu đàn nên áp sát vào người, trong khi cần đàn được giữ chếch một góc 45 độ Ngón cái tay trái sẽ đỡ cần đàn, trong khi các ngón 2, 3, 4, 5 dùng để bấm phím Tay phải cầm ở vị trí tiếp giáp giữa bầu đàn và cần đàn, với ngón cái ở phía trên và các ngón 3, 4, 5 ở phía dưới, còn ngón 2 sẽ được sử dụng để gẩy hoặc búng dây.

Tập nhạc dạo là bước đầu quan trọng trong việc học hát, bao gồm nhạc dạo đầu, dạo giữa và nhạc kết Giáo viên sẽ đánh mẫu để học sinh quan sát và thực hiện theo, chú trọng vào việc luyện tập các nốt luyến và chùm ba Sau khi thành thạo nhạc dạo, học sinh sẽ học cách đệm Tính tẩu cho hát, với giáo viên trình diễn mẫu trước Trong quá trình này, học sinh sẽ ghép từng câu và đoạn theo lối móc xích cho đến khi hoàn thành bài hát Ví dụ, trong bài "Ai thăm Xứ Lạng", cách đệm tỉa theo giai điệu và đệm hợp âm ở phách mạnh được sử dụng Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là quá trình truyền thụ diễn ra chậm, khó khăn khi dạy những bài có khuôn khổ lớn, và mỗi giáo viên thường sáng tạo theo cách riêng, dẫn đến nhiều dị bản khác nhau Dù vậy, đây vẫn là phương pháp truyền dạy truyền thống phổ biến trong dạy hát Then.

2.4.2 Phương pháp phân tích, thuyết trình

Trước đây, việc truyền dạy hát Then chủ yếu dựa vào phương pháp làm mẫu truyền khẩu mà ít có sự phân tích hay thuyết trình về bài hát Tuy nhiên, hiện nay, khi dạy hát Then - Tính tẩu, giáo viên thường kết hợp phương pháp phân tích và thuyết trình, giúp người học dễ dàng hiểu các làn điệu Khi giới thiệu một bài hát mới hoặc kỹ năng đánh Tính tẩu mới, giáo viên sẽ phân tích các đặc điểm như tính chất của bài hát, cảm xúc vui buồn, tốc độ hát, cách ngắt nhịp và ngắt hơi, từ đó giúp người học nắm bắt nhanh chóng và dễ dàng hơn.

VD 5: Truyền dạy bài Then "Lạng Sơn quê noọng", đặt lời: Hoàng Trung Thu, ký âm: Duy Quang (phụ lục 1, tr.75)

Dạy hát: Giáo viên thuyết trình cho học sinh biết bài hát do tác giả

Bài hát do Hoàng Trung Thu đặt lời và Duy Quang ký âm ca ngợi vẻ đẹp của con người và cảnh sắc Lạng Sơn, được sáng tác theo điệu Pây tàng với giai điệu vui tươi và nhịp điệu vừa phải Nội dung bài hát phân tích rõ cách lấy hơi, ngắt nghỉ, cùng lý do cho từng điểm dừng, thường là khi câu hát kết thúc hoặc có nhiều luyến láy Bài cũng giải thích ý nghĩa của những từ khó như "Rùng chỏi," "xâm xâm," và "pền đao," giúp người nghe hiểu sâu hơn về văn hóa và ngôn ngữ địa phương.

Dạy đệm Tính tẩu là một quá trình quan trọng giúp học sinh xác định vị trí nốt nhạc trên các dây đàn, bao gồm dây hậu, dây giữa và dây tiền Học sinh sẽ được hướng dẫn cách sử dụng các kỹ năng như vuốt, vê ngón, và kỹ thuật luyến Ví dụ, khi phân tích kỹ năng vuốt ở ô nhịp 11, 16, cần sử dụng ngón tay cái của tay trái để giữ thăng bằng cho Tính tẩu, đồng thời lắc nhẹ cổ tay khi vuốt từ nốt si hoa mỹ xuống nốt La và ngược lại Đối với kỹ năng láy nốt chùm 3 ở ô nhịp 3, 4, 6, 8, học sinh sẽ dùng ngón trỏ giữ nốt chính (nốt La) và nhanh chóng miết ngón tay nhẫn vào cạnh dây đàn để tạo ra nốt láy (nốt si) Sau khi đã nắm vững phần hát và đệm Tính tẩu, học sinh sẽ được phân tích cách đệm dây buông từ câu "Pây tàu Cọm cáng ơi" và đệm tỉa theo giai điệu cho đến hết bài từ câu "Mác hồi Pi cón ơi" Phương pháp này giúp người học nhanh chóng nắm bắt nội dung, tính chất, làn điệu và nhịp độ của bài học một cách chính xác.

Giáo viên cần truyền đạt những lý thuyết phức tạp một cách đơn giản và dễ hiểu để học sinh tiếp thu tốt hơn Tuy nhiên, nếu giáo viên phân tích quá nhiều, học sinh có thể trở nên thụ động, chỉ nghe và tái hiện mà không tham gia tích cực Điều này dẫn đến sự chán nản và mệt mỏi, đồng thời giáo viên cũng khó đánh giá được trình độ nhận thức và khả năng lĩnh hội tri thức của từng học sinh.

2.4.3 Phương pháp sử dụng trực quan

Việc sử dụng phương pháp trực quan trong việc dạy hát Then, như xem và nghe băng đĩa nhạc của ca sĩ, nghệ sĩ biểu diễn, cũng như xem tranh và ảnh minh họa, sẽ tăng cường hứng thú cho người học Bên cạnh đó, việc áp dụng bản ký âm sẽ giúp bài học trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn Giáo viên có thể ghi âm các bài hát Then, bao gồm cả phần lời ca và phần đệm đàn, sau đó chuyển thể thành bản nhạc hoàn chỉnh hoặc sử dụng các bản nhạc đã được ký âm của những người đi trước Điều này sẽ hỗ trợ học sinh trong việc tự đọc nhạc, tập đàn, ghép lời ca và kết hợp vừa đàn vừa hát Phương pháp này có thể áp dụng hiệu quả trong việc truyền dạy bài hát Then "Lạng Sơn quê noọng".

Trước khi bắt đầu dạy hát, giáo viên nên giới thiệu nội dung bài hát bằng cách trình bày một số hình ảnh về danh lam thắng cảnh nổi tiếng như núi Tô Thị, chùa Tam Thanh, Nhị Thanh và sông Kỳ Cùng Điều này không chỉ tạo sự hứng thú và tò mò cho học sinh mà còn giúp dẫn dắt các em vào bài học mới một cách tự nhiên thông qua một số câu hỏi liên quan.

Giáo viên sử dụng băng đĩa nhạc hoặc video để cho học sinh nghe các ca sĩ và nghệ nhân hát, thay vì tự mình hát mẫu Điều này giúp học sinh cảm nhận rõ hơn về sắc thái và giai điệu của bài hát Then.

Giáo viên dạy đệm Tính tẩu có thể sử dụng video hoặc băng đĩa để cho học sinh nghe mẫu toàn bài, giúp việc tiếp thu bài học trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn Ngoài ra, giáo viên cũng có thể tự ghi âm bài hát Then, bao gồm cả phần lời và phần đệm đàn, sau đó ký âm thành bản nhạc hoàn chỉnh Điều này sẽ giúp học sinh tự đọc nhạc, tập đàn, và kết hợp vừa đàn vừa hát một cách hiệu quả.

Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị truyền dạy

Cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học đóng vai trò quan trọng trong quá trình giảng dạy và học tập, bao gồm các phương tiện vật chất và kỹ thuật khác nhau Hệ thống này bao gồm các công trình xây dựng như lớp học, bãi tập, trang thiết bị chuyên dụng và các phương tiện nghe nhìn Sự đa dạng và phong phú của cơ sở vật chất và trang thiết bị góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục và đáp ứng nhu cầu học tập của người học.

Cơ sở vật chất và thiết bị giáo dục đóng vai trò quan trọng trong quá trình dạy và học, giúp tổ chức hoạt động giáo dục khoa học và thu hút sự tham gia của học sinh Để triển khai các phương pháp dạy học hiệu quả, thiết bị dạy học cần phải đầy đủ và phù hợp Chúng không chỉ là công cụ hỗ trợ nhận thức mà còn là nội dung cần khám phá Hiện nay, cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học được xem là điều kiện thiết yếu cho nhiệm vụ giáo dục - đào tạo Sự phát triển nhanh chóng của chúng tạo ra tiềm năng sư phạm lớn, nâng cao chất lượng các phương pháp dạy học hiện đại.

Cơ sở vật chất và trang thiết bị đóng vai trò quan trọng trong việc truyền dạy Ban lãnh đạo Cung thiếu nhi luôn nỗ lực khắc phục khó khăn và đầu tư vào cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng giảng dạy Tuy nhiên, hiện tại, cơ sở vật chất còn thiếu và không đồng bộ, phòng học không phù hợp với công tác truyền dạy, nhiều trang thiết bị đã cũ và một số không còn sử dụng được.

Vì vậy, cần nâng cấp, cải tiến phòng học đảm bảo đủ ánh sáng phục vụ học tập, không gian rộng, thông thoáng, cách âm tốt

Để nâng cao chất lượng giảng dạy, cần đầu tư vào cơ sở vật chất và trang thiết bị thiết yếu như máy chiếu, máy tính kết nối internet, loa đài, tăng âm, micro và nhạc cụ như tính tẩu, xóc nhạc Việc bổ sung các loại băng đĩa nhạc hát Then từ các vùng miền như Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang sẽ giúp học sinh có cơ hội nghe và so sánh, từ đó nhận diện được sự tương đồng và khác biệt giữa các làn điệu Then của từng vùng.

Hiện nay, xu hướng đổi mới phương pháp dạy học đang diễn ra mạnh mẽ, với cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục Điều này nhằm đáp ứng yêu cầu ngắn hạn và lâu dài trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thực nghiệm

Chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm các biện pháp truyền dạy hát Then tại Cung thiếu nhi Lạng Sơn để đánh giá tính khả thi và hiệu quả của chúng trong quá trình giảng dạy.

Chúng tôi đã lựa chọn những học sinh lớp hát Then tại Cung Thiếu nhi Lạng Sơn, những em có năng khiếu ca hát, khả năng cảm nhận âm thanh tốt, và có sự tương đồng về nhận thức cũng như độ tuổi để thực hiện thí nghiệm cho đề tài.

Chúng tôi chia thành hai nhóm: Nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng

Nhóm 1 (thực nghiệm): Sử dụng một số biện pháp truyền dạy đã được đề xuất trong chương 2, gồm 6 học sinh học lớp hát Then tại Cung thiếu nhi Lạng Sơn

Nhóm 2 (đối chứng): Sử dụng phương pháp truyền dạy cũ, gồm 7 em học sinh đang theo học lớp hát Then tại Cung thiếu nhi Lạng Sơn

Giáo viên tiến hành thực nghiệm: Hà Thị Minh Tuyền

2.6.3 Thời gian, địa điểm thực nghiệm

Thời gian thực nghiệm: được chúng tôi tiến hành trong năm học 2016

- 2017, bắt đầu từ tháng 5/2016 đến tháng 10/2017 Địa điểm: Cung thiếu nhi Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn

Chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm với các nội dung sau trong quá trình thực nghiệm, tiến hành đề tài:

Kết hợp phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại là cần thiết để nâng cao hiệu quả giáo dục Việc sử dụng các phương tiện dạy học như âm thanh, loa, máy vi tính và băng đĩa nhạc về hát Then sẽ giúp bồi dưỡng phương pháp học tập cho học sinh Đầu tư và nâng cấp cơ sở vật chất cùng trang thiết bị phục vụ dạy học là yếu tố quan trọng để tạo môi trường học tập tốt nhất cho học sinh.

Tổ chức các hoạt động ngoại khóa về hát Then bao gồm việc thành công trong hội thi hát Then, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về hát Then, và thành lập một câu lạc bộ hát Then nhằm phát triển và gìn giữ văn hóa dân gian.

2.6.5 Kiểm tra, đánh giá và kết quả thực nghiệm

Sau khi thực nghiệm, chúng tôi đã phát phiếu khảo sát để thu thập ý kiến của học sinh về giáo án mới và các hoạt động ngoại khóa trong quá trình học tập Tổng cộng có 15 phiếu được phát ra và thu về, với 9 câu hỏi trong khảo sát Kết quả cho thấy sự quan tâm và phản hồi tích cực từ học sinh đối với phương pháp giảng dạy mới này.

Câu hỏi về chương trình truyền day: có 13 phiếu trả lời chương trình truyền dạy phù hợp, chiếm tỉ lệ 86,6%

Khi không có giáo viên hướng dẫn, 66,7% người tham gia khảo sát cho biết họ có thể tự tập được bài, trong khi 33,3% cho rằng họ có thể tập được nhưng không hiệu quả.

Câu hỏi về các phương pháp truyền dạy của giáo viên : có 9 phiếu trả lời tiếp thu tốt, chiếm tỉ lệ 60%; 6 phiếu trả lời bình thường, chiếm tỉ lệ 40%

Trong cuộc khảo sát về việc hướng dẫn học hát Then, có 6 phiếu trả lời cho biết có thể hướng dẫn, chiếm 40%, trong khi 9 phiếu còn lại cho rằng có khả năng hướng dẫn, chiếm 60%.

Câu hỏi về cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng cho việc học tập: có

12 phiếu trả lời đáp ứng tốt, chiếm tỉ lệ 80%; 3 phiếu trả lời bình thường, chiếm tỉ lệ 20%

Kết quả khảo sát về việc biểu diễn trên sân khấu cho thấy 40% người tham gia rất tự tin với 6 phiếu trả lời, trong khi 33,3% thể hiện sự tự tin với 5 phiếu Bên cạnh đó, có 26,7% người cho biết họ chưa tự tin, với 4 phiếu trả lời.

Kết quả khảo sát về việc xem băng đĩa nhạc của ca sĩ, nghệ nhân cho thấy có 9 phiếu trả lời "rất thích", chiếm 60%, trong khi 6 phiếu trả lời "thích", chiếm 40%.

Câu hỏi về việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa: có 12 phiếu trả lời rất bổ ích, chiếm tỉ lệ 80%; 3 phiếu trả lời bổ ích, chiếm tỉ lệ 20%

Câu hỏi về kiến nghị trong quá trình học tập: có 9 phiếu kiến nghị Cung thiếu nhi tiếp tục tổ chức các hoạt động ngoại khóa, chiếm tỉ lệ 60%;

6 phiếu kiến nghị tổ chức các chương trình giao lưu với các CLB hát Then trong tỉnh, giao lưu với Đoàn Nghệ thuật

2.3 BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ HỌC TẬP SAU THỰC NGHIỆM

Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %

Dựa trên kết quả thực nghiệm từ phiếu khảo sát và thành tích học tập, cùng với số lượng học sinh tham gia các hoạt động ngoại khóa và các biện pháp truyền dạy hát Then đã được áp dụng, chúng tôi nhận thấy một số kết quả tích cực đối với học sinh như sau:

Học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt trong việc hiểu biết và biểu diễn hát Then, với kết quả học tập ngày càng cao Các em tiếp thu nhanh và thể hiện khả năng hát nhiều bài hát Then tốt hơn so với trước, đồng thời hiểu sâu về nghệ thuật hát Then và cách diễn tấu cây Tính tẩu Đặc biệt, đa số học sinh cảm thấy tự tin khi biểu diễn trên sân khấu và thể hiện sự hứng thú cũng như nhiệt tình hơn trong quá trình học tập.

Trong mỗi bài giảng, sự sáng tạo ngày càng phong phú hơn, thu hút sự hứng thú của học sinh nhiều hơn so với trước đây Qua quá trình truyền dạy, tôi đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, từ đó tăng cường nhiệt huyết và tình yêu nghề Điều này thúc đẩy tôi tìm tòi, sáng tạo và nghiên cứu các phương pháp giảng dạy mới, phù hợp với từng lứa tuổi tại Cung thiếu nhi.

Lãnh đạo và cán bộ đã nhận thức rõ tầm quan trọng của hát Then, từ đó đưa ra các định hướng và giải pháp nhằm phát triển và truyền bá nghệ thuật này rộng rãi hơn Mục tiêu không chỉ hướng đến thanh thiếu niên mà còn mở rộng đến nhiều lứa tuổi khác trong cộng đồng tỉnh nhà trong thời gian tới.

Có những giải pháp mới nhằm khắc phục những nhược điểm, những yếu kém còn tồn đọng

Trong chương 2 của luận văn, chúng tôi đã triển khai các biện pháp truyền dạy hát Then tại Cung Thiếu nhi Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn Những biện pháp này được xây dựng dựa trên khảo sát và nghiên cứu từ thực tiễn cũng như lý luận.

Ngày đăng: 12/07/2021, 02:35

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Triều Ân (2000), Then Tày - Những khúc hát, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Then Tày - Những khúc hát
Tác giả: Triều Ân
Nhà XB: Nxb Văn hóa dân tộc
Năm: 2000
2. Triều Ân, Hoàng Quyết, Hoàng Đức Toàn (1996), Từ điển văn hóa cổ truyền dân tộc Tày, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển văn hóa cổ truyền dân tộc Tày
Tác giả: Triều Ân, Hoàng Quyết, Hoàng Đức Toàn
Nhà XB: Nxb Văn hóa dân tộc
Năm: 1996
3. Dương Kim Bội (1978), Lời hát then, Nxb Văn hóa Việt Bắc Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lời hát then
Tác giả: Dương Kim Bội
Nhà XB: Nxb Văn hóa Việt Bắc
Năm: 1978
4. Hoàng Đức Chung (1999), Lẩu Then Bjoóc mạ, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lẩu Then Bjoóc mạ
Tác giả: Hoàng Đức Chung
Nhà XB: Nxb Văn hóa dân tộc
Năm: 1999
5. Nguyễn Văn Cường (2012), Lý luận dạy học hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận dạy học hiện đại
Tác giả: Nguyễn Văn Cường
Nhà XB: Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội
Năm: 2012
6. Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hóa tâm linh, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa tâm linh
Tác giả: Nguyễn Đăng Duy
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 2001
7. Vũ Cao Đàm (2006), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
Tác giả: Vũ Cao Đàm
Nhà XB: Nxb Khoa học và Kỹ thuật
Năm: 2006
8. Bế Viết Đẳng (1992), Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam, Viện dân tộc học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam
Tác giả: Bế Viết Đẳng
Năm: 1992
9. Địa chí Lạng Sơn (1999), Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Địa chí Lạng Sơn
Tác giả: Địa chí Lạng Sơn
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc Gia
Năm: 1999
11. Linh Thị Hảo (2011), Nghiên cứu cách đệm Tính tẩu trong hát Then của người Tày ở Cao Bằng, Khóa luận tốt nghiệp ngành Đại học Sư phạm âm nhạc Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật TW Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu cách đệm Tính tẩu trong hát Then của người Tày ở Cao Bằng
Tác giả: Linh Thị Hảo
Năm: 2011
12. Nguyễn Thị Hằng (2011), Nghiên cứu, bảo tồn và phát triển nghệ thuật Hát Then đàn Tính của dân tộc Tày, Nùng Lạng Sơn, Đề tài nghiên cứu Khoa học và Công nghệ cấp Tỉnh, Lạng Sơn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu, bảo tồn và phát triển nghệ thuật Hát Then đàn Tính của dân tộc Tày, Nùng Lạng Sơn
Tác giả: Nguyễn Thị Hằng
Năm: 2011
14. Phạm Lê Hòa (2004), Những âm điệu cuộc sống, Nxb Âm nhạc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những âm điệu cuộc sống
Tác giả: Phạm Lê Hòa
Nhà XB: Nxb Âm nhạc
Năm: 2004
15. Phạm Lê Hòa (2013), Giáo trình Phân tích tác phẩm âm nhạc, Nxb Âm nhạc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Phân tích tác phẩm âm nhạc
Tác giả: Phạm Lê Hòa
Nhà XB: Nxb Âm nhạc
Năm: 2013
16. Vi Hồng (1993), Khảm Hải, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khảm Hải
Tác giả: Vi Hồng
Nhà XB: Nxb Văn hóa dân tộc
Năm: 1993
18. Phạm Tú Hương, Đỗ Xuân Tùng, Nguyễn Trọng Ánh (2005), Lý thuyết âm nhạc cơ bản, Nxb Học viện âm nhạc Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý thuyết âm nhạc cơ bản
Tác giả: Phạm Tú Hương, Đỗ Xuân Tùng, Nguyễn Trọng Ánh
Nhà XB: Nxb Học viện âm nhạc Quốc gia
Năm: 2005
19. Dương Thị Lâm (2002), Nghệ thuật Then của người Tày ở Lạng Sơn, Luận văn thạc sĩ Khoa học Văn hóa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghệ thuật Then của người Tày ở Lạng Sơn
Tác giả: Dương Thị Lâm
Năm: 2002
20. Nguyễn Thị Loan (2006), Âm nhạc cổ truyền Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Âm nhạc cổ truyền Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Thị Loan
Nhà XB: Nxb Đại học Sư phạm
Năm: 2006
21. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1986), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam
Tác giả: Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn
Nhà XB: Nxb Khoa học Xã hội
Năm: 1986
22. Hoàng Lương (1981), Một số nghi lễ cầu mùa của các dân tộc ít người ở miền Bắc nước ta, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số nghi lễ cầu mùa của các dân tộc ít người ở miền Bắc nước ta
Tác giả: Hoàng Lương
Nhà XB: Nxb Văn hóa dân tộc
Năm: 1981
23. Hoàng Văn Ma - Lục Văn Páo (1984), Từ điển Việt - Tày - Nùng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Việt - Tày - Nùng
Tác giả: Hoàng Văn Ma - Lục Văn Páo
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 1984

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w