Tình hình nghiên cứu
Tại Việt Nam, hiện chưa có công trình hay sách chuyên khảo nào nghiên cứu một cách hệ thống về phạm vi áp dụng theo Công ước Viên Tuy nhiên, đã có một số nghiên cứu đơn lẻ liên quan đến phạm vi áp dụng của Công ước và các vấn đề khác về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Nghiên cứu của TS Nông Quốc Bình, giảng viên khoa pháp luật quốc tế tại Trường Đại học Luật Hà Nội, về "Phạm vi áp dụng và không áp dụng của Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế" được công bố trong tạp chí Luật học số 10/2011, phân tích chi tiết các điều khoản và điều kiện của công ước này, đồng thời làm rõ những trường hợp mà công ước không áp dụng, góp phần nâng cao hiểu biết về luật thương mại quốc tế.
Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Võ Sỹ Mạnh tại Trường Đại học Ngoại thương nghiên cứu về "Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Vien năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và định hướng hoàn thiện các quy định liên quan của pháp luật Việt Nam" Luận án nhằm phân tích các vi phạm hợp đồng trong bối cảnh quốc tế và đề xuất các giải pháp cải cách pháp lý phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Cuốn sách “Luật hợp đồng Việt Nam: Bản án và bình luận bản án” của tác giả Đỗ Văn Đại, được xuất bản bởi Nxb Chính trị Quốc gia vào năm 2013 (tái bản lần thứ tư), cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định pháp lý liên quan đến hợp đồng tại Việt Nam, kèm theo phân tích và bình luận về các bản án tiêu biểu.
2), trong đó tác giả đã đưa ra một số bản án liên quan đến các vấn đề liên quan đến hợp đồng
Các nghiên cứu của TS Đinh Thị Mỹ Loan và cán bộ Vụ Pháp chế Bộ Công Thương đã chỉ ra lợi ích của Công ước đối với hoạt động thương mại quốc tế và hệ thống pháp luật Việt Nam Đồng thời, GS.TS Nguyễn Thị Mơ cùng các giảng viên Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội năm 2005 cũng đã phân tích tầm quan trọng và lợi ích của Công ước Viên 1980 đối với doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam.
Tại nước ngoài, đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến phạm vi áp dụng của Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) Một số công trình tiêu biểu có thể được nhắc đến.
- Bài viết “Selling Goods Internationally: The Scope of the 1980 United
The United Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods (CISG) establishes a comprehensive legal framework for international trade, facilitating the sale of goods across borders This convention aims to harmonize and simplify international sales law, promoting fairness and predictability in commercial transactions By providing clear guidelines on contract formation, obligations of buyers and sellers, and dispute resolution, the CISG enhances global trade efficiency and fosters international cooperation.
1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế) của các tác giả J.Martin-Davidson, Susan đăng trên tạp chí SSRN Electronic journal năm 2008
- Cuốn sách “Uniform law for international sales under the 1980 United
Nations Convention” của tác giả John O Honnold, Nxb Wolters Kluwer Law &
Năm 2009, tài liệu "Luật thống nhất cho mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Liên hợp quốc năm 1980" được tái bản lần thứ tư và chỉnh sửa bởi Harry M Flechtner, cung cấp những thông tin hữu ích giúp hiểu rõ mục đích của quy định về phạm vi áp dụng của Công ước Mục tiêu chính là hỗ trợ các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế áp dụng Công ước Viên trong các giao dịch của họ.
Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận, phương pháp phân tích được áp dụng nhằm xem xét các quy định của CISG và pháp luật Việt Nam liên quan đến phạm vi áp dụng của Công ước, đồng thời phân tích các bản án và những vụ án điển hình.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để so sánh các quy định của CISG và pháp luật Việt Nam về các nguồn luật điều chỉnh hợp đồng
Phương pháp thống kê được áp dụng trong khóa luận nhằm thống kê số lượng thành viên, các bản án và số lượng hợp đồng, với nguồn luật điều chỉnh chính là CISG.
Kết cấu khóa luận
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Khóa luận gồm
Chương 1: Phạm vi áp dụng của Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Chương 2: Thực tiễn áp dụng của Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) – Liên hệ với Việt Nam.
PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA CÔNG ƯỚC VIÊN VỀ HỢP ĐỒNG
Giới thiệu chung về CISG
1.1.1 Lịch sử hình thành Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa (CISG) được soạn thảo bởi Uỷ ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL) và được công nhận là nỗ lực thành công nhất trong việc thống nhất nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Nỗ lực thống nhất nguồn luật cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đã bắt đầu từ những năm 1930 bởi UNIDROIT, dẫn đến việc ban hành hai Công ước La Haye năm 1964 Công ước thứ nhất, “Luật thống nhất về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1964” (ULF), quy định về việc hình thành hợp đồng, bao gồm chào hàng và chấp nhận chào hàng Công ước thứ hai, “Luật thống nhất về mua bán hàng hóa quốc tế năm 1964” (ULIS), tập trung vào quyền và nghĩa vụ của người bán và người mua, cùng với các biện pháp xử lý khi có vi phạm hợp đồng.
Mặc dù hai công ước La Haye năm 1964 đã được ban hành, nhưng chúng rất ít được áp dụng do bốn lý do chính Thứ nhất, Hội nghị La Haye chỉ có 28 quốc gia tham gia, thiếu đại diện từ các nước Xã hội Chủ nghĩa và đang phát triển, dẫn đến quan điểm cho rằng các công ước này nghiêng về lợi ích của người bán từ các nước tư bản Thứ hai, các khái niệm trong công ước quá trừu tượng và phức tạp, dễ gây hiểu nhầm Thứ ba, công ước thiên về thương mại giữa các quốc gia có chung biên giới, thay vì thương mại quốc tế liên quan đến vận tải biển Cuối cùng, quy mô áp dụng của chúng quá rộng, được áp dụng mà không cần xem xét xung đột pháp luật.
Năm 1968, theo yêu cầu của đa số thành viên Liên Hợp Quốc về một khuôn khổ mới cho các quốc gia có nền pháp lý và kinh tế chính trị khác nhau, UNCITRAL đã cam kết phát triển một sự kế thừa cho hai hiệp định thương mại quốc tế ULIS và ULF Mục tiêu của UNCITRAL là xây dựng một Công ước thu hút sự tham gia ngày càng nhiều trong các quy tắc bán hàng quốc tế thống nhất Dựa trên các điều khoản của hai Công ước La Haye, Công ước Viên 1980 đã mang lại những đổi mới và hoàn thiện cơ bản hơn.
Công ước Viên 1980 (CISG) được xây dựng nhằm tạo ra một khuôn khổ pháp lý thống nhất cho thương mại quốc tế, giúp các quốc gia tham gia dễ dàng giao dịch hàng hóa qua biên giới Được thông qua bởi Ủy ban Tư vấn về Chính sách Thương mại Quốc tế, CISG đã đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển của thương mại toàn cầu Thông tin chi tiết về lịch sử và nội dung của Công ước có thể được tìm thấy tại trang web của Trung tâm WTO.
CISG được thực hiện trong 3 giai đoạn: (1) (1970-1977) Nhóm công tác của UNCITRAL đã đưa ra hai dự thảo Thứ nhất là Dự thảo Công ước về Bán hàng năm
Năm 1976, một dự thảo quy định các quyền và nghĩa vụ của người bán và người mua theo hợp đồng bán hàng đã được đưa ra Dự thảo này thường được gọi là dự thảo “Bán hàng”, nhằm phân biệt với dự thảo về “Thành lập” hợp đồng bán hàng do Nhóm Công tác hoàn thành vào tháng trước.
9 năm 1977 (2) (1977-1978) Trong giai đoạn thứ hai, Ủy ban đã xem xét bản thảo
“Bán hàng” và “Thành lập” của nhóm công tác và kết hợp chúng thành một văn bản
Dự thảo Công ước Hợp đồng Bán Hàng Quốc tế năm 1978 đã được Ủy ban thống nhất chấp thuận, đề xuất triệu tập Đại hội đồng tổ chức hội nghị ngoại giao nhằm xem xét và hoàn thiện Công ước Hội nghị Ngoại giao năm 1980 tại Vienna đã quy tụ đại diện của khoảng 60 quốc gia và 8 tổ chức quốc tế Công ước CISG chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/1988, sau khi có 10 quốc gia phê chuẩn, theo Điều 99 của Công ước.
Công ước của Liên Hợp Quốc năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) có hiệu lực từ ngày 01/01/1988 và đã trở thành một trong những công ước thương mại quốc tế được phê duyệt và áp dụng rộng rãi nhất, điều chỉnh khoảng 80% thương mại hàng hóa toàn cầu Với 85 quốc gia thành viên từ các hệ thống pháp luật khác nhau, CISG bao gồm cả các quốc gia phát triển và đang phát triển trên khắp các châu lục Hầu hết các cường quốc kinh tế như Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Canada, Australia và Nhật Bản đều đã tham gia vào CISG.
Công ước Viên 1980 đã chứng minh sự thành công của mình qua hơn 2500 vụ tranh chấp được giải quyết bởi Tòa án và trọng tài quốc tế, cho thấy tính ứng dụng rộng rãi của nó Điều đáng chú ý là những vụ việc này không chỉ xảy ra ở các quốc gia thành viên, mà còn ở những quốc gia chưa tham gia, nơi Công ước vẫn được áp dụng nhờ sự lựa chọn của các bên trong hợp đồng hoặc qua sự tham khảo của tòa án và trọng tài Nhiều doanh nhân tại các quốc gia chưa phải là thành viên của CISG đã tự nguyện áp dụng Công ước này cho các giao dịch thương mại quốc tế, nhận thấy những lợi ích vượt trội so với luật pháp quốc gia.
2 Bài viết “Thành công của CISG”, Truy cập tại https://cisgvn.wordpress.com/ 2010/11/01/thanh-cong-của- cisg/ Truy cập ngày 12/02/2018
CISG được coi là một trong những Công ước thống nhất về luật tư thành công nhất nhờ vào nhiều yếu tố quan trọng Đầu tiên, nó được soạn thảo và thực thi dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc, tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới Thứ hai, quá trình soạn thảo thể hiện nỗ lực tạo ra các quy phạm thống nhất cho mua bán hàng hóa quốc tế Thứ ba, nội dung của Công ước được đánh giá là hiện đại, linh hoạt và phù hợp với thực tiễn giao dịch Cuối cùng, CISG nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ các trọng tài quốc tế và tổ chức ICC.
1.1.3 Một số nội dung cơ bản của Công ước viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Công ước Viên 1980 gồm 101 Điều, được chia làm 4 phần với các nội dung chính sau:
Phần 1: Phạm vi áp dụng và các quy định chung (Điều 1- 13)
Phần 2: Xác lập hợp đồng (trình tự, thủ tục ký kết hợp đồng) (Điều 14- 24) Phần 3: Mua bán hàng hóa (Điều 25 - 88)
Phần "mua bán hàng hóa" tập trung vào các vấn đề pháp lý liên quan đến việc thực hiện hợp đồng Nội dung được chia thành 5 chương, mỗi chương đề cập đến các khía cạnh cơ bản của giao dịch mua bán hàng hóa.
Chương I: Những quy định chung
Chương II: Nghĩa vụ của người bán
Chương III: Nghĩa vụ của người mua
Chương IV: Chuyển rủi ro
Chương V: Các điều khoản chung về nghĩa vụ của người bán và người mua
Phần 4: Các quy định cuối cùng (Điều 89 - 101)
Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo CISG và trụ sở thương mại theo CISG
1.2.1 Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo CISG a Khái niệm
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là loại hợp đồng có tính chất quốc tế, tuy nhiên CISG không đưa ra định nghĩa cụ thể cho loại hợp đồng này Theo Điều 1 của Công ước Vienna, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được xác định dựa trên các yếu tố quốc tế.
Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau, cụ thể là khi các quốc gia này là thành viên của Công ước hoặc khi các quy tắc tư pháp quốc tế quy định áp dụng luật của một quốc gia thành viên.
2 Việc các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau không được tính đến nếu việc này không thể nhận biết được trong hợp đồng, trong các giao dịch trước đó giữa các bên và trong thông tin trao đổi giữa các bên vào bất kỳ thời điểm nào trước hoặc vào thời điểm giao kết hợp đồng
3 Quốc tịch của các bên, tính chất dân sự hoặc thương mại của họ và của hợp đồng đều không được xét đến khi xác định phạm vi áp dụng của Công ước này “
Yếu tố xác định tính quốc tế của hợp đồng là sự hiện diện của các bên giao kết có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau, điều này khác với quy định của pháp luật Việt Nam về tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa Theo Luật Thương mại 2005, quy định này nhấn mạnh sự khác biệt trong cách hiểu và áp dụng tính quốc tế trong giao dịch thương mại.
“1 Mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu
2 Mua bán hàng hoá quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương “ 3
Hay Luật Quản lý Ngoại thương 2017 cũng ghi nhận:
Hoạt động ngoại thương bao gồm việc mua bán hàng hóa quốc tế thông qua các hình thức như xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh và các hoạt động liên quan khác Tất cả các hoạt động này phải tuân thủ quy định của pháp luật và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam là văn bản thỏa thuận giữa bên bán và bên mua, liên quan đến các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu hàng hóa Các khái niệm này bao gồm hàng hóa là động sản, có khả năng di chuyển qua biên giới Việt Nam hoặc các quốc gia khác.
Theo Khoản 1 Điều 3 của Luật Quản lý Ngoại thương 2017, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được xác định tính quốc tế khi hàng hóa được vận chuyển từ một nước hoặc vùng lãnh thổ này đến nước khác, hoặc khi di chuyển qua khu chế xuất và khu vực hải quan riêng.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là thỏa thuận giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau, trong đó bên bán có trách nhiệm giao hàng và chuyển giao chứng từ cùng quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua, trong khi bên mua phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán và nhận hàng.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một loại hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài, mang tính chất quốc tế Điểm khác biệt của loại hợp đồng này so với các hợp đồng thương mại thông thường chính là tính chất quốc tế, điều này ảnh hưởng đến các điều khoản và quy định liên quan đến giao dịch.
Chủ thể của hợp đồng là các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau Ví dụ, Thương nhân A đến từ Việt Nam ký hợp đồng mua bán với một thương nhân nước ngoài.
Chủ thể bên nước ngoài trong giao dịch thương mại tại Singapore là thương nhân, và tư cách pháp lý của họ được xác định theo pháp luật của quốc gia mà họ mang quốc tịch Trong khi đó, bên Việt Nam là thương nhân có quyền hoạt động thương mại trực tiếp với các đối tác nước ngoài.
Hàng hóa trong hợp đồng mua bán quốc tế có thể được chuyển giao từ người bán sang người mua hoặc sang nước thứ ba Mặc dù Công ước Viên không định nghĩa rõ ràng về hàng hóa, nhưng qua các tài liệu quốc tế và thực tiễn pháp lý, có thể thấy rằng hàng hóa theo CISG phải là tài sản hữu hình và có thể di chuyển được Tuy nhiên, CISG cũng quy định một số trường hợp loại trừ liên quan đến hàng hóa.
- Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ Thực tế cho thấy các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường được thanh toán bằng USD
Cơ quan giải quyết tranh chấp từ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể là Tòa án hoặc Trọng tài nước ngoài, áp dụng cho một hoặc cả hai bên liên quan.
Phạm vi áp dụng của Công ước viên trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1.3.1 Quốc gia là quốc gia thành viên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau
Tính quốc tế không đủ để xác định phạm vi áp dụng của Công ước CISG Theo khoản 1 điều 1, có hai tiêu chí thay thế cần được đáp ứng để Công ước có hiệu lực như một phần của luật tòa án.
Công ước nhằm giảm thiểu sự không chắc chắn pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại giữa các hệ thống pháp lý khác nhau Phạm vi áp dụng theo điều 1.1(a) đáp ứng hiệu quả mối quan tâm này bằng hai phương thức rõ ràng.
(1) Phạm vi áp dụng không phụ thuộc vào những rủi ro vốn có trong các quy tắc xung đột chung (PIL);
Khi các bên có trụ sở thương mại tại các Quốc gia thành viên khác nhau, luật nội địa có thể được thay thế bởi luật thống nhất mà hai quốc gia đã đồng ý, bất chấp việc một trong các bên có thể không biết đến sự thay đổi này.
Trong bối cảnh hiện nay, luật xung đột đang thu hút sự chú ý đáng kể, vì vậy việc tăng cường tính chắc chắn thông qua luật thống nhất được đánh giá cao và mang lại nhiều ý nghĩa Các nguyên tắc của luật thống nhất là tối thiểu, cho phép các bên có quyền từ chối Công ước hoặc điều chỉnh các quy tắc của nó (Điều 6), đồng thời tôn trọng các quy định về hiệu lực theo luật nội địa hiện hành.
Công ước đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu chi phí bất ổn pháp lý, tức là các chi phí liên quan đến việc tìm hiểu và tiếp cận nguồn luật mới Những chi phí này thường là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp và quốc gia nơi họ đặt trụ sở thương mại, hơn là các quốc gia nơi diễn ra các giai đoạn của giao dịch.
Theo Điều 1.1(a) của Công ước, việc áp dụng có thể diễn ra “trực tiếp” hoặc “tự chủ”, nghĩa là không cần tuân thủ quy tắc tư pháp quốc tế nếu các bên có trụ sở thương mại tại các Quốc gia thành viên Khi số lượng Quốc gia thành viên tăng lên, Công ước sẽ được áp dụng trong nhiều trường hợp hơn Cụ thể, nếu trụ sở thương mại của người bán và người mua nằm ở các quốc gia thành viên khác nhau, các tòa án của tất cả những quốc gia này sẽ phải áp dụng Công ước Thời điểm một quốc gia trở thành Nước thành viên được xác định theo Điều 99, cùng với các quy định về thời gian áp dụng Công ước theo Điều 1.1(a) tại Điều 100.
Trụ sở thương mại được định nghĩa là nơi thường trú cho giao dịch kinh doanh, không bao gồm nơi tạm trú trong đàm phán Điều này được củng cố bởi các điều khoản trong Công ước, khẳng định rằng trụ sở kinh doanh là nơi hoạt động liên tục Ví dụ, trong vụ án liên quan đến một người mua Pháp và người bán Đức, tòa phúc thẩm xác định rằng văn phòng liên lạc của người bán tại Pháp không phải là thực thể pháp lý độc lập, do đó hợp đồng là giữa một công ty Pháp và một công ty Đức, và CISG được áp dụng Điều này cho thấy định nghĩa trụ sở kinh doanh trong Điều 1.1(a) chỉ áp dụng khi văn phòng đại diện chỉ là nơi liên lạc Trong một trường hợp khác, chủ sở hữu cửa hàng pizza Ý ở Đức đã đặt hàng từ nhà sản xuất Ý, với cả hai quốc gia đều là thành viên của CISG mà không có tuyên bố bảo lưu Hợp đồng mua bán không loại trừ Công ước, và hàng hóa không phục vụ mục đích cá nhân, vì vậy Công ước cũng không bị loại trừ theo Điều 2 Do đó, phạm vi áp dụng của Công ước không phụ thuộc vào quốc tịch của các bên.
9 Trường hợp Fauba France FIDIS GC Electronique (người mua Pháp) vs Fujitsu Mikroelectronik (http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/wais/db/cases2/950104f1.html )
10 Trường hợp Germany 13 April 2000 Lower Court Duisburg (Pizza cartons case)
Trong trường hợp các bên có cùng quốc tịch nhưng trụ sở kinh doanh ở hai quốc gia khác nhau, Công ước vẫn được áp dụng theo Điều 1.1(a) Khái niệm trụ sở thương mại không chỉ xác định tính quốc tế mà còn giúp xác định phạm vi điều chỉnh của Công ước đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Đây là cơ sở mà các tòa án sử dụng để áp dụng Công ước Vienna trong việc giải quyết tranh chấp.
Hồng Kông và Ma Cao là những khu vực có tình trạng áp dụng Công ước Viên không chắc chắn, do trước đây từng là thuộc địa của Anh và Bồ Đào Nha Khi chuyển giao về Trung Quốc, danh sách các điều ước quốc tế được gửi tới Liên Hiệp Quốc không bao gồm CISG, mặc dù các nhà nghiên cứu Trung Quốc khẳng định rằng CISG vẫn có hiệu lực tại hai đặc khu này Điều này cho thấy Trung Quốc đã không mở rộng áp dụng Công ước cho các đặc khu hành chính Tại các tòa án, có nhiều ý kiến khác nhau về việc áp dụng Điều 1.1(a), với một số tòa án cho rằng các bên có trụ sở thương mại tại Hồng Kông được xem như có trụ sở tại quốc gia không thành viên Tuy nhiên, thực tế cho thấy Công ước đã được áp dụng tại Hồng Kông, kể cả theo điều 1.1(a).
Công ước theo điều 1.1(a) đã nhanh chóng nhận được sự đồng thuận từ các quốc gia thành viên, được áp dụng trong các cuộc đàm phán nhằm thống nhất các điều khoản hợp đồng.
1.3.2 Quy tắc tư pháp quốc tế dẫn chiếu áp dụng luật của quốc gia thành viên Công ước Điều 1.1(b) quy định về các trường hợp áp dụng CISG ngay cả khi một bên hoặc cả hai bên trong hợp đồng không có địa điểm kinh doanh tại các quốc gia thành viên, theo đó, CISG được áp dụng “khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của quốc gia thành viên Công ước” Đây được gọi là trường hợp áp dụng “gián tiếp” Công ước và mở rộng đáng kể phạm vi áp dụng của Công ước này đối với các hợp đồng được ký giữa một bên có trụ sở tại quốc gia thành viên Công ước còn bên kia thì không Có nhiều tranh luận trên cơ sở áp dụng các quy tắc của tư pháp quốc tế ở điều 1.1(b) sẽ làm suy yếu sự vững chắc về mặt pháp lý – mục tiêu chính của Công ước
Trong trường hợp quy tắc tư pháp quốc tế, tòa án có thể tham chiếu đến Công ước Rome năm 1980 về Luật áp dụng cho nghĩa vụ hợp đồng, trong đó việc lựa chọn pháp luật của quốc gia thành viên cũng có thể được xem xét.
Vào ngày 23 tháng 12 năm 2009, Tòa án Quận phía Đông Arkansas đã xem xét sự áp dụng của Công ước theo điều 1.1(b) Điều này liên quan đến nguyên tắc tự chủ của các bên, được đề cập trong cả CISG và Công ước Rome năm 1980, cụ thể từ Điều 3 của Công ước Rome.
Trong các thủ tục trọng tài và tố tụng của tòa án quốc gia, các bên có quyền lựa chọn hoặc không lựa chọn Công ước để điều chỉnh tranh chấp của họ Điều này phản ánh thực tế rằng một số Công ước khác cho phép các bên chọn luật của một quốc gia để áp dụng Khi các bên muốn kết hợp các quy định từ Công ước vào hợp đồng, các quy tắc của Công ước không được vượt quá các quy tắc bắt buộc của luật áp dụng khác Nếu không có thỏa thuận về luật, tòa án sẽ áp dụng các yếu tố khách quan của tư pháp quốc tế để xác định luật áp dụng, trong đó "các quy tắc tư pháp quốc tế" bao gồm các quy phạm xung đột và nguyên tắc về quyền tự do lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng.
Khi một công ty Nhật Bản và một công ty Indonesia ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa mà không quy định về luật áp dụng, cơ quan giải quyết tranh chấp sẽ xác định luật áp dụng dựa trên các quy phạm xung đột Nếu các quy phạm này dẫn chiếu đến luật Nhật Bản, thì CISG sẽ là luật điều chỉnh hợp đồng, vì Nhật Bản là quốc gia thành viên của CISG.