Tính c ấp thiết của đề tài
Thành phố Hồ Chí Minh, một trong những đô thị lớn nhất Việt Nam, đang phát triển mạnh mẽ về kinh tế và các ngành công nghiệp, dịch vụ, xây dựng Tuy nhiên, sự phát triển này đi kèm với vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng Sự gia tăng hoạt động kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến môi trường, dẫn đến tình trạng suy thoái của các nguồn nước mặt Nhiều con kênh lớn như Nhiêu Lộc – Thị Nghè, Vàm Thuật và Bến Nghé hiện đang bị ô nhiễm nặng nề, phản ánh thực trạng đáng lo ngại về ô nhiễm môi trường tại thành phố.
Nghé, Tàu Hủ, Tham Lương là những địa điểm mà các nhà sinh học ở Việt Nam đang tiến hành kiểm tra và quản lý chất lượng nước mặt thông qua phương pháp sinh học Phương pháp này sử dụng nhóm Động vật không xương sống cỡ lớn để đánh giá chất lượng nguồn nước, đang ngày càng được áp dụng rộng rãi Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện, chẳng hạn như nghiên cứu của Trương Thanh Cảnh và Ngô Thị Trâm Anh (2007) về việc sử dụng Động vật không xương sống cỡ lớn để đánh giá chất lượng nước trên bốn hệ thống kênh chính tại TP.HCM.
Sử dụng Động vật không xương sống cỡ lớn để đánh giá chất lượng môi trường nước sông Phú Lộc, TP.Đà Nẵng (Nguyễn Văn Khánh và cộng sự, 2008)…
Kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè là một trong những kênh bị nhiễm bẩn ở
Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè tại TP.HCM đã được cải thiện đáng kể nhờ dự án Vệ sinh môi trường thành phố Tuy nhiên, từ khi dự án đi vào hoạt động, chưa có nghiên cứu nào đánh giá chất lượng nước của kênh thông qua nhóm động vật không xương sống cỡ lớn Vì vậy, đề tài nghiên cứu “Sử dụng động vật đáy không xương sống cỡ lớn để đánh giá chất lượng nước kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè sau khi dự án Vệ sinh môi trường đi vào hoạt động” được thực hiện nhằm cung cấp thông tin quan trọng về tình trạng nước tại khu vực này.
Tình hình nghiên c ứu
Việc sử dụng quan trắc sinh học qua nhóm động vật không xương sống đã được nghiên cứu từ giữa thế kỷ XIX và ngày càng phổ biến từ Châu Âu sang Châu Á Tại Việt Nam, nghiên cứu đầu tiên do Nguyễn Văn Tuyên thực hiện vào năm 1988, sử dụng vi tảo và động vật đáy để đánh giá chất lượng nước sông rạch TP.HCM Đến năm 2000, Nguyễn Xuân Quýnh và Steve Tilling đã phát triển hệ thống tính điểm BMWP cho Việt Nam, gọi là BMWP VIET.
Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để đánh giá chất lượng nước thông qua nhóm động vật không xương sống ở nhiều vùng miền của Việt Nam Chẳng hạn, Nguyễn Vũ Thanh đã tiến hành đánh giá chất lượng nước sông Cầu phía Bắc Việt Nam trong giai đoạn 2001-2002, trong khi đó, Nguyễn Văn Khánh và các cộng sự của ông đã thực hiện nghiên cứu về chất lượng nước bề mặt cánh đồng Xuân Thiều tại TP Đà Nẵng vào năm 2007 Ngoài ra, còn có các đánh giá khác liên quan đến chất lượng nước sông Sài Gòn ở khu vực quận.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Mai (2003) đã đánh giá chất lượng nước trên bốn hệ thống kênh chính tại TP.HCM, trong khi Trương Thanh Cảnh và Ngô Thị Trâm Anh (2006) cũng thực hiện đánh giá tương tự Bên cạnh đó, Nguyễn Vũ Thanh cùng các cộng sự (2002) đã khảo sát chất lượng nước trong hệ sinh thái đất ngập nước tại vùng Đồng Tháp Mười.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài nhằm đánh giá chất lượng nước kênh Nhiêu Lộc – Thị
Sau khi hoàn thiện dự án vệ sinh môi trường, nhóm Động vật đáy không xương sống cỡ lớn đã được áp dụng Đồng thời, cần đề xuất các giải pháp cải thiện phương pháp đánh giá chất lượng nước và nâng cao công tác quản lý môi trường nước của thành phố.
Nhi ệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu bao gồm những nội dung:
- Khảo sát thành phần loài và số lượng ĐVĐKXS cỡ lớn (số loài, mật độ loài, loài ưu thế)
- Tính độ đa dạng thông qua các chỉ số đa dạng sinh học, từ đó nhận xét, đánh giá chất lượng nguồn nước khu vực khảo sát
- Phân tích mối tương quan giữa nhóm ĐVĐKXS cỡ lớn với chỉ số ASPT và hệ thống điểm BMWP.
Phương pháp nghiên cứu
Gồm các phương pháp: o Thu thập thông tin, số liệu tham khảo về:
- Tình hình nghiên cứu, ứng dụng Động vật không xương sống cỡ lớn ở thế giới và Việt Nam.
- Điều kiện tự nhiên, chế độ thủy văn của hệ thống kênh Nhiêu Lộc –
Thị Nghè, điều kiện kinh tế - xã hội tác động đến lưu vực. o Khảo sát, thu thập mẫu
- Thu và bảo quản mẫu ĐVĐKXS cỡ lớn.
Khảo sát đặc điểm môi trường khu vực nghiên cứu và tính chất bề mặt nền đáy là rất quan trọng Việc phân tích mẫu giúp định danh các loài hoặc bộ nhóm động vật đáy cỡ lớn Đồng thời, phân tích số liệu liên quan cũng cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình trạng và sự đa dạng sinh học của khu vực khảo sát.
- Cấu trúc, thành phần, mật độ loài, loài ưu thế
- Tính các chỉ số sinh học:
Chỉ số đa dạng Shannon – Wiener
Chỉ số giàu về loài Margalef
Chỉ số tương đồng Bray – Curtis
K ết quả đạt được của đề tài
- Xác định được thành phần loài, mật độ phân bố, cấu trúc quần xã và tính chất đa dạng của nhóm ĐVĐKXS cỡ lớn.
- Đánh giá chất lượng nước kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè thông qua các chỉ số sinh học.
C ấu trúc của luận văn
- Chương 1 Tổng quan tài liệu
- Chương 2 Tổng quan về lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè
- Chương 3 Phương pháp nghiên cứu
- Chương 4 Kết quả và thảo luận
TỔNG QUAN VỀ LƯU VỰC KÊNH NHIÊU LỘC - THỊ NGHÈ 14 2.1 Đặc điểm vị trí địa lý
Đặc điểm khí hậu
Lưu vực kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè thuộc TP.HCM, nơi có khí hậu đặc trưng của thành phố này Khí hậu tại đây chịu ảnh hưởng của vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, dẫn đến nhiệt độ và độ ẩm cao, cùng với sự ổn định khí hậu qua các năm Khu vực này hầu như không gặp thiên tai, bão lụt, chỉ có những tác động nhẹ không đáng kể.
Miền Nam có hai mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau và mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 Thời tiết tại đây tương tự như các mùa khác trong khu vực.
Mùa hè tại khu vực này chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam, diễn ra từ tháng 5 đến tháng 12, với 90% lượng mưa trung bình hàng năm, khoảng 300 mm/m² mỗi tháng Mưa thường xảy ra hằng ngày, cùng với nhiệt độ cao trung bình 32°C và độ ẩm đạt 79,7% Vào mùa đông, khu vực này lại chịu tác động của gió mùa Tây Bắc.
+ Gió mùa vào mùa đông thường diễn ra từ tháng 1 đến tháng 3, nhiệt độ thấp
(21 0 C vào tháng 1), độ ẩm thấp hơn và có mưa nhỏ [5]
2.2.1 Nhi ệt độ không khí
Nhiệt độ không khí trong năm biến động không nhiều, với biên độ từ 5 - 7 độ C và nhiệt độ trung bình năm đạt 27 độ C Tuy nhiên, sự chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm lại khá lớn, khoảng 7 - 10 độ C vào mùa khô và 5 - 9 độ C vào mùa mưa.
Bảng 2.1 Thống kê về nhiệt độ tại TP.HCM [5]
Nhiệt độ trung bình năm 27
Nhiệt độ cao nhất đã từng được ghi nhận
Nhiệt độ thấp nhất đã từng được ghi nhận 13,8
Dao động nhiệt độ trong tháng nóng nhất
Dao động nhiệt độ trong tháng lạnh nhất
Nhiệt độ trung bình trong tháng nóng nhất 28,8
Nhiệt độ trung bình trong tháng lạnh nhất 25,7
Nguồn: số liệu do Môi trường và Tài nguyên (CEFINEA) tổng hợp
Lượng mưa về mùa mưa chiếm 95% cả năm, lượng mưa múa khô chỉ chiếm 5% cả năm
Bảng 2.2 Lượng mưa bình quân [5]
Trạm I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Năm
Nguồn: Viện Môi trường và Tài nguyên (CEFINEA) tổng hợp
Mùa mưa tại khu vực này thường kéo dài từ ngày 10 tháng 5 đến 30 tháng 10, với lượng mưa trung bình hàng năm từ 120 đến 140 mm, chia thành 10 đến 12 ngày mỗi tháng Tháng có lượng mưa lớn nhất đạt 308 mm, và những trận mưa lớn thường gây ngập úng nghiêm trọng, đặc biệt từ cuối tháng 9 đến tháng 10.
8 Những cơn mưa lớn xảy ra trong thời gian ngắn Lượng mưa giảm dần từ thượng nguồn đến hạ nguồn các con sông trong khu vực
Vào mùa khô, TP.HCM chịu tác động của gió mùa Đông Bắc, với tháng 2 là tháng khô nhất trong năm Cường độ mưa trong 5 năm và 10 năm được ước tính lần lượt là 114 mm và 128 mm.
Lượng mưa phân bố không đồng đều giữa các vùng:
+ Vùng Bắc và Đông Bắc: 1900 - 2000 mm/năm
+ Vùng trung tâm thành phố: 1600 - 1900 mm/năm
+ Vùng Nam và Đông Nam: 1200 - 1300 mm/năm
Bảng 2.3.Các đặc trưng chế độ mưa (Trạm đo mưa Tân Sơn Nhất)[5]
Các yếu tố đặc trưng chế độ mưa Trị số
Lượng mưa lớn nhất năm 1.979 (mm)
Lượng mưa lớn nhất năm 2.718 (mm)
Lượng mưa nhỏ nhất năm 1.553 (mm)
Số ngày mưa trung bình năm 154 (ngày)
Lượng mưa trung bình tháng lớn nhất 338 (mm) (tháng 9)
Số ngày mưa trung bình tháng lớn nhất 22 (ngày) (tháng 9)
Lượng mưa trung bình tháng nhỏ nhất 3 (mm)
Lượng mưa cực đại 177 (mm)
Lượng mưa tháng cực đại 603 (mm)
Nguồn: Công ty thoát nước đô thị
Lượng nắng trung bình hàng năm đạt 6,2 giờ mỗi ngày, với thời gian nắng tối đa lên tới 8 giờ trong các tháng 2 và 3, trong khi tháng 10 có thời gian nắng tối thiểu là 5 giờ Sự thay đổi của lượng mây cũng là một yếu tố quan trọng trong điều kiện thời tiết.
65 - 80% vào tháng 7, 8, 9 và 40% vào tháng 2 Sấm sét, gió thường có vào mùa mưa khoảng 6, 7 ngày/tháng nhưng hiếm xảy ra vào các tháng còn lại [5]
Độ ẩm trung bình hàng năm đạt 78%, với mức 85% trong mùa mưa và 75% trong mùa khô Độ ẩm tối đa có thể lên tới 99%, trong khi mức tối thiểu là 30% Trong các tháng mùa khô, độ ẩm có xu hướng giảm.
Độ bay hơi trung bình hàng năm được ghi nhận bằng ống Piche khoảng 1.300 mm Trong mùa khô, độ bay hơi hàng tháng có thể đạt từ 130 đến 160 mm, trong khi vào mùa mưa, mức này dao động từ 70 đến 90 mm Đặc biệt, sự bay hơi dưới ánh nắng mặt trời cao hơn 1,3 lần so với giá trị đo bằng ống Piche, với mức ước tính từ 1.600 đến 1.800 mm.
Bảng 2.4 Độ ẩm tương đối tại TP.HCM [5]
Tháng Độ ẩm tương đối (%)
Trung bình Lớn nhất Nhỏ nhất
Nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn TP.HCM
Đặc điểm thủy văn
TP HCM có hai sông chính tiếp nhận nước mưa và nước thải:
Sông Đồng Nai, lớn nhất khu vực Đông Nam Bộ, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp và tiêu thoát nước cho lưu vực rộng khoảng 23.000 km², bao gồm cả TP.HCM Lưu lượng nước của sông vào mùa kiệt dao động từ 75 m³/s đến 200 m³/s.
Sông Sài Gòn bắt nguồn từ lưu vực Lộc Ninh, nằm ở biên giới Việt Nam - Campuchia, chảy qua Thủ Dầu Một và dài tổng cộng 200 km, trong đó 80 km chảy qua thành phố Hồ Chí Minh Sông có bề rộng từ 225 đến 370 m và độ sâu lên đến 20 m, sau đó hợp với sông Đồng Nai tại nam Cát Lái, tạo thành sông Nhà Bè chảy ra biển Lưu lượng trung bình của sông đạt 85 m³/s, với độ dốc chỉ 0,7%.
Kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè gồm hai phần chính là kênh Nhiêu Lộc (thượng nguồn) và kênh Thị Nghè (hạ nguồn), cùng với một số kênh nhỏ như rạch Cầu Bông và rạch Văn Thánh Lưu vực của kênh này có diện tích khoảng 33 km², trải dài qua 7 quận của TP.HCM và đổ vào sông Sài Gòn.
Kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè cùng các chi lưu như rạch Miễu, rạch Ông Buông và rạch Văn Thánh có tổng chiều dài lên đến 18.186 m, trong đó rạch chính dài 9.470 m và các chi lưu dài 8.716 m Kênh này chảy xuyên suốt Thành phố, tiếp nhận nước thải từ các quận Phú Nhuận, quận 3, quận Tân Bình, quận Bình Thạnh và một phần quận Gò Vấp.
Kênh có diện tích khoảng 10 ha và khối lượng nước vào mùa cạn vào lúc chân triều khoảng 700.000 m³ Kênh chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều sông Sài Gòn, với sự thay đổi mực nước hai lần trong ngày Tuy nhiên, do kênh có chiều dài ngắn, lòng kênh nông hẹp và uốn khúc, ảnh hưởng của thủy triều giảm nhanh dọc theo kênh Khi triều rút ở sông Sài Gòn, mực nước ở đầu nguồn Nhiêu Lộc vẫn cao hơn mức bình thường.
Chế độ thủy văn của sông Sài Gòn bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi thủy triều, kéo dài đến Bến Than, cách hợp lưu với sông Đồng Nai khoảng 60 km Lưu lượng thủy triều tại khu vực kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè, nằm cách 15 km thượng nguồn, cũng cho thấy sự tác động rõ rệt của hiện tượng này.
20 hợp lưu sông Sài Gòn và sông Đồng Nai) vào khoảng ± 3.000 m 3 /s Ở Phú Cường
(45 km thượng ngồn vàm kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè), lưu lượng thủy triều khoảng ± 1.500 m 3 /s Lưu lượng thủy triều của kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè ở vàm kênh vào khoảng ± 75 m 3 /s
Nguồn nước của kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè được hình thành từ nhiều yếu tố như nước mưa, nước thải và nước thủy triều, và nó chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các điều kiện cụ thể của lưu vực Mỗi nguồn nước này mang những tính chất và đặc trưng riêng, bao gồm độ lớn và cường suất biến đổi hàm lượng chất gây ô nhiễm, từ đó quyết định tính chất cơ bản của nguồn nước kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè.
Vào mùa mưa, lượng nước mưa lớn giúp giảm ô nhiễm kênh do nước thải được pha loãng và dẫn ra sông Sài Gòn Mặc dù kênh bị thu hẹp và bồi lấp, nhưng khi mưa lớn, nước mưa không thoát ngay ra sông mà lưu lại lâu hơn, tạo ra lưu lượng dòng kênh lớn hơn mùa khô, từ đó giảm bớt ô nhiễm Tuy nhiên, bùn lắng đọng trên kênh vẫn phân hủy, gây ra mùi hôi khó chịu.
Thủy triều tại TP.HCM thuộc chế độ bán nhật triều, bao gồm hai đỉnh triều và hai đáy triều Sự chênh lệch giữa mực nước lớn khi triều lên và mực nước ròng khi triều xuống dao động từ 2,7 đến 3,3 mét ở khu vực gần.
TP HCM và 2,5 – 4 m tại các cửa sông Do cao trình thấp (dưới 2,5 m), hầu hết các sông và kênh ở TP.HCM đều bị ảnh hưởng của thủy triều [5]
Một chu kỳ thủy triều kéo dài trung bình từ 12 - 15 ngày, gồm 5 - 7 ngày triều lên và 3 - 5 triều xuống
Thời gian triều lên diễn ra từ 15 đến 20 giờ, trong khi triều xuống chỉ kéo dài từ 4 đến 8 giờ, điều này gây khó khăn cho hệ thống thoát nước mưa.
Có ba chu kỳ triều mỗi năm:
+ Chu kỳ triều cao: tháng 9, 10, 11, 12
+ Chu kỳ triều thấp: tháng 4, 5, 6, 7, 8
+ Chu kỳ triều trung bình: tháng 1, 2, 3
Hàng tháng lại có 2 kỳ triều cường theo chu kỳ mặt trăng vào các ngày 1, 2,
3, 14, 14, 15, 16, 17 (âm lịch) và 2 kỳ triều kém vào giữa các ngày này
Tại trạm đo Phú An, biên độ triều trung bình dao động từ 1,7 đến 2,5 m, với mức cao nhất đạt 3,95 m Biên độ triều ổn định qua nhiều năm, và độ chênh lệch giữa các tần suất khác nhau chỉ khoảng 20 đến 30 cm.
Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.4.1 Hi ện trạng dân số tại lưu vực kênh
Theo thống kê hiện nay, lưu vực có hơn 1,2 triệu cư dân, chiếm 30,7% dân số nội thành Mật độ dân số toàn khu vực đạt 361 người/ha, nhưng phân bố không đồng đều giữa các quận và phường Các khu nhà ở thấp tầng tại quận 3, quận Tân Bình và quận Phú Nhuận là nơi tập trung đông dân cư nhất, với mật độ dân số cao.
Mật độ dân số tại các khu vực khác nhau ở quận Phú Nhuận dao động từ 90 đến 1.016 người/ha, trong đó phường 12 có mật độ cao nhất với 1.016 người/ha, trong khi phường 8 là khu vực có mật độ thấp nhất với chỉ 91 người/ha Các khu biệt thự trung tâm quận 3 có mật độ dân số từ 90 đến 200 người/ha, trong khi mức độ trung bình tại các khu vực còn lại trong lưu vực rơi vào khoảng 200 đến 500 người/ha.
2.4.2 Hi ện trạng công trình dân dụng, nhà ở
Chất lượng nhà ở trong khu vực chủ yếu rất thấp, với hơn 65% là nhà cấp 3, trong khi chỉ có một phần nhỏ là biệt thự và nhà phố cấp 2 Tầng cao trung bình của toàn khu chỉ đạt 1,4 tầng Diện tích nhà ở bình quân đầu người khoảng 8,2 m², nhưng thực tế chỉ có 25-30% diện tích được sử dụng cho hoạt động thương mại và dịch vụ, dẫn đến chỉ tiêu bình quân sàn chỉ còn 5,8 m²/người.
2.4.3 Hi ện trạng ngành công nghiệp và tiểu thu công nghiệp
Lưu vực kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè đang đối mặt với tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng, một phần lớn là do sự hiện diện của nhiều cơ sở công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp xung quanh Những cơ sở này phân bố rộng rãi trong khu vực với quy mô vừa, góp phần làm gia tăng ô nhiễm môi trường tại khu vực kênh.
Các cơ sở sản xuất nhỏ và linh hoạt, với khả năng điều chỉnh số lượng và mặt hàng theo nhu cầu thị trường, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt là trong ngành tiêu dùng và thực phẩm Tuy nhiên, hầu hết các cơ sở này chưa được trang bị hệ thống xử lý chất thải.
Trong toàn lưu vực, có 108 nhà máy và xí nghiệp công nghiệp, cùng với hơn 2000 cơ sở tiểu thủ công nghiệp, chủ yếu là các cơ sở quy mô vừa và nhỏ, hoạt động trong nhiều ngành nghề khác nhau.
+ Cơ khí sữa chữa thiết bị máy móc
+ Kỹ thuật điện và điện tử
+ Hóa chất, cao su, nhựa
+ Chế biến lương thực, thực phẩm
Sành sứ và thủy tinh là những sản phẩm chủ yếu của các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, thường được đặt tại các khu dân cư Tuy nhiên, diện tích dành cho sản xuất rất hạn chế, và gần như không có không gian cho các công trình xử lý cần thiết.
Nước thải từ các cơ sở công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp có tính chất rất đa dạng, với mức độ ô nhiễm khác nhau tùy thuộc vào từng ngành Các yếu tố chính ảnh hưởng đến mức độ ô nhiễm bao gồm loại hình sản xuất, quy trình công nghệ và nguyên liệu sử dụng.
+ Lượng nước cấp cần dung cho quá trình sản xuất và sinh hoạt của công nhân + Tính chất và công nghệ sản xuất
+ Nguyên liệu và sản phẩm sử dụng trong sản xuất
+ Tình trạng vệ sinh môi trường và an toàn lao động trong sản xuất [5].
Hi ện trạng môi trường nước kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè
2.5.1 Hi ện trạng tuyến kênh
Cuối thế kỷ 20, Sài Gòn chứng kiến sự gia tăng dân số nhanh chóng, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều khu nhà ổ chuột và các cơ sở sản xuất Kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè trở thành nơi chứa rác thải, khiến nước ở đây trở nên đen và hôi thối Đến đầu thế kỷ 21, TP.HCM đã triển khai dự án Vệ sinh môi trường nước lưu vực nhằm cải thiện tình hình.
Khu vực Nhiêu Lộc - Thị Nghè đã được cải tạo với việc di dời dân cư và xây dựng hai tuyến đường Hoàng Sa và Trường Sa hiện đại, tạo cảnh quan khang trang dọc hai bên kênh Nước kênh đã trở nên trong xanh, góp phần nâng cao chất lượng môi trường sống.
Hình 2.1 Kênh Nhiêu Lộc năm 1970 (Nguồn: giadinh.net)
Hình 2.2 Kênh Nhiêu Lộc năm 2013 (Nguồn: dantri.com)
Kênh hiện tại dài 8,7 km, trước đây dài 10 km, chảy qua các quận Tân Bình, quận 3, Phú Nhuận, quận 1 và Bình Thạnh Kênh bắt đầu từ cửa cống hộp tại giao lộ đường Út Tịch và Lê Bình, quận Tân Bình, và kết thúc tại cửa Ba Son ở cảng Ba Son, nơi đổ ra sông Sài Gòn.
2.5.2 Hi ện trạng các nguồn nước thải
Theo ước tính của Công ty Thoát nước Đô thị, lượng nước thải trong lưu vực Nhiêu Lộc - Thị Nghè khoảng 93.000 m³/ngày, tương đương 130 - 180 lít/người/ngày, tùy thuộc vào từng tiểu lưu vực Trong đó, nước thải sinh hoạt và dịch vụ nhỏ chiếm 85.600 m³/ngày, chiếm 92% tổng lượng nước thải trong khu vực.
Nước thải công nghiệp thường được xả thải trực tiếp vào hệ thống thoát nước hoặc nguồn nước gần mà không qua xử lý Tuy nhiên, kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè vẫn giữ được mức độ sạch sẽ tương đối, do các nguồn ô nhiễm công nghiệp chủ yếu nằm ngoài lưu vực thoát nước của kênh này.
Trong tháng 7 năm 2012, công ty TNHH Một Thành Viên Thoát nước Đô thị
TP HCM chính thức vận hành trạm bơm công suất 64.000 m 3 /giờ (đặt ở đường
Nguyễn Hữu Cảnh, quận Bình Thạnh, đang triển khai giải pháp nhằm giảm ô nhiễm nguồn nước thải sinh hoạt và hỗ trợ chống ngập cho lưu vực Nhiêu Lộc - Thị Nghè Khi trạm bơm hoạt động, nước thải sinh hoạt của 1,2 triệu cư dân từ các quận 1 và 3 sẽ được xử lý hiệu quả.
10, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Gò Vấp, Tân Bình không còn đổ trực tiếp ra kênh
Hệ thống cống bao 3.000 mm dài gần 9 km dọc theo kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè sẽ thu gom nước và dẫn về trạm bơm Trên tuyến cống này có 59 công trình xả tràn nhằm kiểm soát nước mưa và nước thải.
2.5.3 Hi ện trạng chất lượng nước kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè
Chất lượng nước kênh rạch khu vực nội thành TP.HCM 6 tháng đầu năm
2010: ô nhiễm trên các đoạn kênh đang có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm
Năm 2009, hàm lượng ô nhiễm vi sinh trong nước vẫn cao, vượt quy chuẩn cho phép ở hầu hết các kênh và có xu hướng gia tăng so với cùng kỳ năm trước (QCVN 08:2008/BTNMT loại B2) Tuy nhiên, kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè đang cho thấy xu hướng giảm ô nhiễm vi sinh.
Theo báo cáo của Chi cục Bảo vệ môi trường TP.HCM, trong 9 tháng đầu năm 2012, chất lượng nước mặt tại kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè cho thấy nồng độ COD vượt chuẩn cho phép từ 1,3 đến 2,5 lần, BOD5 vượt từ 1,04 đến 2,08 lần, và nồng độ coliform cũng vượt mức cho phép.
Theo phân tích của Chi cục Quản lý chất lượng và bảo vệ nguồn lợi thủy sản thành phố vào tháng 4 năm 2013, nước trên tuyến kênh Nhiêu Lộc (đoạn từ cầu Thị Nghè đến cầu Lê Văn Sỹ, dài khoảng 3km) có màu trong xanh, không mùi và không bị nhiễm kim loại nặng Các chỉ tiêu quan trọng như DO (oxy hòa tan trong nước) và pH đều đạt tiêu chuẩn cho phép Mặc dù chỉ tiêu COD (lượng oxy cần thiết để oxy hóa các hợp chất hóa học trong nước) vào một số thời điểm ghi nhận đạt từ 4,48 - 16 mg/lít (tiêu chuẩn từ 35 - 100 mg/lít), nhưng điều này không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng nước.
Chất lượng nước kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè trước khi hoàn thành dự án cho thấy tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng, với các dẫn chứng dữ liệu thu được minh chứng rõ ràng cho vấn đề này.
Vệ sinh môi trường là vấn đề quan trọng, đặc biệt sau khi dự án đi vào hoạt động, nước kênh Nhiêu Lộc đã giảm ô nhiễm và cải thiện đáng kể Tuy nhiên, nguồn nước này vẫn chịu ảnh hưởng từ các nguồn thải và hoạt động của con người Mặc dù nước kênh trong xanh mỗi khi triều lên, nhưng tình trạng ô nhiễm hữu cơ và vi sinh vẫn còn rất nghiêm trọng.
Vài nét v ề dự án Vệ sinh môi trường TP.HCM lưu vực Nhiêu Lộc - Thị Nghè
Dự án Vệ sinh Môi trường TP.HCM, được Ngân hàng Thế giới tài trợ, nhằm giảm ngập úng và cải thiện hệ thống thoát nước cũng như vệ sinh môi trường tại lưu vực Nhiêu Lộc - Thị Nghè.
Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới đã ký Hiệp định Tín dụng cho dự án với tổng vốn 199,96 triệu đôla Mỹ Trong đó, Ngân hàng Thế giới cung cấp khoản vay không lãi 166,34 triệu đôla Mỹ trong thời gian 40 năm, còn ngân sách Thành phố đóng góp 33,62 triệu đôla Mỹ.
Dự án được triển khai trên 7 quận với tổng diện tích 33 km², bao gồm quận 1, 3, 10, Phú Nhuận, Tân Bình, Bình Thạnh và Gò Vấp, nơi sinh sống của hơn 1,2 triệu cư dân.
Kể từ năm 2003, thành phố đã bắt đầu thực hiện dự án “Vệ sinh môi trường thành phố lưu vực Nhiêu Lộc – Thị Nghè”, với mục tiêu xây dựng hệ thống cống có đường kính từ 2500 mm đến 3000 mm dọc bờ kênh Dự án này nhằm thu gom toàn bộ nước thải và nước mưa, sau đó dẫn về các giếng tách dòng để cải thiện chất lượng môi trường.
Trong mùa khô, nước thải sẽ được dẫn về trạm bơm và sau đó bơm đến các nhà máy xử lý Tại đây, nước thải sẽ được lắng lọc để đạt tiêu chuẩn B, cho phép sử dụng trong sinh hoạt trước khi được thải ra kênh.
Trong mùa mưa, nước mưa và nước thải thường lẫn lộn, vì vậy các giếng tách dòng được trang bị bộ phận cơ học để phân loại chúng Nước đạt tiêu chuẩn sẽ nổi lên và được thoát ra kênh, trong khi nước không đạt sẽ được hút vào trạm bơm và chuyển về nhà máy xử lý Nhờ công nghệ này, kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè sẽ không còn nhận nước thải trực tiếp, đồng thời bùn thải tích tụ nhiều năm dưới kênh cũng sẽ được nạo vét và xử lý ở nơi khác.
Dự án có 2 giai đoạn [16]:
+ Giai đoạn 1 (xây trạm bơm) được khởi công xây dựng từ năm 2003, tại số 10 Nguyễn Hữu Cảnh (phường 19, quận Bình Thạnh) với tổng vốn đầu tư 18 triệu đôla
Trạm bơm tại Mỹ có công suất thiết kế 480.000 m³/ngày, được đưa vào sử dụng từ tháng 7 năm 2012 Tuy nhiên, trạm này chỉ thực hiện việc thu gom nước thải mà không xử lý, chủ yếu phục vụ cho lưu vực kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè Nước thải sau đó được xả ra sông Sài Gòn nhằm giảm thiểu ô nhiễm và ngập úng cho 7 quận trung tâm TP.HCM, bao gồm quận 1, 3, 10 và Phú Nhuận.
Giai đoạn 1 của dự án tại Bình Thạnh, Tân Bình và Gò Vấp đã hoàn thành, mang lại sự cải thiện đáng kể cho môi trường khu vực dự án.
Giai đoạn 2 của dự án Nhà máy xử lý nước thải Nhiêu Lộc - Thị Nghè được xây dựng tại phường Thạnh Mỹ Lợi, quận 2, với diện tích khoảng 40 ha Nhà máy sẽ áp dụng một trong bốn công nghệ xử lý nước thải tiên tiến, bao gồm bùn hoạt tính, phản ứng theo mẽ, lọc sinh học và lọc.
27 nhỏ giọt, với mục tiêu chính là thu gom và xử lý nước thải cho lưu vực Nhiêu Lộc -
Giai đoạn 2 của dự án vệ sinh môi trường Nhiêu Lộc - Thị Nghè, thuộc quận 2, dự kiến sẽ được khởi công vào tháng 7 năm 2013 và hoàn thành đưa vào sử dụng vào năm 2019, theo thông tin từ Ban quản lý dự án.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm khảo sát
Đối tượng khảo sát là quần xã ĐVĐKXS cỡ lớn tại 6 điểm dọc kênh Nhiêu
Lộc – Thị Nghè, thành phố Hồ Chí Minh.
Ph ạm vi khảo sát
Mẫu ĐVKXS cỡ lớn được thu tại 6 vị trí khác nhau Các điểm lấy mẫu được thể hiện trong bảng 3.1
Bảng 3.1 Vị trí khảo sát
STT Vị trí khảo sát, thu mẫu
2 Cầu Lê Văn Sỹ CLVS 10,785756 106,681424
3.2.2 Th ời gian khảo sát
Thời gian khảo sát được tiến hành ngày 30 tháng 3 năm 2013
Hình 3.1 Bản đồ vị trí thu mẫu
Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Phương pháp thu mẫu hiện trường
Trong mỗi khu vực, chúng ta sẽ thu thập mẫu ở 3 vị trí: bờ trái, giữa và bờ phải Tổng cộng có 6 khu vực lấy mẫu, do đó số mẫu thu được sẽ là 18 mẫu.
+ Mỗi mẫu sẽ lấy 4 gàu đáy, một gàu có diện tích là 0,025 m 2 , vậy tổng diện tích thu mẫu sẽ là 0,1 m 2
Dụng cụ thu mẫu ĐVĐKXS cỡ lớn bao gồm gầu đáy Ekma, sàng lọc với kích thước mắt lưới inox 1 mm, vợt tay có cán dài và đường kính mắt lưới 1 mm, cùng với hủ nhựa dung tích 500 ml.
Thả gàu đáy xuống đáy kênh và giật nhẹ để mở gàu, sau đó kéo lên Khi kéo lên, các chất như sinh vật, đất, mùn, rác và rễ cây sẽ được thu vào trong gàu đáy.
Để thu thập mẫu, bạn cần sử dụng vợt tay để rửa sạch bùn bằng nước, sau đó kiểm tra và nhặt các loài động vật không xương sống cỡ lớn bám và làm tổ trong rác hoặc sỏi đá lớn Sau khi thu thập, hãy chuyển tất cả các mẫu từ vợt vào lọ nhựa và cố định chúng bằng Formaline 38%.
3.3.2 Phương pháp phòng thí nghiệm
- Trước tiên, ta tiến hành nhặt mẫu (sinh vật) từ mẫu thô được thu trực tiếp ngoài hiện trường
Sau khi thu thập mẫu sinh vật, tiến hành phân tích dưới kính lúp soi nổi để xác định loại hình Đối với động vật không xương sống cỡ lớn, việc phân loại được thực hiện theo phương pháp hình thái, từ họ đến loài, dựa trên khóa định loại của các tác giả Nguyễn Xuân Quýnh, Clive Pinder, Dteve Tilling (2001) và Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên, Đặng Ngọc Thanh (1980).
- Số liệu sau khi định loại được nhập vào máy tính qua chương trình Microsoft Excel để xử lý số liệu
Hình 3.2 Một số hình minh họa quy trình phân tích mẫu trong phòng thí nghiệm
Mẫu được bảo quản trong lọ nhựa với hóa chất formaline 38% Mẫu sau khi rửa sạch vẫn còn lẫn với đất, rong rêu, c ỏ rác,…
Nh ặt mẫu ĐVĐKXS ra đĩa petri Mẫu ĐVĐKXS cỡ lớn sau khi nhặt sạch được định danh dưới kính lúpsoi nổi
3.3.3 Phương pháp phân tích số liệu
- Xác định số lượng, cấu trúc, mật độ thành phần loài, và loài ưu thế
- Tính các chỉ số sinh học:
+ Chỉ số đa dạng Shannon – Wienner (1949)
Pi: tỉ số giữa cá thể loài (i) trên tổng số cá thể trong một quần xã S: tổng số loài trong quần xã
S: Tổng số loài trong quần xã N: Tổng số lượng cá thể trong quần xã
Bảng 3.2 Thang điểm đánh giá chất lượng nước theo chỉ số đa dạng H’
+ Chỉ số tương đồng Bray – Curtis (1957)
= n k jk ik n k jk ik ij x x x x d
Mức tương đồng giữa hai điểm i và j được xác định bởi chỉ số dij Các giá trị xij và xjk đại diện cho số lượng cá thể của loài chung tại dòng thứ i và cột thứ k, cũng như tại dòng thứ j và cột thứ k trong dữ liệu đa biến Tổng số loài chung được ký hiệu là n.
Phần mềm PRIMER 6.0 là công cụ hữu ích cho việc tính toán các chỉ số đa dạng, chỉ số tương đồng Bray-Curtis và thực hiện phân tích đa biến MDS (Multidimensional Scaling).
3.3.4 Phương pháp xác định điểm số BMWP và chỉ số ASPT
Hệ thống thang điểm BMWP (Biological Monitoring Working Party, 1976) được áp dụng cho điều kiện Việt Nam, với điểm số từ 1 đến 10 Mỗi họ động vật đáy cỡ lớn trong hệ thống này được gán một giá trị điểm tương ứng, phản ánh khả năng chống chịu với ô nhiễm của chúng.
Để tính điểm cho từng họ trong bảng tính điểm BMWP, cần dựa vào thành phần các họ tương ứng Điểm tổng cộng BMWP được xác định bằng tổng tất cả các điểm số từ mỗi họ tại từng điểm nghiên cứu Sau khi có điểm tổng cộng, điểm số trung bình (ASPT - Average Score Per Taxon) được tính bằng cách chia tổng số điểm cho tổng số họ tham gia Điểm số ASPT phản ánh mức chất lượng nước và nằm trong khoảng từ 1.
- 10 Chỉ số càng thấp nước có độ ô nhiễm càng cao [8]
Bảng 3.3 Hệ thống điểm BMWP VIỆT NAM đã được sửa đổi và bổ sung để sử dụng ở
Việt Nam, theo tài liệu của Nguyễn Vũ Thanh và cộng sự (2004), đã được bổ sung số họ từ hệ thống ban đầu của Nguyễn Xuân Quýnh và cộng sự (2001).
(EPHEMEOP TERA - phù du) Siphilonuridae, Heptagenidae, leptophledidae, Ephemerellidae, Potamanthidae, Ephemeridae 10 (PLECOP TERA – Cánh úp) Leuctridae, Perlodidae, Perlidae
(HEMIP TERA – Cánh nửa) Aphelocheiridae
(TRICHOP TERA – Cánh lông) P hryganeidae, Molannidae,
(CRUSTACEA – P hù du) Potamidae (Cua) 8
TRICHOP TERA – Cánh lông) Psychomylidae, P hilopotamidae
(EPHEMEROP TERA – P hù du) Caenidae, Ecdyonuridae*,
7 (PLECOP TERA – Cánh úp) Nemouridae
(TRICHOP TERA – Cánh lông) Rhyacophilidae, Polycentropodidae,
TRICHOP TERA – cánh lông) Hydroptilidae
(ODONATA – Chuồn chuồn) Lestidae, Agriidae (Calopterygidae)
(PLATHELMINTHES – Giun dẹt) Planariidae (Dugesiidae – Sán tiêm mao)
(HEMIP TERA – Cánh nửa) Veliidae, Hydrometridae, Geriidae, Nepidae,
Naucoridae, Notonectidae, Pleidae, Corixidae, Belostomatidae, Noteridae*, Pleidae
TRICHOP TERA – Cánh lông) Hydropsychidae
(COLEOP TERA – Cánh cứng) Haliplidae, Dytiscidae, Gyrinidae,
Hydraenidae, Hydrophilidae, Hygrobliidae, Helodidae, Dryopidae,
Elminthidae, Chrysomelidae, Curculionidae, Psephenidae, Ptilodactylidae
(DIP TERA – Hai cánh) Simuliidae, Tipulidae
Chú thích: _* các họ mới bổ sung cho hệ thống điểm BMWP VIET NAM
Công thức tính chỉ số ASPT:
N: tổng số họ tham gia
∑BMWP: Tổng điểm số BMWP
(EPHEMEROP TERA – P hu du) Baetidae (Siphlonuridae)
(MOLLUSCA – Thân mềm) Pilidae, Viviparidae, Amblemidae, Unionidae
(ODONATA – Chuồn chuồn) Coenagrionidae, Corduliidae, Libellulidae
(MEGALOP TERA – Cánh rộng) Slalidae, Corydalidae
(OLIGOCHAETA – HIRUDINEA – Đỉa) Glossiphonidae, Hirudidae,
(GASTROPODA) Hydrobiidae (Bithyniidae), Lymnaeidae, Planorbidae
(BIVALVIA – Hai mảnh vỏ) Sphaeriidae (Pisidiidae)
(CRUSTACEA – Cua) P arathelphusidae, Atyidae, P alaemonidae (Tôm),
(DIP TERA – Hai cánh) Ephydridae, Strationmyidae, Blepharocecidae,
(DIP TERA – Hai cánh) Chironomidae – Ruồi nhà 2
(OLIGOCHEATA – Giun ít tơ) Tubificidae, Aelosomatidae*
(POLYCHAETA – Giun nhiều tơ) Nereidae* , Nephthydiae*, Spionidae* 1
(NEMATODA – Ngành giun tròn) tuyến trùng*
ASP T: Chỉ số trung bình trên taxon (bậc loại)
Dựa vào chỉ số ASPT để đánh giá chất lượng môi trường nước của từng vị trí nghiên cứu theo bảng phân loại
Bảng 3.4 Mối quan hệ giữa chỉ số ASPT và mức độ ô nhiễm
Chỉ số sinh học (ASPT) được sử dụng để đánh giá mức độ ô nhiễm của nước, với các điểm số từ 0 đến 10 Cụ thể, điểm 0 cho thấy nước cực kỳ bẩn, không có động vật chỉ thị cỡ lớn, trong khi điểm từ 1 đến 2,9 cho biết nước rất bẩn (Polysaprobe) Điểm 3 đến 4,9 chỉ ra nước bẩn vừa α (α Mesosaprobe) hay khá bẩn, và điểm 5 đến 5,9 phản ánh nước bẩn vừa β (β Mesosaprobe) Điểm từ 6 đến 7,9 cho thấy nước bẩn ít (Oligosaprobe) hay tương đối sạch, trong khi điểm từ 8 đến 10 chỉ ra nước sạch.
Nguồn: Environment Agency, Briston, UK, 1997; Nguyễn Xuân Quýnh và ctv, 2001